Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn sử dụng tốt phương pháp trực quan nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qu...

Tài liệu Skkn sử dụng tốt phương pháp trực quan nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua bài động cơ đót trong dùng cho xe máy công nghệ 11

.DOC
38
5
50

Mô tả:

MỤC LỤC 1. Mở đầu………………………………………………………………...…..Trang 1.1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………......….....1 1. 2. Mục đích nghiên cứu…………………….…………………………....….......1 1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………...................2 1.4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………….........…......2 1.4.1. Nhóm nghiên cứu lí thuyết…………………………………….....................2 1.4.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn……………………………………….....…........2 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm...……………………………………..…….....2 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm……………………………….…......2 2.1.1. Bản chất của phương pháp dạy học trực quan…………………………..........2 2.1.2. Mục đích của phương pháp dạy học trực quan………………….…...….........3 2.1.3. Quy trình thực hiện phương pháp dạy học trực quan……………….…….......3 2.1.4. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học trực quan…………….…........3 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…………..............4 2.3. Sử dụng phương pháp trực quan………………………………………….......5 2.3.1. Các nguyên tắc cơ bản………………………………………………….......5 2.3.2. Áp dụng phương pháp dạy học trực quan………………….…….…….........12 2.4. Những kết quả ban đầu………………………………………….……...........18 3. Kết luận, kiến nghị……………………………………………………….........19 3.1. Kết luận……………………………………………………….....................19 3.2. Kiến nghị……………………………………………..………….................20 0 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài. Câu nói của một triết gia nổi tiếng “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn khoa học” đã như ánh sáng soi đường cho nhân loại để đạt được những thành tựu như ngày hôm nay. Nên phương tiện hết sức cần thiết để đi đến nhận thức là dụng cụ trực quan. Tích cực hóa hoạt động của học sinh là hướng dạy học hiện nay, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh tự tìm tòi, khai thác kiến thức, biết điều khiển kiến thức của mình bằng các đồ dùng trực quan, nên đồ dùng trực quan trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình dạy học. Vừa là phương tiện giúp học sinh khai thác kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng phong phú giúp học sinh dễ dàng tiếp nhận kiến thức. Công nghệ là một môn học ứng dụng không chỉ cung cấp thông tin kiến thức mà còn là môi trường tốt để các em khám phá, tìm tòi những mảng kiến thức thực tế thú vị. Đồng thời ở đó các em sẽ tìm thấy sở thích của bản thân giúp cho công tác định hướng nghề nghiệp sau này. Nên việc giáo viên bộ môn biết tìm tòi sáng tạo và có những phương pháp giảng dạy linh hoạt thì vẫn đem lại hiệu quả cao và gây nhiều hứng thú cho học sinh. Từ những nội dung trên tôi đã lựa chọn đề tài “ Sử dụng tốt phương pháp trực quan nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua bài : Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11”. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn khoa học, đề xuất nội dung và các biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học trực quan có hiệu quả. - Nghiên cứu những tiền đề lí thuyết và thực tiễn khoa học làm cơ sở cho việc giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu. - Đề xuất nội dung và cách thức sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11. - Tiến hành thực nghiệm để đánh giá khả năng thực thi và hiệu quả của những đề xuất. 1 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Đề xuất phương pháp trực quan vào dạy bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 1.4.1. Nhóm nghiên cứu lí thuyết. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thống kê, phân loại. 1.4.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn. - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn. - Phương pháp thực nghiệm. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Ở lứa tuổi THPT các em luôn muốn khám phá những điều mới lạ, muốn tự mình tìm ra những điều mình còn thắc mắc trong quá trình nhận thức. Các em có khả năng điều chỉnh các hoạt động của mình trong đó có hoạt động học tập, sẵn sàng tham gia các hoạt động khác nhau nhưng cần phải có sự hướng dẫn, điều chỉnh một cách khoa học và nghệ thuật của mỗi một giáo viên chúng ta. Sử dụng phương pháp trực quan giúp cho học sinh quan sát, chiếm lĩnh các kiến thức từ đó hình thành và phát triển tư duy tích cực, độc lập sáng tạo cho học sinh. 2.1.1. Bản chất của phương pháp dạy học trực quan: Là cách thức hệ thống các cách sử dụng các phương tiện trực quan để học sinh trực tiếp cảm giác, tri giác chúng, trên cơ sở đó phát hiện, khai thác và lĩnh hội kiến thức. Các phương tiện trực quan rất đa dạng và phong phú: - Vật thật, sản