QUẢN LÍ CHỈ ĐẠO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
CÁ BIỆT VÀ GIẢM NGUY CƠ BỎ HỌC CỦA HỌC SINH
TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
---------------------0O0------------------A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU.
Một trong những tư tưởng đổi mới Giáo dục và Đào tạo hiện nay là tăng cường
giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học
của học sinh được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản
của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật giáo dục đã xác định: “ Mục tiêu của giáo dục phổ
thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình
thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, thao gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… ( Điều 27-Luật giáo dục).
Gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Báo chí, truyền hình đã
lên tiếng khá nhiều về hiện tượng học sinh cá biệt, học sinh bỏ học tụ tập băng nhóm,
gây gổ đánh nhau, có vụ dẫn đến tử vong. Vấn đề này đã trở thành một mối quan ngại
của dư luận, nhất là đối với gia đình và nhà trường.
Như chúng ta đã biết Giáo dục là một khoa học và là một nghệ thuật. Trong đó
việc giáo dục, quản lý học sinh cá biệt và ngăn chặn nguy cơ bỏ học của học sinh là
một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở
thành một thách thức lớn không chỉ riêng của ngành Giáo dục và Đào tạo.
Hội nhập kinh tế ngoài mặt tích cực nó còn làm phát sinh những vấn đề mà
chúng ta cần quan tâm: Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, hội nhập kinh tế quốc tế
đưa vào nước ta những sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, reo rắc lối sống tự do tư
sản, làm xói mòn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay
một số bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu
1
cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong
cuộc sống, ý chí kém phát triển, không có tính tự chủ dễ bị lôi cuốn vào những việc
xấu.
Trong nhà trường phổ thông nói chung và các Trung tâm giáo dục thường xuyên
nói riêng, số học sinh vi phạm đạo đức, tình trạng học sinh bỏ học sa ngã vào các tệ
nạn xã hội có chiều hướng gia tăng. Một số cán bộ quản lí, giáo viên chưa thật sự là
tấm gương sáng cho học sinh noi theo, chỉ lo chú trọng đến việc dạy tri thức khoa
học, thờ ơ không chú ý đến việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh.
Xuất phát từ các lí do trên, qua thực tế công tác quản lý và giảng dạy học sinh ở
Trung tâm giáo dục thường xuyên, tôi nhận thấy việc nắm rõ thực trạng và đề ra các
giải pháp về công tác giáo giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ
học của học sinh là một nhiệm vụ hết sức cần thiết của người cán bộ quản lí giáo dục.
Đó là lý do tôi chọn đề tài này.
II/ THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1/ Những biểu hiện của học sinh cá biệt :
Là những học sinh lười biếng ở tất cả các môn học hoặc một vài môn học nào
đó, các em thường lơ đãng trong giờ học, không chịu nghe thầy cô giảng bài, kiểm tra,
thi cử thì quay cóp hoặc nhờ người khác làm hộ … Có em lại không chấp hành nội
quy, không tham gia các phong trào hoạt động đoàn thể, thường xuyên đi học trễ, lừa
dối cha mẹ, thầy cô, bạn bè, thậm chí còn tụ tập, la cà ở các hàng quán, gây gỗ và
đánh nhau …đó là những biểu hiện chung nhất của “ học sinh cá biệt”. Ngoài ra, điều
dễ nhận thấy nhất ở học sinh cá biệt là cách nói năng, đi đứng, ăn mặc, hành động rất
khác thường ở các em và những em này thường luôn tạo sự chú ý đối với người khác.
Vì thế chúng ta phải quan tâm đến những biểu hiện của học sinh để giáo dục kịp thời
nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục,
ảnh hưởng đến phong trào thi đua của nhà trường, trật tự trị an xã hội, hạnh phúc gia
đình và nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến tương lai tươi đẹp của chính bản thân các
em.