phẩm mẫu ....gọi chung là vật phẩm kĩ thuật. - Mô hình, hình vẽ sơ đồ (tĩnh hoặc động)...gọi chung là vật tượng hình. - Các thí nghiệm biểu diễn hoặc chứng minh. - Các hành động, thao tác hoặc kĩ thuật. - Các động hình mô phỏng bằng máy tính. 2 Với mỗi loại phương tiện trực quan cần có cách thức sử dụng khác nhau để học sinh có thể tiếp nhận và lĩnh hội được kiến thức tiềm ẩn trong đó. 2.1.2. Mục đích của phương pháp dạy học trực quan: Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học giúp học sinh quan sát với các mục đích sau: - Tiếp thu các kiến thức mới thông qua các hình ảnh và mô hình mà giáo viên đưa ra. - Vận dụng các kiến thức đã học cũng như kiến thức vừa tiếp thu để thực hành lắp đặt tạo nên các mạch điện hoàn chỉnh. - Quan sát để khắc sâu kiến thức. 2.1.3. Quy trình thực hiện phương pháp dạy học trực quan: Có thể tóm tắt quy trình thực hiện PPDH trực quan như sau: - Giáo viên giới thiệu phương tiện trực quan (tên phương tiện, cấu tạo/ phương pháp thể hiện các hiện tượng, sự vật...) - Giáo viên nêu yêu cầu về kiến thức, kỹ năng cần khai thác, cần có được từ phương tiện trực quan đó. - Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, sử dụng và khai thác kiến thức từ phương tiện trực quan thông qua các câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề. - Học sinh quan sát, nhận xét, rút ra kết luận về hiện tượng, sự vật qua phương tiện trực quan đã quan sát (tùy điều kiện, có thể làm việc cá nhân hoặc nhóm) - Giáo viên tổng hợp và chốt kiến thức, kỹ năng cần thiết. 2.1.4. Ưu điểm và hạn chế của nhóm phương pháp dạy học trực quan. Các phương pháp dạy học trực quan nếu được sử dụng khéo léo sẽ làm cho các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học tạo nên nguồn tri thức. Chức năng đó của chúng chủ yếu gắn liền với sự khái quát những hiện tượng, sự kiện với phương pháp nhận thức quy nạp. Chúng cũng là phương tiện minh hoạ để khẳng định những kết luận có tính suy diễn và còn là phương tiện tạo nên những tình huống vấn đề và giải quyết vấn đề. Vì vậy phuơng pháp dạy học trực quan góp phần phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. 3 Với phương pháp dạy học trực quan sẽ giúp học sinh huy động sự tham gia của nhiều giác quan kết hợp với lời nói sẽ tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu, làm phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát, óc tò mò khoa học của họ. Tuy vậy, nếu không ý thức rõ phương tiện trực quan chỉ là một phương tiện nhận thức mà lạm dụng chúng thì dễ làm cho học sinh phân tán chú ý, thiếu tập trung vào những dấu hiệu bản chất, thậm chí còn làm hạn chế sự phát triển năng lực tư duy trừu tượng của học sinh. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Theo quan niệm giáo dục trước đây dụng cụ trực quan là phương tiện đề giáo viên truyền thị kiến thức mới, minh họa cho kiến thức đã truyền đạt, còn với học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận và ghi nhớ. Theo quan niệm này thì đồ dùng trực quan chưa phát huy được hết vai trò của mình. Trong những năm gần đây, bộ môn công nghệ đã được quan tâm hơn trước. Có phòng học bộ môn, cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo cho môn học. Tuy nhiên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong đó khó khăn nhất là việc dạy học tích cực hóa hoạt động của học sinh trong việc quan sát, sử dụng đồ dùng trực quan, tuy đã triển khai nhưng hiệu quả đạt được không cao. Vấn đề này được giải thích ở một số nguyên nhân sau đây: Trước tiên là do quan niệm cho rằng môn công nghệ là môn học phụ, nên việc quan tâm tới môn này không cao. Thời gian đầu tư cho việc dạy và học còn ít, tâm lí không thấy quan trọng nên chỉ học mang tính chất đối phó. Thứ hai là do cơ sở vật chất tuy đã có đầu tư nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục. Ít khi các em được tham quan thực tế, như nhà xưởng, các chi tiết máy móc thiết bị nên kiến thức tiếp nhận của các em chủ yếu là qua sách vở. Thứ ba là ở một số trường chưa có giáo viên đúng chuyên ngành giảng dạy, một số giáo viên dạy Vật lí kết hợp cả công nghệ, tuy nhiên sẽ có phần hạn chế. Thứ tư do môn Công nghệ chưa tổ chức kì thi các cấp nên việc để phát huy tính tích cực của người học gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây, có tổ chức 4 cuộc thi khoa học kỹ thuật cho nhiều ngành, lĩnh vực tuy nhiên còn khó với học sinh, các đề tài còn có sự tham gia của giáo viên nhiều. Thứ năm là do ý thức, trách nhiệm của mỗi giáo viên, khi họ có chuyên môn vững, yêu nghề, có phương pháp giảng dạy tốt, luôn biết làm mới bài giảng của mình thì học sinh trên lớp sẽ hào hứng, thú vị với môn học. Và đồ dùng trực quan là một công cụ hỗ trợ hiệu quả cho việc dạy học đó. Thực trạng sử dụng đồ dùng trực quan đối với dạy học trước đây. 2.3. Sử dụng phương pháp trực quan vào việc dạy bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11. 2.3.1. Các nguyên tắc cơ bản khi sử dụng phương pháp trực quan. - Lựa chọn thận trọng các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu của tiết học. - Giải thích rõ mục đích trình bày những phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học theo một trình tự nhất định tuỳ theo nội dung bài giảng. - Các phương tiện đó cần chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo, cần giải thích rõ ràng những hiện tượng, diễn biến quá trình và kết quả của chúng, hướng dẫn học sinh quan sát để phát hiện nhanh những dấu hiệu bản chất của sự vật, hiện tượng. - Cần chuẩn bị đủ hoă ̣c thừa số lượng phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học phù hợp với nội dung của tiết học và số lượng học sinh. Không lạm dụng quá nhiều phương tiê ̣n gây sự phân tán trong quá trình học của học sinh. - Để học sinh quan sát có hiệu quả cần xác định mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ quan sát, hướng dẫn quan sát, cách ghi chép những điều quan sát được. Từ đó học sinh có thể rút ra những kết luận đúng đắn, có tính khái quát và biểu đạt những kết luận đó dưới dạng văn nói hoặc văn viết một cách rõ ràng, chính xác. - Bảo đảm cho tất cả học sinh quan sát sự vật, hiện tượng rõ ràng, đầy đủ, nếu có thể thì phân phát các vật thật cho họ. Để các đồ dùng trực quan dễ quan sát cần dùng các thiết bị có kích thước đủ lớn, bố trí thiết bị ở nơi cao, chú ý tới ánh sáng, tới những quy luật cảm giác, tri giác. - Chỉ sử dụng những phương tiện dạy học khi cần thiết. Sau khi sử dụng xong nên cất ngay đi để tránh làm mất sự tập trung chú ý của học sinh. 5 - Đảm bảo phát triển năng lực quan sát chính xác của học sinh. - Đảm bảo phối hợp lời nói với việc trình bày các phương tiện trực quan và phương tiện kỹ thuật dạy học. Có bốn hình thức phối hợp như sau: + Hình thức thứ nhất: Dưới sự chỉ đạo bằng lời của giáo viên, học sinh quan sát trực tiếp các sự kiện, hiện tượng. Từ đó, chính họ rút ra những thuộc tính, những mối quan hệ của chúng, những kết luận không cần suy luâ ̣n. + Hình thức thứ hai: Trên cơ sở quan sát các đối tượng và dựa vào tri thức đã học của học sinh, giáo viên dẫn dắt họ biện luận, nêu ra các mối liên hệ giữa những hiện tượng bằng các biện pháp quy nạp, từ đó rút ra kết luận. + Hình thức phối hợp thứ ba là biện pháp minh hoạ đối với những hiện tượng đơn giản. Bằng lời nói giáo viên thông báo trước những hiện tượng, sự kiện, kết luận rồi sau đó trình bày phương tiện trực quan nhằm minh hoạ điều đã trình bày. Hình thức này ngược với trường hợp thứ nhất. + Hình thức thứ tư là hình thức có tính chất suy diễn. Với nội dung phải nghiên cứu phức tạp thì giáo viên bằng lời nói mô tả diễn biến của hiện tượng, kích thích học sinh tái hiện những tri thức đã học có liên quan đến hiện tượng để giải thích hiện tượng đó. Tiếp đó, giáo viên trình bày phương tiện trực quan để minh hoạ nhằm khẳng định những điều đã trình bày của mình. Hình thức phối hợp này ngược với hình thức thứ hai. Hai hình thức phối hợp đầu đòi hỏi học sinh phải tiến hành hoạt động nhận thức tích cực hơn hai hình thức phối hợp sau. Song phải căn cứ vào tính chất nội dung, trình độ tri thức và trình độ phát triển của học sinh mà lựa chọn hình thức nào cho thích hợp. Việc soạn giáo án là một yếu tố có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của giờ dạy và có tính chất bắt buộc đối với mọi giáo viên trước lúc thực hiện giờ lên lớp. Đó là điều hiển nhiên mà ai cũng biết thế nhưng vấn đề này vẫn đang còn phải trao đổi thêm. Hiện nay trên trang giáo án điện tử của mạng Internet của tất cả các môn học đều có các giáo án sẵn và thế là một bộ phận giáo viên đã tải về sử dụng, không dành nhiều thời gian nghiên cứu, không trăn trở nhiều cho việc chuẩn bị phương án giảng dạy vì thế hiệu quả của giờ dạy còn nhiều hạn chế. Mặc dù chúng ta có trình độ Đại học nhưng điều đó không có nghĩa là việc hiểu và giảng dạy chương trình phổ thông là một việc quá dễ dàng. Chúng ta đã từng chứng kiến 6 có những giáo viên gần về hưu nhưng một số điều trình bày trong sách giáo khoa hiểu vẫn khôngthấu đáo. Dù sự giao lưu trao đổi giáo án giữa những người làm công tác giảng dạy hiện nay rất thuận lợi thì việc mỗi người tự mình trăn trở xây dựng phương án giảng dạy cho riêng mình là điều cực kì quan trọng không ai thay thế được. Tuy nhiên để có một giáo án có chất lượng cũng không phải là điều dễ dàng.Sau đây tôi xin được trao đổi thêm về vấn đề này.Tiến trình của việc soạn giáo ánđược thực hiện theo các bước sau: - Bước 1: đọc kĩ sách giáo khoa, tóm tắt cuối bài, câu hỏi và bài tập mà sách giáo khoa đưa ra: Tóm tắt chính là những kiến thức cốt lõi, câu hỏi và bài tập là những yêu cầu về kiến thức và kỹ năng của bài cần đạt được. - Bước 2: xác định mục tiêu, kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi của bài: Có người cho rằng, các kiến thức có trong bài cứ khai thác cho hết, thế là đạt mục tiêu bài học. Đó chỉ là quan niệm có tính chất đơn giản. Thực tế đây là điều rất quan trọng quyết định hướng đi của tiết dạy. Nếu xác định đúng bài giảng sẽ trở nên ngắn gọn, tinh giản, vững chắc, đạt