2
2/ Nguyên nhân dẫn đến tình trạng cá biệt của học sinh :
a. Môi trường gia đình :
Môi trường gia đình bao gồm các giá trị văn hóa mà cộng đồng gia đình góp
sức tạo lập, xây dựng, giữ gìn và phát triển tạo nên không gian sống riêng để tiếp
nhận hoặc từ chối các tác động xã hội. Môi trường văn hóa gia đình có tính bền vững
và kế thừa. Môi trường gia đình góp phần rất lớn trong việc hình thành nhân cách của
học sinh. Môi trường gia đình tốt, có văn hóa, cha mẹ biết quan tâm, thương yêu con
cái một cách đúng mức thì sẽ tạo nên một môi trường văn hóa lành mạnh cho các em.
Môi trường gia đình không bền vững, ẩn chứa nhiều yếu tố tiêu cực tất yếu dẫn đến
nhận thức sai lầm, góp phần tạo ra những tính cách xấu. Cụ thể là những gia đình
thiếu lành mạnh như cha mẹ li hôn, vợ chồng mâu thuẫn với nhau, gia đình có người
nghiện ngập ma túy, rượu chè, cờ bạc … thường đối xử thô bạo với các em thì tỉ lệ
học sinh vi phạm nội quy, vi phạm đạo đức là rất cao. Bởi vì nếu các em sống trong
một gia đình bất ổn như thế thì các em sẽ cảm thấy mình ít được quan tâm, ít được
giáo dục, các em mất đi chỗ dựa vững chắc từ phía gia đình nên dễ hư hỏng, sống bất
cần, phó mặc cho cuộc sống dẫn đến sa ngã vào các tệ nạn xã hội, không làm chủ
được bản thân. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hình thành nhân cách cho học
sinh. Bên cạnh đó, do địa bàn dân cư, đại bộ phận dân cư sống bằng nghề nông có
nhiều gia đình vì cuộc sống quá khó khăn, thiếu thốn kinh tế nên các em phải lo toan
cuộc sống bằng cách phụ gíup bố mẹ để kiếm tiền, các em không có điều kiện để học
tập nên lực học sa sút dẫn đến chán nản lười học. Mặt khác một số gia đình có điều
kiện, kinh tế khá giả, cha mẹ chỉ lo làm ăn kiếm tiền, ít quan tâm đến việc giáo dục
con cái mà chỉ bỏ tiền ra chiều theo nhu cầu không chính đáng của con cái. Chính vì
sự nuông chiều quá mức của cha mẹ, chỉ biết làm cho các em thỏa mãn những tính
hiếu kỳ, những ước muốn kỳ quặc … từ đó sẽ làm nảy sinh ở các em tính lười lao
động, chỉ biết hưởng thụ. Từ việc cha mẹ thiếu quan tâm, kiểm tra, đôn đốc, nhắc
nhở, động viên các em trong học tập đã làm cho các em không rèn luyện được thói
quen trong học tập cũng như sinh hoạt tập thể.
3
b. Môi trường nhà trường :
Môi trường nhà trường là nhân tố quan trọng tác động mạnh mẽ đến việc hình
thành nhân cách, đạo đức cho học sinh. Việc giáo dục, hình thành nhân cách, phẩm
chất đạo đức cho học sinh là sự thống nhất hữu cơ giữa dạy chữ và dạy người. Giáo
dục đạo đức và hình thành nhân cách là hệ thống biện pháp đồng bộ từ truyền thụ kiến
thức bộ môn đến các hoạt động giảng dạy và quản lý giáo dục trong nhà trường. Do
đó không ai có thể thay thế nhà trường trong việc hình thành năng lực tư duy, rèn
luyện phương pháp tư duy, quá trình tích lũy tri thức, hình thành các phẩm chất, nhân
cách làm người cho học sinh. Vì thế nhà trường không những bồi bổ cho các em
những kiến thức sách vở mà cần phải trang bị được kỹ năng sống cho các em.
Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng là một yếu tố quyết định.
Nếu thầy cô quan tâm sâu sát học sinh, nắm vững tâm lý học sinh thì sẽ dễ dàng giáo
dục, thuyết phục các em. Ngược lại, nếu thầy cô không tìm hiểu các em, có những
thành kiến nghiêm khắc đối với các em thì sẽ làm cho các em chán nản, không thích
học. Vì thế giáo viên cần tránh đối xử thô bạo, trách móc các em và phải tôn trọng các
em.
c. Môi trường xã hội :
Môi trường xã hội là sự tác động thường xuyên, hằng ngày của các hiện tượng
chính trị, kinh tế, xã hội đối với nhận thức, hiểu biết của học sinh, điều chỉnh thế giới
quan, nhân sinh quan của các em theo các chiều hướng khác nhau, đa dạng và khá
phức tạp, có khi các em rất khó phân biệt được thật giả, tốt và xấu, hiện tượng và bản
chất. Môi trường xã hội chính là thuốc thử hàng đầu thử thách trí tuệ, nhân cách,
phẩm giá con người đối với học sinh.