được mục tiêu, nếu xác định không đúng bài giảng sẽ trở nên ôm đồm, dàn trãi, các kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi khắc hoạ không rõ nét, phân bố hợp lý, mất nhiều thời gian vào các kiến thức không trọng tâm, không hoàn thành được khối lượng kiến thức và kỹ năng, không đạt được mục tiêu bài học. Vậy làm thế nào để xác định đúng mục tiêu, kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi của bài. Điều nàyđòi hỏi phải đọc kĩ nội dung sách giáo khoa và xác định vị trí của bài trong hệ thống kiến thức của chương, của giáo trình. Trong đó tóm tắt sách giáo khoa, câu hỏi và bài tập cuối bài là gợi ý tốt về kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi mà học sinh phải nắm được sau khi học. - Bước 3: Đọc tài liệu tham khảo về các nội dung liên quan đến bài giảng thời gian không Sách giáo khoa viết rất cô đọng và súc tích. Nếu không dành thời gian thích đáng cho việc đọc tài liệu tham khảo thì những điều chúng ta trình bày sẽ rất đơn sơ, ít có sức thuyết phục và dễ mắc phải lỗi về mặt kiến thức, điều này thể hiện rõ trong các trường hợp thầy giáo giảng giãi các kiến thức, vận dụng kiến thức vào thực tế. Việc đọc các tài liệu tham khảo về nội dung liên quan đến bài giảng giúp chúng ta hiểu sâu, hiểu thấu đáo các kiến thức, điều đó làm cho việc trình bày bài giảng được thực hiện một cách tự tin, chính xác, sâu sắc.Tuy nhiên, trong giờ giảng chỉ trình bày ở một mức độ nhất định phù hợp với mục tiêu và yêu cầu của bài, của cấp học. Có giáo viên để thể hiện bài giảng sâu bằng cách đưa vào bài giảng quá nhiều ví dụ, nhiều kiến thức phức tạp, thậm chí dùng cả kiến thức đại học. Điều đó chỉ làm cho bài giảng trở nên ôm đồm gây rối trí mất thời gian vô ích của học sinh và đương nhiên không đạt được mục tiêu của bài học. Bài giảng sâu được thể hiện ở chỗ là người thầy làm cho học sinh hiểu rõ, hiểu đúng, nắm được 7 bản chất của kiến thức và vận dụng được các kiến thức của bài học để trả lời các tình huống lý thuyết, bài tập và thực tiễn đặt ra. Khi soạn bài phải lưu ý đến tính thực tiễn, xác định xem những kiến thức nào của bài cần có những ví dụ minh hoạ hoặc vận dụng để giải quyết các tình huống lý thuyết, tình huống thực tiễn và bài tập đặt ra. Điều này vừa là yêu cầu của bài giảng vừa làm tăng tính sinh động của giờ dạy. Tuy nhiên các dẫn chứng đưa ra chỉ cần vừa đủ, thật sự điển hình, tránh đưa quá nhiều làm cho bài giảng ôm đồm, mất thời gian không cần thiết. - Bước 4: Lựa chọn phương pháp giảng dạy.Phương pháp giảng dạy cần được vận dụng linh hoạt tuỳ từng nội dung cụ thể của bài. Dù dùng phương pháp nào đều phải thể hiện được phương châm: lấy học sinh làm trung tâm, rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Rèn luyện qua việc đọc thông tin, nghiên cứu hình vẽ, đồ thị, biểu đồ, thí nghiệm trong sách giáo khoa từ đó rút ra các kết luận cần thiết phục vụ nội dung bài dạy. Quan sát các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội để rút ra các kết luận về mặt kiến thức hoặc để giải thích nó. Những điều này chính là điểm mới trong phương pháp dạy học hiện nay. Trong quá trình soạn giáo án nên cố gắng tìm cách chuyển đổi nội dung bài dạy thành các tình huống có vấn đề để dẫn dắt học sinh khám phá kiến thức. Điều này vừa là yêu cầu của phương pháp dạy học vừa làm tăng tính sinh động của giờ dạy. Trong thực tiễn chúng ta thấy rằng, có những bài, những nội dung kiến thức khó chuyển thành các tình huống có vấn đề, quả đúng như vậy. Tuy nhiên trong trường hợp đó đòi hỏi người thầy phải dành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm tòi, cân nhắc sẽ giúp chúng ta thu được nhiều cơ hội thành công. Sự tâm huyết, làm việc có trách nhiệm, kiên trì quán triệt tinh thần nêu trên chúng ta sẽ dần dần có khả năng chuyển đổi các nội dung phức tạp thành các tình huống có vấn đề ngày càng dễ dàng. Tuy nhiên các câu hỏi đặt ra phải hợp lý, có tính định hướng, có tác dụng phát huy trí lực học sinh, tránh sử dụng các câu hỏi vụn vặt, quá đơn giản ít có ý nghĩa làm tốn thời gian và vô ích. - Khi soạn giáo án không quá lệ thuộc vào cách trình bày trong sách giáo khoa: Nói chung các bài giảng được trình bày theo cấu trúc của sách giáo khoa, tuy nhiên ở một số bài có thể được trình bày theo cấu trúc khác tùy vào phương án giảng dạy của giáo viên, thể hiện ở các điểm như: sắp xếp lại trình tự các phần, thêm hoặc bớt một số mục, một số kiến thức cần thiết. Nghiên cứu kĩ lưỡng để có thể đưa ra cách trình bày các kiến thức phức tạp trong sách giáo khoa một cách tương đối đơn giảnlàm giảm bớt sự căng thẳng, nặng nề, khó khăn cho học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức. Giờ giảng phải thể hiện được các yêu cầu đã nêu trong giáo án, sinh động, phân bố thời gian hợp lý, đảm bảo tinh giản vững chắc, phát huy được tính tích cực của học sinh 8 - Lời nói, trình bày của người thầy phải sinh động: Việc tạo cho giờ dạy có tính sinh động có ý nghĩa cực kì quan trọng, chúng ta đã từng chứng kiến cùng một bài dạy được trình bày với cung cách và ngôn ngữ giống nhau song do sự khác nhau trong trạng thái tâm lí mà có lớp giờ giảng rất sinh động, học sinh tiếp thu hào hứng, đưa lại hiệu quả cao, người ta thường gọi đó là bài giảng có hồn. Có lớp giờ giảng diễn ra một cách nhạt nhẽo, buồn tẻ, nặng nề, mặc dù hoàn thành nhưng hiệu quả rất thấp, những dấu ấn của bài giảng để lại trong trí não học sinh rất mờ nhạt, đó là những bài giảng không có hồn. Sự sinh động trong tiết học liên quan đến rất nhiều yếu tố: chuẩn bị bài kĩ lưỡng, nắm chắc, hiểu sâu, biết rộng những điều trình bày, lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm đối với học sinh. Thầy giáo phải luôn có tâm thế hào hứng đón chờ giờ dạy, thả hồn vào giờ dạy, có lòng bao dung, xử lí một cách mềm dẻo, có chừng mực đối với các tình huống không bình thường mà học sinh có thể bộc lộ trong giờ dạy. Sự hào hứng trong lời giảng của thầy sẽ khơi dậy, lôi cuốn sự hào hứng tiếp thu và xây dựng bài của học sinh. - Phân bố thời gian hợp lý với yêu cầu từng phần, từng đơn vị kiến thức làm cho bài giảng hài hòa cân đối. - Tinh giản thể hiện ở chỗ: các nội dung kiến thức được trình bày ngắn gọn, vừa đủ, không đưa vào các vấn đề phức tạp không cần thiết, không phù hợp với yêu cầu bài dạy và trình độ học sinh. Các ví dụ và hình ảnh minh họa cho bài giảng phải thật điển hình số lượng vừa đủ, nếu đưa vào quá nhiều giờ giảng sẽ trở nên ôm đồm nặng nề, tốn phí thời gian không cần thiết, đồng thời hạn chế thời gian diễn giải kiến thức. Có giáo viên tưởng rằng đưa được nhiều tranh ảnh, ví dụ sẽ làm cho sự thành công của bài giảng tăng lên. Thật là nhầm lẫn, giờ dạy tinh giản còn thể hiện ở chỗ là dành nhiều thời gian cho kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi còn kiến thức không phải trọng tâm không cần dành nhiều thời gian để giảng giải, khai thác,thậm chí có thể cho học sinh tự học, tự đọc. Lưu ý rằng có nhiều kiến thức bài dạy không phải trọng tâm lại dễ trình bày, dễ nêu vấn đề, có nhiều ví dụ và hình ảnh minh họa đã làm cho một số giáo viên tập trung nhiều thời gian vào đó làm cho nội dung trọng tâm phân bổ ít thời gian vì thế khắc họa một cách mờ nhạt hoặc không hoàn thành bài giảng. Kết thúc giờ dạy thầy giáo và học sinh phải có cảm giác thoải mái, nhẹ nhõm mới thực sự thành công. Nếu thầy giáo và học sinh phải làm việc cật lực, vội vã thì dù những điều thầy trình bày được chuẩn bị rất công phu thì hiệu quả giờ dạy vẫn thấp. - Vững chắc thể hiện: dạy đủ, đúng, sâu các kiến thức trọng tâm, học sinh hiểu và vận dụng được các kiến thức giải quyết được các tình huống lý thuyết, bài tập và thực tiễn đặt ra 9 - Trình bày bảng hợp lý: đảm bảo hài hoà giữa trả lời của học sinh với lời giảng và việc ghi bảng của thầy. Điều này tưởng như đơn giản nhưng thực tế không ít giáo viên thực hiện không thành công. Lỗi thường mắc phải trong trường hợp này là: thầy giáo nêu câu hỏi, học sinh trả lời, thầy giảng giải, phân tích xong và cuối cùng là ghi bảng. Cung cách này tạo ra sự khập khểnh, không hài hoà, không ăn khớp giữa hoạt động của thầy và trò, tốn thời gian và làm cho giờ giảng giảm bớt tính sinh động. Sau khi tiến hành giờ dạy cần rút kinh nghiệm bổ sung bên cạnh giáo án để các giờ dạy sau kế thừa được ưu điểm và tránh được các nhược điểm của giờ dạy mình đã trãi qua. Nói chung nếu để tâm, sau một giờ dạy chúng ta đều nhận ra được những điểm thành công và chưa thành công. Tuy nhiên do nhiều lý do mà chúng ta không ghi lại, qua thời gian dần dần quên đi, năm sau khi trở lại các tiết đó lại phải làm từ đầu, những nhược điểm của năm trước chúng ta tiếp tục mắc phải, chất lượng giờ dạy của năm sau so với năm trước không khác nhau bao nhiêu. Qua thời gian trình độ chuyên môn nghiệp vụ sẽ không thay đổi là mấy. Rút kinh nghiệm cần lưu ý các điểm sau: - Phân bố thời gian ở các phần. - Tính hợp lý của hệ thống câu hỏi dẫn dắt. - Tính rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, chính xác trong những lời diễn giảng của thầy.Sự tinh giản và vững chắc của giờ dạy. - Sự hợp lý, hài hòa giữa câu hỏi của thầy, trả lời của học sinh, lời giảng và ghi bảng của thầy. - Khả năng hiểu bài của học sinh và tính sinh động của giờ dạy. Từng nội dung đó phải chỉ ra được ưu, nhược điểm. Đặc biệt là nhược điểm phải đưa ra phương án khắc phục. Là những người trực tiếp làm công tác giảng dạy, chúng ta biết rằng, để có một giờ dạy tốt quả không dễ chút nào. Dù là người có năng lực giỏi, tận tụy và tâm huyết với nghề nghiệp vẫn không dám nói rằng, tất cả các giờ dạy đều thành công. Tuy nhiên với lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm, làm việc có phương pháp, luôn có chí tiến thủ chúng ta sẽ ngày càng có nhiều giờ dạy có hiệu quả cao. Phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập là một nguyên lí dạy học được đặt ra từ rất lâu vì tính ưu việt của nó. Việc chuyển đổi nội dung kiến thức bài học thành một hệ thống các tình huống có vấn đề đã khơi dậy sự tò mò tìm hiểu thế giới tự nhiên và xã