Thực trạng xã hội hiện nay còn nhiều tệ nạn xã hội ( cướp giật, ma túy, rượu
che, cờ bạc …) nếp sống của con người chưa cao, thiếu hiểu biết. Một số cán bộ công
chức thiếu gương mẫu, tham ô, hối lộ. Một số gia đình cha mẹ làm ăn bất chính ảnh
hưởng đến lối sống các em. Cha mẹ không gương mẫu thiếu sự quan tâm đến các em,
một số người đã lợi dụng phương tiện thông tin truyền bá những văn hóa phẩm xấu,
4
những bài viết, hình ảnh có suy nghĩ lệch lạc … kích thích sự tò mò của học sinh làm
ảnh hưởng xấu đến việc học tập của các em.
Học sinh tiếp nhận tác động ảnh hưởng của 3 môi trường gia đình – nhà trường
– xã hội. Khi đó các em sẽ tích hợp và phản ánh tác động lại vào 3 môi trường đó. Cụ
thể là nếu tác động tích cực thì các em sẽ trở thành những người con ngoan, trò giỏi,
là một công dân có ích cho xã hội. Ngược lại nếu tác động tiêu cực, có một bộ phận
các em sẽ đi vào con đường hư hỏng, trở thành những con người ngỗ nghịch, những
học sinh cá biệt làm ảnh hưởng đến gia đình, nhà trường và xã hội đặc biệt ảnh hưởng
đến chính tương lai của các em.
3/Những nguyên tắc giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt:
Phải đảm bảo sự nhất trí cao về yêu cầu giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt
của những thành viên trong nội bộ nhà trường và sự thống nhất phối hợp giáo dục
học sinh cá biệt giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
4/ Các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt ở nhà trường
a..Phương pháp thuyết phục
Là phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng những
niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau:
- Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công dân
cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ…
- Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể
chuyện, đọc sách báo, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường.
- Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên
những hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn kịp thời những
mặt chưa tốt.
b.Phương pháp rèn luyện
5
Là phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em những
thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành
hành động thực tế, cụ thể:
- Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường:
dạy học trên lớp, lao động và hoạt động đoàn thể.
- Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện
pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong
của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt, vì
vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học sinh tham gia tốt
phong trào này nhân dịp các ngày lễ lớn trong năm học.
c.Phương pháp thúc đẩy
Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “ cưỡng bách đạo đức bên
ngoài ” để điều chỉnh, khuyến khích những “ động cơ kích thích bên trong” của học
sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh.
- Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu đối với học
sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có
những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường.
- Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh
làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em
khác noi theo.
- Xử phạt : là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính
chất cưỡng bách đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những
hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh
khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này.
Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và
đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết điểm, cần
6
phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ
nhục hoặc xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự học sinh.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Thực tế cho thấy các em “ học sinh cá biệt về đạo đức” là những em yếu về ý thức
kỷ luật, khó giáo dục dẫn đến kết quả học tập, tu dưỡng đạo đức của các em không đạt
yêu cầu, đây là đối tượng có nguy cơ bỏ học cao.Việc giáo dục học sinh cá biệt là rất
khó khăn, chúng ta không thể bỏ mặc các em mà cần phải có trách nhiệm và quan tâm
sâu sát hơn để giúp các em trở thành những con ngoan, trò giỏi, những người công
dân có ích cho xã hội. Vậy làm thế nào để giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt thành
những học sinh ngoan? Phải có biện pháp và cách làm như thế nào để thực hiện được
mục tiêu đó? Đó là vấn đề mà mỗi người giáo viên đặc biệt là người CBQL phải suy
tư, trăn trở và phải tìm cho được giải pháp tối ưu nhất để giải quyết dựa trên những
biểu hiện tiêu cực của các em.
1/ Giáo viên cần phải hiểu rõ tâm lý lứa tuổi học sinh
Giáo viên không những là người truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn là
một lực lượng nồng cốt, quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho học sinh. Do
đó giáo viên cần phải hiểu được tâm lý lứa tuổi, ước muốn, nguyện vọng, sở thích …
của các em thì mới có thể giáo dục học sinh một cách toàn diện. Đặc biệt là việc giáo
dục các em học sinh cá biệt. Nếu người giáo viên không có nghệ thuật trong cách cư
xử với các em thì các em rất dễ dàng bị kích động, không làm chủ được bản thân.Ví
dụ : Một học sinh cá biệt thường bỏ tiết đi chơi hoặc đánh bạn cùng lớp thì giáo viên
không nên vội trách mắng, la rầy trước tập thể lớp mà nên tìm hiểu rõ nguyên nhân
rồi từ từ dùng lời lẽ để thuyết phục, giáo dục các em. Có như vậy các em mới thấy
được sự quan tâm của thầy cô và từ đó giáo viên mới có thể giúp các em học sinh cá
7
biệt dần nhận ra những thói hư, tật xấu của mình để tự điều chỉnh. Bởi vì ở lứa tuổi
này, các em tự thấy rằng mình đã là người lớn, không còn trẻ con nữa nên các em rất
muốn được tự hành động độc lập để khẳng định mình. Các em không muốn bị gò bó
và không muốn người khác xem mình là trẻ con. Các em cần được tôn trọng nhân
cách, cần được phát huy tính độc lập nhưng cũng rất cần đến sự chăm sóc chu đáo và
đối xử tế nhị. Chính vì thế, nếu giáo viên thấy cái sai của học sinh mà vội vàng kết
luận, trách mắng, không hiểu được sự phát triển tâm lý của các em thì chắc chắn việc
giáo dục các em học sinh cá biệt sẽ không thành công. Và có thể các em sẽ quay
ngược lại trách mắng thầy cô và nghiêm trọng hơn nữa là có những hành động xấc
xược đối với thầy cô. Do đó giáo viên ngoài có trình độ về chuyên môn đồng thời
phải là người hiểu biết và nắm vững đặc điểm tâm sinh lí học sinh mới đưa ra được
những biện pháp hữu hiệu để giáo dục học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học của
học sinh.
2/ Xây dựng môi trường trong sáng để giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt và
giảm nguy cơ bỏ học của học sinh
a. Ý nghĩa
Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức
cho học sinh cá biệt là: cảnh quan sư phạm, làm sao để nhà trường thật sự là “nhà
trường”, tự đúng nghĩa của nó là mang yếu tố giáo dục. Giáo dục nhà trường giữ vai
trò chủ đạo vì nó định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục hình thành nhân cách của
học sinh, khai thác có chọn lọc những tác động tích cực và ngăn chặn những tác động
tiêu cực từ gia đình và xã hội.
b. Nội dung
- Tổ chức, sắp xếp, tu sửa cơ sở vật chất tạo cảnh quan sư phạm của nhà trường luôn
xanh, sạch, đẹp làm sao cho toàn trường toát lên ý nghĩa giáo dục đối với học sinh.
- Thực hiện tốt cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
nhằm tạo nên bầu không khí giáo dục trong toàn trường và ở mỗi lớp học, xây dựng
mối quan hệ tốt giữa các thành viên trong trường: giữa thầy với thầy, giữa thầy với
8
trò, giữa học sinh với nhau. Trong các mối quan hệ đó phải thực sự đúng mực, hài
hòa; giáo viên thương yêu tôn trọng học sinh. Học sinh không hỗn xược, không khúm
núm sợ sệt, yêu mến và tin tưởng thầy cô. Học sinh đối với nhau thì đoàn kết, thân ái
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, không thù hằn, bè cánh đánh nhau, không nói tục chửi bậy,
không tham gia vào tệ nạn xã hội. Ngoài ra cần phải:
- Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh có kết quả học tập, ý thức tổ chức kỷ luật
kém để tìm ra biện pháp giáo dục, giúp đỡ, động viên để các em phấn đấu tốt hơn.