hội, từ đó học sinh chủ động khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn của thầy giáo, giờ dạy trở nên hào hứng, sinh động, học sinh thực sự trở thành chủ thể của quá trình nhận thức, chất lượng, hiệu quả giờ dạy tăng lên rất 10 nhiều..Việc dạy học theo phương pháp nêu vấn đề mặc dù là yêu cầu bức thiết được đặt ra từ rất lâu song đến nay vẫn có tính chất thời sự và là một câu chuyện dài. Bởi vì để thực hiện nó hiệu quả không phải đơn giản mà liên quan đến nhiều yếu tố: tâm huyết người thầy, ý thức học tập của học trò, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đời sống của người thầy....Hệ thống câu hỏi trong dạy học có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc làm cho bài giảng thực sự tạo được tình huống có vấn đề từ đó phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Để xây dựng được một hệ thống câu hỏi đạt yêu cầu đòi hỏi người thầy phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu, tìm tòi, cân chỉnh, rút kinh nghiệm qua soạn bài, qua sự thể hiện ở các giờ lên lớp, qua nhiều năm công tác. Mỗi tiết dạy đưa ra nhiều hay ít câu hỏi, còn tùy thuộc vào từng bài và đối tượng học sinh. Điều quan trọng nhất là đưa ra được các câu hỏi cần thiết vừa đủ, có chất lượng, có tác dụng thiết thực tạo được các tình huống có vấn đề, kích thích tư duy của học sinh khám phá kiếnhức. Có bài hầu như chỉ phù hợp với phương pháp thuyết trình, tuy nhiên nếu chịu khó tìm tòi, cân nhắc chúng ta vẫn có cơ hội đưa ra được một số câu hỏi tạo tình huống có vấn đề làm tăng hiệu quả giờ dạy. Sau đây tôi xin đưa ra một số ý kiến về những câu hỏi nên và không nên sử dụng - Câu hỏi có tác dụng phát huy trí lực học sinh, đòi hỏi phải có sự động não mới làm sáng tỏ được những điều mà giáo viên đặt ra. - Câu hỏi dựa trên nền kiến thức cũ tạo cho học sinh kết nối, kế thừa giữa vốn kiến thức cũ với việc tìm hiểu kiến thức mới. - Câu hỏi có tính định hướng làm học sinh hiểu rõ, hiểu đúng yêu cầu thầy giáo đặt ra. - Cần thiết có hệ thống gợi ý, dẫn dắt để học sinh trả lời các ý, từ đó hoàn chỉnh vấn đề cần trả lời. Câu hỏi là phương tiện cần thiết cho việc dạy theo phương pháp nêu vấn đề. Tuy nhiên thực tế cho thấy để đưa ra được các câu hỏi đạt yêu cầu quả không phải dễ dàng. Có không ít câu hỏi sử dụng đã tạo ra tác dụng ngược lại làm cho giờ dạy nhạt nhẽo, lũng cũng, tốn phí thời gian, tạo dấu ấn rất mờ nhạt, không có giá trị phát huy tính tích cực của học sinh. Xin nêu ra đây một số ví dụ: Câu hỏi không dựa trên nền kiến thức cũ làm học sinh lúng túng và thường phản ứng bằng cách đoán mò hoặc đọc sách giáo khoa tìm câu trả lời. Câu hỏi không định hướng khó xác định hoặc xác định sai yêu cầu, điều này làm học sinh rối trí, mất nhiều thời gian đồng thời không hoàn thành được yêu cầu thầy giáo đặt ra. Dạng câu hỏi này thực tế dẫn tới người giải quyết vấn đề lại chính là thầy giáo. Đưa ra quá nhiều câu hỏi trong một bài học: làm cho bài giảng nát vụn ra, mất tính hệ thống, giờ giảng bị 11 căng, học sinh mệt mỏi, tốn nhiều thời gian, các kiến thức cốt lõi ít được giảng giải phân tích. Các câu hỏi quá đơn giản không có giá trị phát huy trí lực học sinh, các câu hỏi vụn vặt với những trả lời như: có, không, đúng ạ... loại câu hỏi này đưa ra vừa làm mất thời gian vừa làm cho giờ dạy đơn điệu nhạt nhẽo. Một trong những đổi mới trong phương pháp dạy học hiện nay đó là rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Sách giáo khoa trở thành một phương tiện dùng cho mục đích này và sử dụng trong các trường hợp sau: Nghiên cứu SGK để rút ra các kết luận về mặt lí thuyết hoặc so sánh các kiến thức các nội dung liên quan. Từ vốn kiến thức SGK để giải thích các tình huống lí thuyết hoặc thực tiễn đặt ra (ví dụ trả lời các lệnh trong SGK). Từ các hình ảnh, biểu đồ học sinh phân tích so sánh và rút ra các kết luận cần thiết theo yêu cầu của bài học. Hình ảnh, biểu đồ được sử dụng minh họa giúp học sinh hiểu thêm những điều mà thầy giáo trình bày. Một số nội dung được nêu trong sách giáo khoa không phải là kiến thức cốt lõi và đơn giản học sinh có thể tự đọc để hiểu. Hiện trạng đáng lưu ý hiện nay đó là một bộ phận giáo viên lạm dụng SGK trong quá trình giảng dạy thể hiện câu hỏi đưa ra mà nội dung trả lời có sẵn trong SGK, học sinh không cần phải động não, không cần ghi nhớ, chỉ cần đọc đúng là trả lời được vấn đề mà thầy giáo nêu lên. Giáo viên phát phiếu học tập, câu hỏi nêu lên trong phiếu học sinh chỉ cần dựa vào sách giáo khoa chép lại nguyên xi là đạt yêu cầu. Việc sử dụng SGK theo cung cách nêu trên sẽ dần dần hình thành tật xấu cho học sinh đó là cứ mỗi khi giáo viên đưa ra câu hỏi học sinh không động não, không tư duy mà nhanh chóng nhìn vào SGK để tìm câu trả lời. Với cách làm này giờ dạy diễn ra có vẻ trôi chảy nhẹ nhàng và hình như một bộ phận đáng kể giáo viên và nhiều em học sinh cũng thích cung cách này vì việc học tập diễn ra thật dễ dàng khỏe khoắn, thầy giáo thậm chí không cần đọc sách giáo khoa và soạn bài trước mà đến lớp