- Đề cử, động viên những em học khá, giỏi giúp đỡ những bạn học còn yếu và trung
bình tiến bộ hơn trong học tập bằng cách tổ chức học nhóm, truy bài, giải đáp một số
thắc mắc trước khi vào tiết học.
- Trao đổi với giáo viên bộ môn giúp các em còn yếu bộ môn đó cố gắng học tập để
tiến bộ hơn.
c. Cách làm
* Đối với Ban giám đốc:
- Phải xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt ngay từ đầu
năm học trên cơ sở dựa vào tình hình thực trạng đạo đức của học sinh, tình hình thực
tế của địa phương để đề ra nội dung, biện pháp, thời gian, chỉ tiêu cho phù hợp.
- Phải thường xuyên nắm bắt tình hình tư tưởng đạo đức của học sinh cá biệt
một cách cụ thể bao gồm tình hình có tính chất thường xuyên, lâu dài, phổ biến và
những tình hình có tính chất thời sự, cá biệt có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực
đối với học sinh.
- Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, đầu tư ngân sách để cải tạo cảnh quang sư
phạm: trồng cây xanh, trang trí các khẩu hiệu, nội quy của từng phòng học và trong
khu vực trường.
- Thường xuyên tổ chức lao động vệ sinh trường lớp, trồng cây xanh… thông
qua buổi lao động cần giáo dục đầy đủ mục đích, ý nghĩa công việc cho học sinh, phải
9
có phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị lớp, quy định rõ thời gian và kết quả
phải đạt được, biểu dương kịp thời những
- Tổ chức các phong trào thi đua thường xuyên, liên tục, bảo đảm tính công
bằng, trung thực, phù hợp với năng lực và nhu cầu của các em.
- Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm xây dựng lớp thành những tập thể vững mạnh,
có lực lượng cốt cán làm nòng cốt, làm hạt nhân cơ bản của lớp, là trợ thủ đắc lực cho
giáo viên chủ nhiệm.
* Đối với giáo viên
- Phải gương mẫu về mọi mặt, đoàn kết, nhất trí thành một khối thống nhất có
tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với học sinh cá biệt.
- Phải không ngừng tự hoàn thiện nhân cách của mình, phải thương yêu, tôn
trọng, tin tưởng học sinh, có ý thức trách nhiệm về mọi hành vi ngôn ngữ, cử chỉ của
mình đối với học sinh cá biệt, đồng nghiệp, bản thân phải là tấm gương sáng cho học
sinh học tập và noi theo.
* Đối với Đoàn thanh niên:
- Chủ động phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn tổ chức tốt
phong trào thi đua học tập, rèn luyện và tổ chức các hội thi văn nghệ, thể thao có ý
nghĩa giáo dục nhân các ngày lễ lớn trong năm.
- Giáo dục tinh thần yêu nước cho các em thông qua việc sưu tầm địa chỉ đỏ,
thăm hỏi các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhận nuôi “đỡ đầu” mẹ liệt sĩ ở địa phương.
3/ Đưa môn GDCD vào giảng dạy ở TTGDTX
Đây là môn học không bắt buộc có tính chất khuyến khích đối với các Trung tâm
GDTX. Từ tình hình thực tế và thực trạng xã hội hiện nay đạo đức học sinh có chiều
hướng giảm sút và nạn bạo hành học đường ngày một gia tăng, hơn nữa đối tượng
học sinh vào học tại các Trung tâm GDTX phần lớn có lực học yếu kém, thiếu sự
quan tâm, dạy dỗ của gia đình nên ý thức tổ chức, kỷ luật của các em còn nhiều hạn
chế. Là CBQL và giáo viên giảng dạy, công tác tại các Trung tâm ngoài truyền đạt
10
kiến thức trong sách giáo khoa còn có nhiệm vụ rất quan trọng đó là dạy cho các em
kỷ năng sống, kỷ năng giao tiếp để các em dần hoàn thiện mình. Vì lẽ đó chúng tôi đã
quyết định và thống nhất đưa bộ môn GDCD vào chương trình dạy học chính khoá
của nhà trường. Bởi vì môn GDCD có vai trò, vị trí rất quan trọng trong giáo dục
nhân cách học sinh cá biệt, đặc biệt trong việc xây dựng tư cách và trách nhiệm công
dân cho học sinh. Thông qua các bài học người giáo viên sẽ trang bị, hình thành cho
học sinh những phẩm chất, những chuẩn mực, hành vi đạo đức cần thiết trong cuộc
sống một cách có hệ thống.
4/ Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp là giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức cho học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học của học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm có vai trò rất to lớn trong công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh cá biệt vì GVCN là người quản lý toàn diện học sinh của lớp được phụ
trách, là cầu nối giữa Ban giám đốc với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, các
giáo viên bộ môn với tập thể lớp, là người cố vấn tổ chức các hoạt động tự quản của
lớp, đồng thời là người đứng ra phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện tốt mục
tiêu giáo dục của nhà trường. Để làm tốt chức năng và nhiệm vụ của mình thì giáo
viên chủ nhiệm cần phải:
- Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp, tình hình học sinh cá biệt góp phần làm cho công
tác chủ nhiệm đạt kết quả cao: Đầu năm học GVCN phải có những thông tin khái quát
về gia đình học sinh cá biệt như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế
gia đình, giáo dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái... Việc tìm
hiểu này sẽ giúp GVCN kết hợp tốt với gia đình trong công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh cá biệt. Đồng thời GVCN phải nắm bắt được đặc điểm học sinh cá biệt về:
sức khỏe, đạo đức, năng lực học tập, động cơ học tập, quan hệ của học sinh với cha
mẹ, Ông bà, anh chị em trong gia đình, ở trường với thầy cô và ngoài xã hội, cộng
đồng. Việc tìm hiểu học sinh cá biệt về mọi mặt là rất cần thiết để GVCN xác định rõ
nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
11
- Cộng tác chặt chẽ với hội cha mẹ học sinh, chủ động phối hợp với giáo viên bộ
môn, đoàn TNCS HCM và các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giáo dục
đạo đức cho học sinh cá biệt và giảm tỉ lệ bỏ học của học sinh.
Để giáo viên chủ nhiệm hoàn thiện tốt chức năng, vai trò và nhiệm vụ của mình thì
người cán bộ quản lý cần phải thực hiện tốt việc phân công giáo viên chủ nhiệm, lựa
chọn những người có phẩm chất và năng lực, kinh nghiệm làm công tác chủ nhiệm.
Tạo mọi điền kiện thuận lợi, đôn đốc, giúp đỡ GVCN hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình. Thường xuyên thu nhận thông tin về tình hình diễn biến đạo đức của học sinh
cá biệt do GVCN cung cấp, có biện pháp kịp thời nhằm ngăn chặn những tình huống
xấu có thể xảy ra. Thông thường những lớp có nhiều học sinh cá biệt về đạo đức thì ở
lớp đó tỉ lệ học sinh có nguy cơ bỏ học cao nên một chỉ tiêu để đánh giá, xếp loại giáo
viên chủ nhiệm giỏi là phải duy trì được sĩ số học sinh. Ví dụ em Nguyễn Văn Nam
và em Lê Thị Lí học lớp 10B1 cùng ở xã Đông Lĩnh-Đông Sơn thỉnh thoảng lại nghỉ
học. Cô Đinh Thị Hiên GVCN đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với cả phụ huynh và học
sinh, yêu cầu phụ huynh và học sinh làm bản cam kết sẽ đi học đầy đủ, chuyên cần,
thực hiện nghiêm túc các nội qui của trường và của lớp. Sau đó một thời gian ngắn cả
hai em này đều bỏ học ở nhà. Cô giáo chủ nhiệm báo với tôi về tình hình lớp học, về
số học sinh đã nghỉ học và em Đào Văn Tú ở xã Đông Hoà cũng có nguy cơ bỏ học.