cùng học trò đọc luôn thể. Tuy nhiên hiệu quả giờ dạy rất thấp, dấu ấn các kiến thức được khắc họa trong trí não học sinh rất mờ nhạt, không đạt được các yêu cầu và mục tiêu của việc dạy học. Các câu hỏi mà giáo viên đưa ra không những không phát huy tính tích cực mà trái lại làm cho học sinh có thói quen trông chờ ỷ lại, ít cố gắng, lười biếng. Người thầy cũng thấy việc dạy học thật nhẹ nhàng, không mất nhiều công sức cho việc soạn bài, không cần phải nghiên cứu học hỏi gì nhiều và cảm thấy rồi mọi việc cũng ổn. Thật là tai hại, thời gian cứ trôi đi còn người thầy “sống lâu mà không lên được lão làng” 2.3.2. Áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11. a. Các đồ dùng dạy học trực quan sử dụng trong bài dạy. - Hình ảnh về lịch sử động cơ đốt trong trên xe máy. 12 - Hình ảnh về động cơ trên xe, hình ảnh về xe máy đời đầu và hiện tại của các hãng xe. - Hình ảnh về một số xe 2 kỳ, xe 4 kỳ, số xi lanh trên xe. - Hình ảnh về dung dịch làm mát cho động cơ trên xe máy - Hình ảnh về cách phân bố trí động cơ trên xe. - Hình ảnh về xích, dây curoa trên xe. - Video mô phỏng và video cận cảnh về hoạt động hộp số trên xe tay ga. - Video hoạt động của động cơ trên xe honda. - Sơ đồ hệ thống truyền lực trên xe máy và sơ đồ khối về hệ thống truyền lực trên xe. b. Phương pháp dạy học trực quan sử dụng trong bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11. I. MỤC TIÊU. Sau bài học học sinh đạt được: 1. Kiến thức: - Đặc điểm và cách bố trí của ĐCĐT dùng cho xe máy. - Đặc điểm hệ thống truyền lực dùng trên xe máy. 2. Kỹ năng: - Nhận biết được vị trí các bộ phận của ĐCĐT dùng cho xe máy. 3. Thái độ: - Yêu thích môn học, linh hoạt, ham tìm hiểu. - Ý thức bảo vệ môi trường. 4. Định hướng phát triển năng lực: - Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng đồ dùng trực quan. II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH. 1. Chuẩn bị của giáo viên: - Thiết bị dạy học: Giáo án, thước dài, tranh ảnh, video, một số chi tiết động cơ trên xe máy - Học liệu: 13 + Sách giáo khoa Công nghệ 11 - Nhà xuất bản giáo dục. + Sách giáo viên Công nghệ 11 – Nhà xuất bản giáo dục. + Giáo trình động cơ đốt trong – Trường Đại học Công nghiệp TPHCM. 2. Chuẩn bị của học sinh: - Chuẩn bị về kiến thức: . Đọc trước bài mới. - Chuẩn bị tài liệu học tập, thí nghiệm thực hành, dụng cụ học tập: SGK, vở ghi, bút, thước. III. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP. 1. Ổn định tổ chức: (1’) Kiểm tra sĩ số, nhắc nhở học sinh - Sĩ số....................... vắng............ 2. Kiểm tra bài cũ: (5 phút) Câu hỏi: Nêu nhiệm vụ truyền lực các đăng, truyền lực chính và bộ vi sai của ôtô? - HS:……………………………………………………………………….. 3. Tiến trình bài học: a. Mở đầu bài dạy: Lịch sử ra đời của xe máy phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu, qua nhiều thời gian đã cải tiến về mẫu mã, công suất, vận tốc của xe. Vậy động cơ đốt trong được ứng dụng như thế nào trên xe máy, chúng ta cùng tìm hiểu bài 34. b. Bài dạy: HOẠT ĐỘNG 1 Tìm hiểu đặc điểm của động cơ đốt trong dùng cho xe máy (10 phút) (1) Phương pháp/Kĩ thuật dạy học: Trực quan, thuyết trình + Vấn đáp. (2) Hình thức tổ chức hoạt động: Cả lớp Nội dung I. Đặc điểm và cách bô trí động cơ đốt trong dùng cho xe máy. Hoạt động của giáo viên và học sinh - Giáo viên: giới thiệu về hình ảnh động cơ trên xe máy, hình 1. Đặc điểm của động cơ đốt trong dùng cho ảnh về xe máy đời đầu và hiện 14 xe máy. tại của các hãng xe. Hình ảnh về - Là Đc xăng 2 kì và 4 kì cao tốc. một số xe 2 kỳ, xe 4 kỳ. - Có công xuất nhỏ - Giáo viên: yêu cầu học sinh - Li hợp, hộp số bố trí trong một vỏ chung quan sát hình để tìm hiểu trả lời - Thường làm mát bằng không khí câu hỏi: - Số lượng xilanh ít. - Động cơ lắp trên xe máy là động cơ gì? - Đông cơ đốt trong dùng cho xe máy thường là loại mấy kì ? Vì sao lại sử dụng loại đó? - Đông cơ đốt trong dùng cho xe máy thường làm mát bằng gì?vì sao? - Giáo viên nêu các loại xe làm mát bằng nước hiện nay. - Giáo viên giới thiệu hình ảnh về số xi lanh trên xe và hỏi học sinh: Số lượng xilanh? - Hệ thống truyền lực bố trí như thế nào? Giáo viên: Kết luận. HOẠT ĐỘNG 2 Tìm hiểu về các cách bố trí động cơ trên xe máy (10 phút) (1) Phương pháp/Kĩ thuật dạy học: Thuyết trình + Vấn đáp + Trực quan (2) Hình thức tổ chức hoạt động: Cả lớp Nội dung 2. Bố trí động cơ trên xe máy Hoạt động của giáo viên và học sinh - Liên hệ thực tế em hãy cho biết động 15 cơ xe máy thường được đặt ở đâu? a. Động cơ đặt ở giữa xe - Giáo viên giới thiệu hình ảnh về - Ưu điểm: + Phân bố đều khối lượng trên xe. phân bố động cơ trên xe. + ĐC được làm mát tốt. Giáo viên kết luận: - Nhược điểm: +Truyền moomen từ động cơ Học sinh ghi kết luận. đến bánh sau xa nên hệ thống truyền lực phức - Phát phiếu học tập cho hs tìm hiểu tạp. sau đó lên trình bày. + Nhiệt thải từ động cơ ảnh hưởng đến người - Nhóm trình bày, các nhóm còn lại lái. suy nghĩ đặt câu hỏi. Câu trả lời b. Động cơ đặt lệch về phía đuôi xe đúng, câu hỏi hay các nhóm