Trước tình hình ấy tôi và cô giáo chủ nhiệm đã đến gia đình các em để tìm hiểu rõ
nguyên nhân việc bỏ học của các em. Với em Lê Thị Lí hoàn cảnh gia đình thực sự
quá khó khăn: Bố sau một làn bị tai nạn xe máy chấn thương sọ não đã trở thành gánh
nặng cho gia đình, mẹ thì yếu, hai em trai còn nhỏ, lí là chị cả trong gia đình nên em
phải phụ giúp mẹ nhiều việc. Mặc dù muốn học nhưng không có tiền để nộp các
khoản đóng góp trong năm học cho nhà trường. Trước thực trạng đó chúng tôi đã
động viên gia đình tiếp tục cho em đi học nhà sẽ tạo mọi điều kiện và kêu gọi tập thể
cán bộ giáo viên, học sinh các lớp và các tổ chức trong nhà trường quyên góp ủng hộ
để em có thể học tiếp. Với sự đồng tình ủng hộ của tập thể sư phạm nhà trường, hội
phụ huynh, hội khuyến học, hội chữ thập đỏ…em Lí đã trở lại học bình thường. Còn
12
em Nam thì khác: Là học sinh cá biệt của lớp, em bị ảnh hưởng bởi lối sống của gia
đình, bố thì rượu chè bê tha suốt ngày say xỉn, mẹ buôn bán nhỏ ngoài chợ, cả hai bố
mẹ đều không quan tâm đến việc học hành của con, con đi đâu, làm việc gì không hay
biết, thậm chí có lần con bỏ đến nhà bạn ở một vài ngày cũng mặc kệ. Tôi đã trao đổi
với mẹ nên quan tâm đến việc học của con cái và động viên con đến trường học tiếp ở
đó sẽ có chúng tôi- người mẹ thứ hai dạy dỗ, giáo dục và giúp đỡ em. Từ sự nhiệt
tình, tận tâm, trách nhiệm của chúng tôi cuối cùng gia đình cũng đã đưa em đến
trường xin Ban giám đốc, cô giáo chủ nhiệm để em Nam được đi học. Sau lần ấy tôi
thường xuyên gặp em Nam tâm sự, nhắc nhở, dần dần em đã nhận ra lỗi lầm của mình
và em đã tự hứa với tôi sẽ không bao giờ vi phạm vào các nội qui của nhà trường nữa,
tránh xa các tệ nạn xã hội. Trường hợp của em Tú ngoài việc GVCN liên hệ với gia
đình để thông tin về tình hình học tập, việc thực hiện nề nếp ở trường…Tôi đã nhờ sự
giúp đỡ của Ban thường trực hội phụ huynh nhà trường, Hội khuyến học huyện và
Ban khuyến học xóm đến tận gia đình để vận động gia đình và học sinh để các em đi
học chuyên cần không còn ý định bỏ học nữa.
Như vậy việc giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học của
học sinh nếu như chỉ để mình GVCN, các thầy cô giáo bộ môn …mà không có sự chỉ
đạo sát sao, thậm chí có lúc phải vào cuộc của người lãnh đạo quản lý và sự phối kết
hợp của các tổ chức đoàn thể thì hiệu quả sẽ không cao.
Tóm lại : Nghiên cứu, tìm giải pháp khả thi về giáo dục đạo đức cho học sinh cá
biệt và giảm nguy cơ bỏ học của học sinh sẽ giúp cho đội ngũ giáo viên và CBQL
trường học xác định đúng tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức học sinh cá
biệt để có kế hoạch hoàn chỉnh, có sự quan tâm đúng mức trong việc giáo dục học
sinh cá biệt, làm giảm tỉ lệ bỏ học của học sinh. Từ đó giúp cho tập thể sư phạm của
trường thấy được nhiệm vụ quan trọng này để ngoài việc dạy chữ cho tốt còn phải lưu
tâm, hết lòng giáo dục các em phát triển toàn diện cả tài lẫn đức. Chú trọng về đức: “
Tiên học lễ, hậu học văn”.
II. NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC
13
Chúng ta biết công việc giáo dục, đào tạo một con người, một thế hệ cho
tương lai đất nước là lâu dài, không phải một sớm, một chiều là đạt được kết quả
mong muốn. Như Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã nói “Vì lợi ích 10 năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Với trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp
của mình, với điều kiện và hoàn cảnh công tác của mỗi người, mỗi chúng ta những nhà giáo dục cần cố gắng nhiều thì mới đáp ứng nhu cầu phát triển của
xã hội, của giáo dục. Là cán bộ quản lý phụ trách công tác chuyên môn đồng
thời là người trực tiếp giảng dạy học sinh ở một số lớp. Bằng việc làm cụ thể, sự
phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường và phối hợp với Hội cha mẹ học sinh trong việc quản lí chỉ đạo
giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học của học sinh nhiều
lớp học sinh đã có sự chuyển biến rõ nét về kết quả học tập, rèn luyện đạo đức.
Số học sinh cá biệt về đạo đức và tỉ lệ học sinh bỏ học đã giảm nhiều thể hiện qua
bảng số liệu sau:
Năm học
2009-2010
2010-2011
2011-2012
Khá
Học lực
TB Yếu
5%
80%
7%
HS bỏ
Kém
Tốt
Hạnh kiểm
Khá TB
10%
5%
46%
35%
13%
6%
84%
7%
2%
50%
38%
8%
4%
10% 86%
4%
0
63%
35%
2%
0
Yếu
học
12%
5%
1%
( Học kì I)
C/ KẾT LUẬN
Trước thực trạng đạo đức của học sinh các TTGDTX có chiều hướng giảm sút
nghiêm trọng, việc tìm ra giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt có hiệu quả
có chất lượng là đòi hỏi cấp bách của gia đình, nhà trường và xã hội nhằm giáo dục
những chuẩn mực cơ bản về đạo đức chân chính về truyền thống tốt đẹp của người
Việt Nam. Nhất là trong giai đoạn hiện nay: thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển nền kinh tế tri thức.
14
Thực tế cho thấy, nếu các em chủ động tìm đến các hoạt động của nhà trường với
thầy cô giáo thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn việc thầy cô giáo chủ động tìm đến các
em. Góp phần giáo dục học sinh cá biệt và làm giảm nguy cơ học sinh bỏ học là một
công việc khó khăn, phức tạp, hết sức nhạy cảm, đòi hỏi sự kiên trì, lòng nhiệt tình,
một trách nhiệm cao, một tình thương chân thành và cần thiết có một sự phối hợp
thường xuyên, chặt chẽ, đồng bộ có hiệu quả từ các nguồn lực giáo dục - thực hiện xã
hội hoá giáo dục.
Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em, hãy tôn trọng nhân cách các em. Thầy
cô, bè bạn hãy gần gũi, cảm thông, độ lượng, chia sẻ, tạo điều kiện và cơ hội để các
em sửa chữa những lỗi lầm, khuyết điểm hoặc phát huy những tài năng, sáng tạo (nếu
có). Chúng ta hãy giúp các em lấy lại lòng tin, lòng tự trọng. Đừng bao giờ để các em
đánh mất niềm tin ở chính bản thân mình. Bởi vì đánh mất niềm tin ở chính bản thân
mình thì các em sẽ mất tất cả. Hãy đến với các em bằng tình thương, sự đồng cảm hơn
là một người giáo dục. Chúng ta - Những nhà giáo dục hãy thực hiện tốt cuộc vận
động “Kỷ cương-Tình thương-Trách nhiệm” và cuộc vận động “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” để mỗi ngày đến trường là một niềm vui.
Những vấn đề tôi vừa trình bày đã và đang là một trong những bức xúc lớn, được
sự đồng thuận của đông đảo các cán bộ quản lý giáo dục, các thầy cô giáo. Tôi rất
mong nhận được sự quan tâm cùng chia sẻ của đông đảo các bạn đồng nghiệp.
Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu hẹp nên có nhiều
vấn đề chưa được nhìn nhận một cách toàn diện. Một số phân tích có thể phiến diện
không bao quát toàn cục của vấn đề, các giải pháp đưa ra chưa thể vận dụng hoàn hảo
được trong các Trung tâm GDTX hiện nay. Nhưng tôi tin rằng ít nhiều đề tài cũng
giúp cho các nhà QLGD thấy được thực trạng của đạo đức học sinh cá biệt và tình
trạng học sinh bỏ học hiện nay, để định hướng lại một số việc cần phải làm trong thời
gian sắp tới nhằm góp phần thành công vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá
biệt và giảm nguy cơ bỏ học của học sinh đặc biệt là học sinh học tại các Trung tâm
giáo dục thường xuyên./.
15
Đông Sơn, ngày 20 tháng 3 năm 2012
Người viết
Bùi Thị Cúc
16
- Xem thêm -