đều được Ưu nhược điểm ngược lại so vơi các bố trí cộng thêm điểm. động cơ ở giữa xe. - Nhận xét, đánh giá. HOẠT ĐỘNG 3 Tìm hiểu đặc điểm của hệ thống truyền lực (10 phút) (1) Phương pháp/Kĩ thuật dạy học: Trực quan, thuyết trình + Vấn đáp. (2) Hình thức tổ chức hoạt động: Cả lớp Nội dung Hoạt động của giáo viên và học sinh II. Đặc điểm của hệ thống truyền lực trên xe - Giáo viên giới thiệu hình ảnh về máy sơ đồ hệ thống truyền lực trên xe 1. Sơ đồ hệ thống truyền lực trên xe máy máy, video hoạt động của động cơ trên xe. - Yêu cầu học sinh quan sát sơ đồ và video hoạt động của hệ thống truyền lực trên xe máy. 2. Đặc điểm hệ thống truyền lực trên xe máy - Yêu cầu học sinh đọc SGK nội - Động cơ, li hợp, hộp số bố trí trong một vỏ dung đặc điểm của hệ thống chung. truyền lực, trả lời nhanh các câu - Li hợp được điều khiển bằng tay hoặc tự động. 16 - Có hộp số cơ khí và hộp số tự động, có 3,4,5 cấp hỏi trắc nghiệm (Gấp SGK) tốc độ, không có số lùi, thay đổi được lực kéo và - Học sinh thảo luận trả lời phiếu. tốc độ của xe. - Giáo viên nhận xét các phiếu trả - Động cơ đặt giữa xe truyền lực đến bánh sau lời, đưa ra kết luận. bằng xích. - Giáo viên tổng hợp đưa ra các - Động cơ đặt lệch về phía đuôi xe truyền lực đến đặc điểm trên hệ thống truyền lực bánh sau bằng trục các đăng hoặc dây curoa. trên xe máy. HOẠT ĐỘNG 4 Phiếu học tập (5 phút) Câu hỏi: Chọn đáp án đúng. Đáp án Câu 1. Động cơ đốt trong dùng cho xe máy là: Câu 1:........... a.Động cơ 2 kì b.Động cơ 4 kì Câu 2:........... c.Động cơ 5 kì d.Cả a và b Câu 3:........... Câu 2. Động cơ trên xe máy thường Câu 4:........... làm mát bằng gì? a.Bằng nước b.Bằng không khí và nước Câu 5:.......... c.Bằng không khí d.bằng hơi nước Câu 3. Có mấy cách bố trí động cơ trên xe máy? a. 1 cách b. 2 cách c. 3 cách d. 4 cách Câu 4. Động cơ đặt ở giữa xe truyền lực đến bánh sau xe là: a. Xích và các đăng b. Xích c. Các đăng d. Đai Câu 5. Li hợp, hộp số được bố trí như thế nào? a.Một vỏ chung b.Riêng biệt c.Cả a và b d.Cùng một nơi IV. TỔNG KẾT VÀ HƯỚNG DẪN HỌC TẬP. 17 1. Tổng kết: (2 phút) - Tóm lược lại nội dung học tập. - Nhận xét ý thức giờ học. 2. Hướng dẫn học tập: (2 phút) - Học bài cũ. - Xem trước nội dung tiếp theo của bài 36 (SGK – Trang 149, 152). 2.4. Những kết quả ban đầu * Như vậy sau khi sử dụng phương pháp trực quan vào dạy bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy tôi nhận thấy: - Bài dạy đảm bảo được ba yêu cầu cần đạt: Kiến thức, Kĩ năng, Thái độ. - Bài giảng hay hơn, có sức thuyết phục hơn, gây được hứng thú học tập cho học sinh. - Học sinh chủ động tìm tòi, sáng tạo hơn, làm việc nhiều hơn, tránh việc thụ động tiếp nhận kiến thức. - Học sinh thấy thích thú hơn khi học bộ môn và ham muốn thể hiện hiểu biết của mình về những vấn đề giáo viên đưa ngoài nội dung trong sách. - Các em có thêm hiểu biết về kiến thức của các phương tiện giao thông. - Qua bài dạy có thể hướng nghiệp cho học sinh, sau khi tốt nghiệp học nghề sửa chữa xe máy để làm ở các cửa hàng hoặc tự mở cửa hàng. Trước khi áp dụng sáng kiến ở các lớp 11A1, 112, 11A3 Lớp 11A1 Đánh giá xếp loại Giỏi Khá T.bình 3 hs (7,1%) 20 hs (47,6%) 19 hs (45,3%) Yếu 0 Kém 0 18 11A2 11A3 2 hs(6,3%) 16 hs (50,0%) 3 hs (8,1%) 18 hs (48,6%) 14 hs(43,7%) 16 hs (43,3) 0 0 0 0 Sau khi áp dụng sáng kiến ở các lớp 11A1, 112, 11A3 Lớp 11A1 11A2 11A3 Giỏi 9 hs (21,4%) 6 hs(18,8%) 8 hs(21,6%) Đánh giá xếp loại Khá T.bình 30 hs (71,4%) 3 hs (7,2%) 22 hs (68,8%) 4 hs (12,4%) 25 hs (67.6%) 4 hs (10.8%) Yếu 0 0 0 Kém 0 0 0 Kết quả trên cho thấy với các lớp sử dụng phương pháp dạy học trực quan các em dễ dàng tiếp nhận bài học tốt hơn, ghi nhớ bái tốt hơn. 3. Kết luận, kiến nghị 3.1. Kết luận Để có bài dạy hay có sức lôi cuốn và tạo được sự thú vị cho học sinh thì bài dạy đó không thể thiếu phương pháp trực quan. Đồ dùng trực quan không chỉ cho các em dễ dàng tiếp nhận kiến thức mà còn giúp các em nhớ lâu hơn về một vấn đề. - Ngoài ra để gây hứng thú cho người học thì giáo viên cần bổ sung mở rộng thêm về các kiến thức bên ngoài sách giáo khoa, những kiến thức mới (Công nghệ luôn luôn được đổi mới) để phù hợp với thực tế. Chẳng hạn như ở sách giáo khoa có viết xe máy có số lượng xilanh ít (1 hoặc 2 xilanh) nhưng thực tế bây giờ đã có những xe có 3 hay 4 xilanh. Động cơ thường làm mát bằng không khí nhưng hiện nay một số xe tay ga làm mát bằng dung dịch bao gồm nước và một số chất phụ gia khác. Hay về ưu nhược điểm của cách phân bố động cơ đặt ở giữa xe và lệch về phía đuôi xe. Hộp số trên xe máy không chỉ có 3,4 cấp tốc độ mà đã có xe 5 cấp tốc độ và chuẩn bị tháng 7 này ra đời xe 6 cấp tốc độ. Việc xe sử dụng dây curoa thay cho trục cacđăng với các xe tay ga.... - Thêm vào đó là các phương pháp dạy học tích cực khác như các em tự làm việc với tài liệu, làm việc cá nhân sau đó thảo luận nhóm. Các em được lên bảng thuyết trình, được khuyến khích đặt câu hỏi, cộng điểm giữa các cá nhân, các nhóm dẫn 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan