Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn phương pháp nâng cao hiệu quả giờ đọc hiểu văn bản trong trường thpt qua kh...

Tài liệu Skkn phương pháp nâng cao hiệu quả giờ đọc hiểu văn bản trong trường thpt qua khai thác và tổ chức dạy học phần tiểu dẫn

.PDF
27
358
101

Mô tả:

SKKN Phương pháp nâng cao hiệu quả giờ đọc hiểu văn bản trong trường THPT qua khai thác và tổ chức dạy học phần tiểu dẫn
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT I. Tóm tắt đề tài ................................................................................................. 3 II. Giới thiệu ...................................................................................................... 4 II.1 Quan niệm đọc – hiểu văn bản trong dạy học Ngữ văn ………….4 II.2 Nhiệm vụ của phần Tiểu dẫn trong SGK Ngữ Văn THPT……....5 II.2.1 Cung cấp các thông tin liên quan đến văn bản cho học sinh…..5 II.2.2 Định hướng tiếp nhận văn bản…………………………………….5 II.3 Những định hướng khi khai thác phần Tiểu dẫn trong SGK………....6 II.3.1 Dựa vào SGK trong dạy học…………………………………….6 II.3.2 Vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ………………………….7 II. 4 Một số phương pháp khai thác phần Tiểu dẫn……………………….8 II.4.1 Khai thác tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của tác giả……….........8 II.4.2 Khai thác những thông tin khái quát chung về văn bản…………9 II. 5 Một số phương pháp tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn………………..12 II.5.1 Tổ chức cho học sinh làm việc với SGK…………………………12 II.5.2. Tổ chức cho học sinh đối thoại…………………………………..14 II.5.3 Tổ chức cho học sinh khai thác nội dung phần Tiểu dẫn bằng sơ đồ…15 II.5.4 Tổ chức cho học sinh kể chuyện để tạo sự lôi cuốn………………......17 III. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 18 III.1. Khách thể nghiên cứu .............................................................................. 18 III.2. Thiết kế nghiên cứu ................................................................................. 18 III.3. Quy trình nghiên cứu ............................................................................... 19 III.4. Đo lường và thu thập dữ liệu ................................................................... 20 IV. Phân tích dữ liệu và bàn luận kết quả .................................................... 22 IV.1. Bảng thống kê điểm kiểm tra .................................................................. 22 IV.2. Xử lí dữ liệu thống kê .............................................................................. 22 IV.2.1. Cơ sở lý thuyết xử lý dữ liệu thống kê ................................................. 23 IV.2.1.1. Mô tả dữ liệu ..................................................................................... 23 IV.2.1.2. Phép thử TTest .................................................................................. 23 1 IV.2.1.3. Mức độ ảnh hưởng ............................................................................ 23 IV.2.2. Xử lý dữ liệu thống kê .......................................................................... 24 IV.3. Phân tích dữ liệu và bàn luận .................................................................. 24 V. Kết luận và khuyến nghị ........................................................................... 25 V.1. Kết luận ..................................................................................................... 25 V.2. Khuyến nghị .............................................................................................. 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 27 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT VB: văn bản THPT : Trung học phổ thông GV: Giáo viên HS : Học sinh TP : Tác phẩm TPVH: Tác phẩm văn học TPVC: Tác phẩm văn chương SGK : Sách giáo khoa 2 I. TÓM TẮT Lâu nay trong giờ đọc hiểu văn bản (VB) ở THPT, GV và HS chủ yếu tập trung vào văn bản mà ít quan tâm đến những yếu tố ngoài văn bản. Song chính những yếu tố ngoài văn bản lại là những yếu tố quan trọng giúp GV và HS tiếp nhận, giải mã văn bản, đồng thời phát triển tư duy, phát huy tính tích cực chủ động và hứng thú học tập của HS. Chương trình SGK Ngữ văn THPT hiện nay được kết cấu, biên soạn theo hướng dạy học tích hợp nên phần tri thức đọc hiểu và những gì thể hiện ở phần Tiểu dẫn trở nên quan trọng. Để giúp HS tìm hiểu và khám phá TPVH thì những yếu tố ngoài văn bản trong Tiểu dẫn là những định hướng rất cần thiết giúp các em từng bước tìm hiểu, khám phá nội dung bài học, gián tiếp định hướng cho HS tiếp cận bài học. Phần Tiểu dẫn giới thiệu những tri thức đọc hiểu cần thiết nhằm giúp HS có được những định hướng ban đầu khi tiếp nhận văn bản. Phần này được thể hiện rõ trong các phần, các mục biên soạn của SGK văn học, song tôi nhận thấycòn ít tài liệu cũng như công trình nghiên cứu đề cập đến những cách thức cụ thể và phương pháp triển khai để hướng dẫn HS chiếm lĩnh phần nội dung kiến thức này một cách hiệu quả, giờ học phát huy được vai trò tích cực của HS. Với những cơ sở lí luận và định hướng sư phạm khi dạy phần tiểu dẫn, khai thác những yếu tố ngoài văn bản trong phần Tiểu dẫn là những nội dung quan trọng, là cơ sở, là tiền đề để đi vào nội dung văn bản. Thế nhưng, thực tế khai thác phần Tiểu dẫn vẫn còn nhiều bất ổn. GV thường chú trọng việc cung cấp kiến thức về tác giả, tác phẩm nhưng chưa có sự quan tâm đến việc hướng dẫn HS vận dụng nó để giải mã văn bản. Thông tin về thể loại của văn bản cũng ít được GV vận dụng thường xuyên để tiếp cận văn bản. Không ít GV còn lúng túng do không nắm chắc đặc trưng thể loại nên tiếp cận và phân tích không đúng hướng Qua tìm hiểu tôi nhận thấy nhiều GV chưa thực sự quan tâm tới phần Tiểu dẫn trong các đề kiểm tra thường xuyên và kiểm tra trong học kì nên khi tìm 3 hiểu về Tiểu dẫn thì GV và HS thường lướt qua phần này nên HS không nắm được những thông tin quan trọng. Vì vậy mà việc tiếp nhận TPVC ở HS bị hạn chế. Hơn nữa, cách khai thác phần Tiểu dẫn của GV hiện nay còn đơn điệu, qua loa không gợi được hứng thú học tập cho HS. Từ những thực trạng trên tôi đã xây dựng và khai thác phần Tiểu dẫn trong giờ đọc hiểu văn bản để giúp HS có cái nhìn sâu sắc hơn về băn bản sẽ học đồng thời tôi đưa ra những cách thức tổ chức dạy học phần tiểu dẫn tạo nên những hứng thú và hiệu quả cao khi tiếp nhận TPVC. Xuất phát từ những lí do trên, cùng với chủ trương đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá đã thúc đẩy tôi lựa chọn : Một số phương pháp nâng cao hiệu quả trong giờ đọc hiểu văn bản ở trường THPT qua khai thác và tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn”, để góp phần nâng cao năng lực tiếp nhận tác phẩm văn học và tạo hứng thú học tập cho HS. Để đạt được những mục đích nghiên cứu của mình, tôi đã tiến hành nhiều phương pháp như sau : - Phương pháp quan sát, điều tra: Dùng phương pháp này để nắm được thực trạng dạy học phần Tiểu dẫn - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dùng phương pháp này để phân tích các tài liệu liên quan đến vấn đề khai thác phần Tiểu dẫn từ đó xác lập các lý thuyết liên quan đến đề tài. - Phương pháp thực nghiệm: Dùng phương pháp này để kiểm chứng tính hợp lý và tính khả thi của các cách khai thác phần Tiểu dẫn. II. GIỚI THIỆU II.1 Quan niệm đọc – hiểu văn bản trong dạy học Ngữ văn. Lâu nay trong dạy học văn, người ta thường dùng thuật ngữ là “Giảng văn”, “Phân tích văn”…thì SGK cải cách đã thay bằng thuật ngữ “Đọc- hiểu văn bản”. 4 Đây không chỉ là sự thay đổi về tên gọi mà thực chất là sự thay đổi thay đổi quan niệm về bản chất của môn Văn, cả về phương pháp dạy học Văn và các hoạt động khi tiếp nhận TPVH cũng có những thay đổi. Theo Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hùng “Đọc hiểu là một khái niệm khoa học chỉ mức độ cao nhất của hoạt động đọc; đọc hiểu đồng thời cũng chỉ năng lực văn của người đọc”.“Đọc hiểu là hoạt động truy tìm và giải mã ý nghĩa văn bản”. Còn với Giáo sư Trần Đình Sử “Đọc hiểu văn bản như một khâu đột phá trong việc đổi mới dạy học và thi môn Ngữ văn, là yêu cầu bức thiết đối với việc đào tạo nguồn nhân lực mới cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến”. Như vậy, đọc hiểu là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa của văn bản thông qua khả năng tiếp nhận của HS. Đọc hiểu là tiếp xúc với văn bản, hiểu được nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn, các biện pháp nghệ thuật, thông hiểu các thông điệp tư tưởng, tình cảm của người viết và giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Với quan điểm phát huy vai trò chủ thể của HS, xuất phát từ đặc thù của văn chương (nghệ thuật ngôn từ), mà phương pháp dạy học Văn thay bằng khái niệm “Đọc hiểu văn bản”. II.2 Nhiệm vụ của phần Tiểu dẫn trong SGK Ngữ Văn THPT II.2.1 Cung cấp các thông tin liên quan đến văn bản cho học sinh. Phần Tiểu dẫn trong SGK Ngữ văn cung cấp cho HS tri thức về văn học sử như kiến thứcvề đặc điểm thời đại, hoàn cảnh ra đời của văn bản văn học, cuộc đời và sự nghiệp văn chương của nhà văn, phong cách nghệ thuật của tác giả; cung cấp tri thức lí luận văn học ở dạng trực tiếp như thể loại. Đó chính là những phương tiện để khám phá văn bản theo quan điểm tiếp cận đồng bộ, giúp HS hiểu sâu sắc kiến thức văn học và tự các em có thể thẩm định, đánh giá kiến thức văn học ở một mức độ nào đó. II.2.2 Định hướng tiếp nhận văn bản. Tiếp nhân văn bản dựa trên kiến thức kiến thức về bối cảnh xã hội và văn hoá cũng như những hiểu biết về tác giả với nét tiểu sử, đặc trưng tư duy và 5 phong cách nghệ thuật… là những thông tin vô cùng quan trọng hỗ trợ quá trình tiếp cận và khám phá thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Giáo sư Phan Trọng Luận cho rằng: “Tất cả những gì nhà văn sáng tác đều có cội nguồn trực tiếp ở những sự kiện trong cuộc sống riêng tư của anh ta, ở tâm tư tình cảm của nhà văn đó”. Phần Tiểu dẫn trong SGK khi giới thiệu những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn đã đặc biệt chú ý đến những sự kiện, những vấn đề liên quan đến văn bản sắp học. Những thông tin về cuộc đời tác giả như năm sinh, quê quán, gia đình, việc học hành, tư tưởng, tình cảm, những thăng trầm trong cuộc đời là điều kiện cần thiết để hiểu căn kẽ, thấu đáo về văn bản sẽ học. Không biết về tác giả cũng như những nét phong cách nghệ thuật của nhà văn thì khó lí giải được nội dung của VB một cách sâu sắc II.3 Những định hướng khi khai thác phần Tiểu dẫn trong SGK II.3.1 Dựa vào SGK trong dạy học. Để khai thác phần Tiểu dẫn có hiệu quả cao, ta phải căn cứ vào những nội dung chung và phương pháp giảng dạy mà người soạn SGK đã định hướng. SGK là công cụ cơ bản không thể thiếu bên cạnh những công cụ nghề nghiệp khác của người GV. Nó xác định mức độ, khối lượng kiến thức, kĩ năng tư duy cần truyền đạt cho HS, đồng thời nó còn có tác dụng gợi ý phương pháp giảng dạy và giáo dục mà không hạn chế sự sáng tạo, giúp GV nâng cao hiệu quả giờ lên lớp. SGK có chức năng chuyển tải những thông tin về tri thức khoa học những kĩ năng, kĩ xảo, kích thích hứng thú học tập cho HS, giáo dục thẩm mĩ và chỉ đạo HS học tập. Người biên soạn SGK ngoài việc cung cấp thông tin thì phải “tính đến công việc học tập,phương thức, hoàn cảnh tiếp cận thông tin của SGK”. Điều đó có nghĩa là người biên soạn SGK phải quan tâm từ nội dung đến phương pháp học tập của HS. Để HS có thể phân tích, đánh giá tìm ra cái hay, cái đẹp của các TPVC, SGK đã đưa vào phần Tiểu dẫn mang tính chất, chức năng dẫn dắt, gợi mở để HS dựa vào đó mà tìm hiểu bài, học bài; GV soạn bài dựa vào đó mà lựa chọn 6 phương pháp dạy học phù hợp. Trong dạy học, chúng ta ý thức rằng, ngoài Chuẩn Kiến thức kĩ năng thì SGK là một căn cứ quan trọng để xây dựng và tiến hành các hoạt động giáo dục nhằm đạt được mục tiêu dạy học. II.3.2 Vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ. Tiếp cận đồng bộ là“sự vận dụng hài hoà các phương pháp lịch sử phát sinh, lịch sử chức năng và cấu trúc văn bản khi tiếp cận TPVC” (GS Phan Trọng Luận) - Quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh định hướng phân tích tác phẩm từ các yếu tố ngoài văn bản nhưng có liên quan trực tiếp đến sự ra đời của tác phẩm như hoàn cảnh xã hội,tiểu sử tác giả, xu hướng thẩm mỹ của thời đại. Những yếu tố này giúp chúng ta có cơ sở giải mã văn bản có chiều sâu hơn. - Hướng tiếp cận lịch sử chức năng coi trọng tâm lý cảm thụ của HS khi tiếp nhận văn bản. Nó khơi dậy hoạt động nhận thức bên trong của người học. Văn học phản ánh cuộc sống bằng tư duy hình tượng và đến lượt nó được khẳng định bằng sự “đồng sáng tạo”của công chúng và bạn đọc. - Hướng tiếp cận theo cấu trúc bản thể văn bản được hiểu như sau: TPVH là một thực thể gồm nhiều bộ phận, nhiều phần tử mà giữa chúng có mối quan hệ và tác động qua lại với nhau. Có nghĩa TPVH là một chỉnh thể, một cấu trúc. Vì vậy khi khai thác văn bản phải đi vào tìm hiểu các bộ phận của chỉnh thể văn bản nghệ thuật, mà cụ thể là khai thác nội dung và hình thức đặt trong mối quan hệ chỉnh thể để hiểu sâu giá trị của tác phẩm. Tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn theo hướng tiếp cận đồng bộ là một trong những phương pháp dạy học hiện đại bởi vì nó vận dụng hài hoà, kết hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố bên ngoài văn bản (Lịch sử phát sinh); yếu tố nội tại (Cấu trúc bản thể văn bản) và tâm lý tiếp nhận của người đọc (Lịch sử chức năng). Đó là những định hướng quan trọng để đi sâu giải mã văn bản. 7 II. 4 Một số phương pháp khai thác phần Tiểu dẫn. II.4.1 Khai thác tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của tác giả. Việc giới thiệu tiểu sử được coi là phần dẫn luận, mở đầu cho quá trình phân tích tác phẩm, cung cấp kiến thức cần thiết liên quan đến việc phân tích tác phẩm đồng thời định hướng cho sự cảm thụ tác phẩm của học sinh. * Khi khai thác phần tiểu sử nhà văn, GV phải chú ý đến việc vận dụng những thông tin về tác giả trong tiếp nhận văn bản. Cần tìm hiểu những chi tiết về hoàn cảnh xuất thân, gia đình, sở thích, cá tính của nhà văn. Khi khai thác phần cuộc đời thì chú ý đến những bước ngoặt trong cuộc đời có ý nghĩa hình thành cá tính, bản lĩnh của nhà văn có ảnh hưởng đậm nét đến quá trình hình thành văn bản. Thông tin về tiểu sử của tác giả khi đưa vào SGK đều có dụng ý soi sáng cho văn bản. Việc giới thiệu tên tuổi, quê hương nhà văn đều có ý nghĩa nhất định mà GV cần khai thác. Chẳng hạn trong tiểu dẫn về tác giả Tố Hữu, ta chú ý: Quê hương có ảnh hưởng gì đến sáng tác của nhà thơ ?... * Tìm hiểu về tiểu sử tác giả, ta chú ý đến mối quan hệ giữa tác giả và thời đại mà nhà văn sống và sáng tác, với môi trường văn học, với chặng đường sáng tác, ảnh hưởng của giáo dục thời đại ….. là những kiến thức công cụ để tiếp cận văn bản. Các giai đoạn trong cuộc đời nhà văn là những mốc thời điểm quan trọng có ảnh hưởng đến sự chuyển biến về tư tưởng trong sáng tác của nhà văn. Vì vậy khi giới thiệu về tác giả cần chú ý đến đặc điểm này. Ví dụ: Nói về Nguyễn Minh Châu, SGK viết “Hành trình sáng tác của ông chia làm hai giai đọan rõ rệt: trước thập kỷ 80, ông là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn; từ đầu thập kỷ 80 đến khi mất, ông chuyển hẳn sang cảm hứng đời tư - thế sự với những vấn đề đạo đức và triết l ý nhân sinh”. Khai thác nội dung này để thấy văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” nằm trong giai đoạn sáng tác nào và tư tưởng chi phối của giai đoạn sáng tác sau 1980: đó là cái nhìn đa chiều về cuộc sống và con người trong thời kỳ hội nhập. * Khi giới thiệu tác giả chúng ta chú ý đến việc khái quát là phong cách nghệ thuật của nhà văn bởi dây là một nội dung quan trọng để vận dụng giải mã văn 8 bản. Nếu biết được phong cách của một tác giả thì người đọc sẽ dễ dàng có một hướng tiếp cận đúng đắn tác phẩm của tác giả đó, giúp học sinh hình dung những nét khái quát về phong cách nghệ thuật của tác giả. Đó là một nội dung gợi dẫn cần thiết để học sinh có hướng tiếp nhận tác phẩm chính xác hơn, nhất là những nét phong cách được thể hiện trong văn bản đọc hiểu. Ví dụ: Giới thiệu phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân “uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động lòng người đọc nhiều nhất”. Thông tin này sẽ giúp ta tiếp nhận tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân rất hiểu quả. * Giới thiệu về các tác phẩm của tác ta phải gắn tác phẩm ấy với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả. Khi khai thác nội dung trong phần Tiểu dẫn cũng cần chú ý đến những nhận định về đặc điểm nổi bật trong sáng tác của tác giả. Đây chính là những nhận định ngắn gọn nhưng có ý nghĩa liên quan nhiều nhất đến quá trình đọc hiểu văn bản. Chẳng hạn, khi chúng ta tiếp cận đọan trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cần lưu ý đến nhận định trong SGK: “Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước con người Việt Nam”. Từ thông tin có được ở nhận định trên mà khi đọc - hiểu chúng ta sẽ có hướng tiếp nhận văn bản một cách đúng đắn để cảm nhận được cái nhìn, cảm xúc của chủ thể trữ tình biểu hiện ở hình ảnh thơ, ở những chi tiết về đất nước gắn liền với nhân dân được miêu tả, gợi ra trong đọan trích. II.4.2 Khai thác những thông tin khái quát chung về văn bản. Trong phần giới thiệu về tác giả thì hoàn cảnh sáng tác là nội dung không thể bỏ qua trong hoạt động đọc hiểu văn bản. Hoàn cảnh sáng tác cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của thời đại, cuộc sống của tác giả đối với tác phẩm. Trong giờ đọc – hiểu văn bản, GV không chỉ làm công việc giản đơn là cung cấp thông tin 9 về hoàn cảnh sáng tác mà điều cần thiết là nêu bật vai trò của hoàn cảnh sáng tác chi phối toàn bộ tác phẩm văn học. Thời đại tác phẩm ra đời, nhà văn sinh sống sẽ chi phối cái nhìn của nhà văn trong tác phẩm, là tiền đề tạo nên chiều sâu trong nội dung nghệ thuật của tác phẩm. Tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác nghĩa là l ý giải sự ảnh hưởng của âm hưởng thời đại đến cảm hứng sáng tạo của tác phẩm như thế nào? Bởi lẽ, “Một trào lưu văn học xuất hiện bao giờ cũng trên cơ sở của một hoàn cảnh xã hội, văn hóa cụ thể và phản ánh những đòi hỏi nhất định của con người thời đại sản sinh ra nó”. Đối chiếu tác phẩm với thời đại đẻ ra nó để tìm “giá trị”, “tìm nghĩa”, “triết lý thẩm mỹ” của tác phẩm. Tư tưởng thời đại mà tác giả sống với những biến cố lịch sử căn bản và ảnh hưởng của chúng đối với đời sống văn hóa, tình hình phát triển của văn học mà từ đó tác phẩm ra đời cũng như những chuẩn mực xã hội mà thời đại đặt ra có liên quan đến tâm lý sáng tác, quan điểm sáng tác, phong cách sáng tác của tác giả. Tất cả các yếu tố trên đều tác động trực tiếp đến tác phẩm. Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm là hoàn cảnh nhỏ, hoàn cảnh cảm hứng chi phối trực tiếp sự xuất hiện của tác phẩm. Liên quan đến phần giới thiệu tác phẩm phải kể đến xuất xứ, vị trí của văn bản đọc hiểu. Nếu văn bản đọc hiểu là một đoạn trích thì Tiểu dẫn sẽ giới thiệu về vị trí đoạn trích trong tác phẩm. Với thông tin về vị trí đọan trích người đọc sẽ theo dõi được mạch cảm xúc trong tác phẩm nếu nó là thơ, nắm được diễn biến của cốt truyện nếu nó là truyện. Bài học trong SGK thường chỉ lấy một đoạn trích làm nội dung học tập. Để hiểu đoạn trích, việc đọc toàn bộ tác phẩm là cần thiết nhưng khó thực hiện trong phạm vi nhà trường. Vì vậy, tìm hiểu xuất xứ, vị trí đoạn trích là một cách để biết chung về tác phẩm. Từ đó có cơ sở để cảm nhận nội dung và ý nghĩa đoạn trích. Biết về xuất xứ của văn bản, HS đồng thời cũng biết được đôi nét về nội dung, nghệ thuật của văn bản. Bởi vì, TPVH là một hệ thống chỉnh thể được cấu tạo bằng ngôn ngữ nghệ thuật, được cấu kết chặt chẽ trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, giữa bộ phận và chỉnh thể… nên có tính tổ chức cao và có một sự ràng buộc lẫn nhau giữa các bộ phận. Giáo viên cần cho học sinh thấy được nội 10 dung của toàn bộ tác phẩm và mối liên hệ của đoạn trích. Đặt đọan trích trong chỉnh thể tác phẩm người đọc mới hiểu đúng vẻ đẹp của nó. Ví dụ: Dạy đọc – hiểu đọan trích “Hạnh phúc của một tang gia” cần phải đặt trong mối quan hệ với nội dung tác phẩm “Số đỏ”, từ đó mới dễ dàng tiếp cận, đi sâu phân tích, lý giải, bình giá được nội dung nghệ thuật của đọan trích. Giáo viên phải cho HS hiểu được nội dung của “Số đỏ” là sự “đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị đang chạy theo lối sống nhố nhăn đồi bại đương thời”. Dùng tiếng cười làm vũ khí, tác phẩm vạch trần thực chất thối nát của các phong trào “văn minh”, “Âu hóa”, “thể thao” ….vào những năm 30 của thế kỶ XX. Đặt đoạn trích trong tác phẩm ta mới thấy được một phần của bức tranh hiện thực nhố nhăn, lố bịch qua bút pháp châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng. Có thể nói, TPVH cũng chính là sản phẩm của thời đại, mang dấu ấn thời đại, nghiên cứu một tác phẩm văn học, chúng ta phải tìm đến bối cảnh và nhà văn. Việc dạy học tác phẩm phải đặt tác phẩm trong mối quan hệ với hoàn cảnh lịch sử, văn hóa xã hội ….mà nó ra đời. Điều này có một ý nghĩa quan trọng trong việc chỉ ra phương hướng đúng đắn trong việc cắt nghĩa và đánh giá những hiện tượng văn học và là cơ sở cần thiết để phân tích các giá trị TPVH. Một yêu cầu đặt ra trong hoạt động đọc hiểu trong dạy học Ngữ văn theo tinh thần đổi mới là phải gắn với đặc trưng thể loại. Dạy tác phẩm văn chương theo thể loại là dựa vào đặc trưng riêng của từng thể lọai để định hướng tiếp cận phân tích l ý giải bình giá giá trị TPVH trong nhà trường. Kiến thức về đặc trưng thể loại rất quan trọng để HS hiểu về tác phẩm. Xuất phát từ mục tiêu và nguyên tắc tích hợp, chương trình SGK hiện nay được biên soạn theo hướng dạy học tác phẩm là chủ yếu nhưng tập trung lựa chọn những tác phẩm tiêu biểu cho những thể loại quen thuộc làm văn bản mẫu cho hoạt động đọc hiểu văn bản. Trên cơ sở đó hướng dẫn cách thức phân tích TPVH, hướng dẫn cách chiếm lĩnh các tri thức lí luận và lịch sử văn học gắn với thể loại văn học. Đọc hiểu TPVH nhằm mục đích giúp HS khám phá những cái đẹp cái hay trong tác phẩm cụ thể và từ đó trang bị cho các em những tri thức đọc- hiểu những tác phẩm cùng thể lọai. Để hiểu được điều này, SGK đã cung cấp cho HS những kiến thức sơ lược về 11 thể loại của văn bản đọc hiểu trong phần Tiểu dẫn mà khi tiếp cận văn bản GV và HS phải biết vận dụng nó để việc đọc hiểu diễn ra một cách thuận lợi. Ví dụ: Để hướng dẫn cho HS đọc hiểu văn bản “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, GV cần khai thác nội dung về thể loại văn tế mà SGK đã đề cập như: hoàn cảnh sử dụng, các thể thường dùng trong văn tế (văn xuôi, thơ lục bát, song thất lục bát, phú….), bố cục thường có của văn tế (lung khởi, thích thực, ai vãn, kết). Việc HS cảm nhận và yêu quý một TPVH ra đời từ rất lâu không phải là chuyện dễ dàng, cho nên việc hướng dẫn các em tiếp nhận tác phẩm là một việc làm cần thiết và việc này được bắt đầu từ việc trang bị cho các em kiến thức về thể loại văn tế. II. 5 Một số phương pháp tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn II.5.1 Tổ chức cho học sinh làm việc với SGK. Hướng dẫn học sinh đọc SGK ở nhà và xác định những nội dung cơ bản cần triển khai trong phần Tiểu dẫn. Sau đó lập dàn ý bài soạn với các thông tin trong SGK. Nếu GV biết cách định hướng học tập, tạo cho HS những định hướng trong quá trình tự nghiên cứu SGK, tập cho HS biết gia công, tìm tòi sáng tạo các em sẽ lĩnh hội được nguồn tri thức mới HS có thể chủ động phát biểu, tranh luận, có thể bổ sung, đồng tình hoặc phản bác để tìm ra phương thức giải quyết tối ưu. Sự lĩnh hội tri thức theo cách này giúp HS làm chủ quá trình tự học, thoả mãn những nhu cầu khám phá, tìm hiểu, tin ở năng lực và có khả năng phát triển năng lực tư duy. * Kiến thức được đề cập trong phần Tiểu dẫn là những kiến thức tương đối vừa sức dễ hiểu nên HS có thể tự làm việc với SGK để nắm kiến thức. Điều quan trọng là giáo viên phải định hướng cho HS nên khai thác nội dung gì trong phần Tiểu dẫn, khai thác nhằm mục đích gì kiến thức này liên quan gì tới bài đọc hiểu. - Về tác giả: + HS phải nắm được những đặc điểm về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, về phong cách nghệ thuật, những đánh giá vế tác giả đó. 12 - Về tác phẩm: + HS phải nắm được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm + HS nắm được thể loại của tác phẩm + HS nắm được những nhận định về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. HS đều có thể nhận ra tất cả những nội dung cần thiết cho việc giải mã nói trên khi đọc sách giáo khoa. Tuy nhiên vấn đề không phải là việc phát hiện được những kiến thức trên mà quan trọng là học sinh phải hiểu được kiến thức đó giúp gì cho việc đọc hiểu văn bản. Ý thức được điều này, HS sẽ lựa chọn ý cơ bản nhất để vận dụng cho việc làm sáng tỏ văn bản. Như vậy, HS phải đọc sách một cách nghiêm túc, rèn cho mình năng lực lựa chọn chi tiết, mổ xẻ phân tích thông tin đặt kiến thức của phần Tiểu dẫn trong quan hệ với văn bản đọc hiểu, tóm tắt được nội dung cơ bản và tiến tới sơ đồ hóa kiến thức. * Trong quá trình làm việc với SGK, GV nên khuyến khích để HS đưa ra những thắc mắc xoay quanh nội dung mà SGK đề cập. Làm việc với SGK tức là sự lĩnh hội kiến thức ở các em đã đạt mức độ cao. Những thắc mắc của HS được GV giải đáp sẽ tiếp tục nâng cao trình độ hiểu biết của các em. Theo đó những kiến thức được HS thu nhận từ phần Tiểu dẫn được HS ghi nhớ một cách sâu sắc và lâu dài hơn. Đối với những bài học mà phần Tiểu dẫn còn sơ lược, chưa thể rõ được nội dung cơ bản cần thiết cho việc đọc hiểu văn bản thì nhiệm vụ của học sinh là phải tìm kiếm tài liệu liên quan từ những nguồn khác nhau. Với những trường hợp này, vai trò của GV trở nên cần thiết. Bởi vì sự gợi dẫn của thầy sẽ tạo hứng thú cho HS đi sâu tìm hiểu những vấn đề về tác giả, về tác phẩm và tạo cho HS sự hứng thú trong học tập. Ví dụ: Văn bản “Tựa trích diễm thi tập” của tác giả Hoàng Đức Lương. Thể loại Tựa tương đối xa lạ với GV và HS, vì vậy phần Tiểu dẫn được xem là định hướng quan trọng để đọc hiểu văn bản. Những thông tin khái quát về tác giả, tác phẩm, thể loại là những điều chi phối cái nhìn của tác giả trong tác phẩm, là tiền đề tạo nên chiều sâu nghệ thuật của tác phẩm. Tuy nhiên trong phần Tiểu dẫn các thông tin cần thiết đã được giới thiệu rất sơ lược: “Hoàng Đức Lương chưa 13 rõ năm sinh năm mất”, “tuyển tập này bao gồm thơ của các nhà thơ từ thời Trần đến thời Lê thế kỷ XV cuối tập thơ là thơ của Hoàng Đức Lương”. Với những thông tin mang tính gợi mở như trên thì việc GV gợi dẫn để học sinh đi sâu tìm hiểu sẽ trở nên hứng thú cho HS trong quá trình tự học tự nghiên cứu. II.5.2. Tổ chức cho học sinh đối thoại. Phương pháp đàm thọai, phát vấn được thực hiện bằng cách GV đặt câu hỏi để HS tham gia trả lời, hoặc HS với HS thảo luận với nhau, HS tranh luận với GV, qua đó HS lĩnh hội được nội dung bài học. Giờ học sử dụng phương pháp này sẽ góp phần thay đổi cách dạy học “thôi miên” học trò mà làm cho không khí giờ học sinh động hẳn lên với họat động giải đáp, tranh luận giữa thầy và trò. Trên cơ sở những nội dung cơ bản được đề cập trong phần Tiểu dẫn, việc xây dựng câu hỏi nhằm đạt mục tiêu: Học sinh tiếp cận được kiến thức gì qua phần Tiểu dẫn?, GV sẽ xây dựng một hệ thống câu hỏi để học sinh lần lượt nắm bắt vấn đề. Xây dựng loại câu hỏi tái hiện. Dành cho HS có học lực trung bình, thậm chí yếu kém. GV khuyến khích động viên để HS trả lời. Loại câu hỏi này chiếm số lượng lớn trong hoạt động hướng dẫn HS tìm hiểu phần Tiểu dẫn. Hệ thống câu hỏi đặt ra theo một trình tự hợp lý để khai thác nội dung trong tiểu dẫn. Tuy là phương pháp truyền thống nhưng sử dụng phương pháp này để dạy phần Tiểu dẫn lại phát huy hiệu quả cao vì huy động được số đông HS của lớp tham gia học tập. GV nêu một câu hỏi chính (có thể kèm theo những câu hỏi gợi mở nếu cần) Ví dụ: Văn bản “ Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”- Nguyễn Dữ. - Dựa vào SGK anh (chị) hãy nêu một số nét chính về Tiểu sử tác giả? - Cho biết những đặc điểm của thể truyền kì. Biểu hiện cụ thể trong tác phẩm. Xây dựng lọai câu hỏi phát hiện. Quá trình nhận thức được thực hiện từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, tri thức này là điều kiện cho tri thức kia, kết quả này là tiền đề cho kết quả kia. 14 Câu hỏi hướng dẫn HS tìm hiểu khám phá hoạt động phải tương ứng với các cấp độ nhận thức từ thấp đến cao. Đối với phần Tiểu dẫn, yêu cầu đặt ra là HS vừa có khả năng tái hiện kiến thức, đồng thời phải biết phân tích, tổng hợp, đánh giá để rút ra những nhận thức mới về vấn đề. Đây là cách để HS nắm kiến thức một cách vững chắc nhất. Xây dựng câu hỏi nêu vấn đề Hứng thú học tập của HS sẽ được kích thích khi buộc chúng phải suy nghĩ bằng các câu hỏi gợi tư duy. Loại câu hỏi nêu vấn đề có ý nghĩa tích cực trong việc tìm hiểu phần Tiểu dẫn. Nó bắt buộc học sinh phải có sự suy nghĩ, dựa trên mối quan hệ giữa điều đã biết và chưa biết để tìm câu trả lời. Nó không chỉ giúp HS tái hiện kíến thức mà còn hướng dẫn HS tự mình vận dụng kiến thức một cách linh họat sáng tạo trong một tình huống mới. Đặt ra những tình huống mới và giúp HS giải quyết là cách để HS nắm lấy kiến thức một cách vững chắc nhất. Loại câu hỏi này phù hợp với đổi mới phương pháp dạy học hiện đại. Ví dụ 1: Câu hỏi nêu vấn đề xuất xứ cho tác phẩm Anh (chị) cho biết đọan trích “Đất nước” (Trường ca Mặt đường khát vọng Nguyễn Khoa Điềm) nằm ở phần nào trong tác phẩm? Tại sao lại chọn đọan trích này để học? Ví dụ 2: Câu hỏi nêu vấn đề cho nhan đề của tác phẩm. Tác phẩm “Chí Phèo” vốn trước đó có nhan đề là “Đôi lứa xứng đôi”, “Cái lò gạch cũ”. Tại sao tác giả lại đổi tên? Nhằm mục đích giúp HS có được câu trả lời thỏa đáng khi chưa trải qua quá trình đọc hiểu văn bản. GV phải có sự định hướng cho HS như yêu cầu các em phải đọc trước văn bản, nắm các chi tiết nghệ thuật và nêu được nội dung cơ bản của tác phẩm. Trên cơ sở đó, mỗi em đưa ra ý kiến, lí giải và tranh luận với nhau để bảo vệ ý kiến của mình. II.5.3 Tổ chức cho học sinh khai thác nội dung phần Tiểu dẫn bằng sơ đồ. Để phần giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả không rơi vào tình trạng “độc diễn” của thầy; không khô khan, nhàm chán thì giáo viên cần linh hoạt sử dụng kết hợp với hình thức sơ đồ hóa. Sơ đồ hóa là một hình 15 thức chuyển hóa thông tin thành dạng sơ đồ, biểu đồ, hình vẽ, biểu tượng. Với hình thức dạy học này, GV sẽ đưa ra một số câu hỏi để hướng dẫn thông tin từ phần Tiểu dẫn và đưa vào sơ đồ. Áp dụng hình thức sơ đồ hóa vào phần Tiểu dẫn để khai thác nội dung về tác giả không những giúp học sinh nắm vững kiến thức một cách hệ thống mà còn rèn kỹ năng tư duy tổng hợp, khái quát vấn đề. Hình thức dạy học này đòi hỏi GV phải có một sự chuẩn bị về đồ dùng dạy học hoặc dùng powerpoint trình chiếu các sơ đồ đó. Trên sơ đồ là những thông tin khái quát về tác giả và nhiệm vụ của HS là điền thông tin chi tiết vào những chỗ còn trống trên sơ đồ. Để tạo cho giờ học không khí sôi nổi, GV có thể chia lớp học thành nhiều nhóm, các nhóm lần lượt nêu đáp án của mình. Sử dụng hình thức sơ đồ hóa sẽ đem lại hiệu quả cao khi GV có sự linh họat, sáng tạo, phối hợp với phương pháp thuyết trình, phân tích ….thì bài học sẽ nhẹ nhàn và uyển chuyển hơn. Có thể làm sơ đồ về cuộc đời của nhà văn; Sơ đồ về sự nghiệp sáng tác của nhà văn; Sơ đồ kết hợp cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn… Tuỳ thuộc nội dung được đề cập trong phần Tiểu dẫn và những nội dung cần vận dụng để giải mã văn bản đọc hiểu, GV sẽ đưa ra những sơ đồ để khai thác nội dung về tác giả sao cho phù hợp. Giáo viên có thể giới thiệu những sơ đồ trên cho HS biết trước và kiểm tra phần chuẩn bị của các em, nhận xét và bổ sung cho hoàn chỉnh hoặc giáo viên trình chiếu sơ đồ, HS điền thông tin. Thời gian dành cho phần Tiểu dẫn không nhiều nên việc sử dụng sơ đồ hoá như thế này đòi hỏi giáo viên phải hướng dẫn cho HS một cách cặn kẽ ở những bài học đầu tiên để các em làm quen và tiến tới vận dụng một cách thành thạo, nhanh chóng. Sử dụng phương pháp trực quan hay sơ đồ hoá kiến thức có thể dùng bảng phụ hoặc sử dụng PowerPoint trình chiếu thì sẽ tạo được hứng thú, không làm chậm tiến độ giờ dạy và có hiệu quả rất lớn trong tiếp nhận văn bản. 16 II. 5.4 Tổ chức cho học sinh kể chuyện để tạo sự lôi cuốn. Như chúng ta đã biết, trong phần Tiểu dẫn bao giờ cũng cung cấp tri thức cơ bản về tác giả và tác phẩm. Để gây hứng thú cho HS khi lĩnh hội kiến thức này, GV có thể sử dụng hình thức kể chuyện có nghệ thuật. Qua hình thức kể chuyện có nghệ thuật, những sự kiện trong cuộc đời của tác giả sẽ được tái hiện lại một cách sinh động, góp phần làm cho việc truyền đạt kiến thức về tác giả không rơi vào tình trạng trình bày sự kiện một cách khô khan. * Phần Tiểu dẫn rất hàm súc. Người soạn sách đã chọn lọc các sự kiện về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả để đưa vào, vì vậy kể chuyện về cuộc đời nhà văn, sự nghiệp sáng tác của nhà văn không có nghĩa là kể lại toàn bộ mà kể lại một quãng đời, một tình huống trong đời sống… làm nổi bật tính cách, tình cảm, sáng tạo của nhà văn. Câu chuyện kể phải liên quan tới quá trình nhận thức văn bản. Cách kể chuyện hấp dẫn sẽ có tác động rất lớn trong hoạt động tâm lý nhận thức của HS, mở ra khả năng tiếp nhận văn bản hiệu quả. GV chọn các mẫu chuyện trong các tài liệu như: Chuyện làng văn; Giai thoại văn học … liên quan về tác giả, tác phẩm lý thú, phù hợp nội dung yêu cầu bài dạy kể cho HS, vừa tạo ấn tượng để nhớ kỹ bài học, vừa có kiến thức văn học và cuộc sống, tạo những đam mê tìm tòi, nghiên cứu, đọc sách báo ở các em. Chẳng hạn, khi dạy về tác gia Nguyễn Du, GV cần kể một số câu chuyện phong lưu tài tử khi ông ở cùng anh là Nguyễn Khản trong phủ Chúa Trịnh; về chuyện tình của chàng trai tài tử đa tình học cần sĩ Nguyễn Du với cô gái Đỗ Thị Nhật. Chuyện kể rằng, lúc Nguyễn Du 17 tuổi, ông thường sang đò qua Gia Lâm để học, ông thường đi đò của cô gái tên Nhật- một cô gái trẻ, đẹp, duyên dáng lại biết đôi chút chữ nghĩa, ông đâm mê cô lái đò bèn làm mấy câu thơ gửi cho cô Nhật: Ai ơi chèo chống tôi sang Để trởi trưa trật lỡ làng tôi ra Còn nhiều qua lại lại qua Giúp cho nhau nữa kẻo mà….. 17 Hai chữ cuối Nguyễn Du bỏ lững. Khi nhận thư, cô gái tủm tỉm cười và điền thêm vào hai chữ- theo em đó là chữ gì? HS vừa tư duy cách thả thơ độc đáo mà Nguyễn Du “ưỡm ờ” đặt ra (chữ của cô Nhật là “quen nhau”). Sau đó Nguyễn Du theo lệnh mẹ kế họ Đoàn về lấy vợ ở Thài Bình. Mười năm sau trở lại bến đò xưa, cô gái họ Đỗ đã lấy chồng, ông bèn ngậm ngùi: Yêu nhau những muốn gần nhau Biển sâu muôn trượng, tình sâu muôn đời Vì đâu xa cách đôi nơi Bến nay còn đó, đâu người năm xưa (Câu chuyên kể ghi lại trong bài “Nỗi hận tình của tôi”) * Một thực tế là hiện nay, HS rất ít khi đọc sách, ngay cả đọc những tác phẩm trong nhà trường. Thông thường các em chỉ nắm cốt truyện một cách sơ lược. Sử dụng hình thức kể chuyện có nghệ thuật khi tóm tắt tác phẩm để HS có những hiểu biết cơ bản về tác phẩm, gợi những đam mê, khao khát tìm đọc tác phẩm. Với những tác phẩm lớn, nhiều nhân vật, nhiều sự kiện thì việc vẽ sơ đồ kết hợp với lời kể có tác dụng giúp HS dễ theo dõi cốt truyện. Lời kể phải dựa trên những sự kiện và tình huống chính trong tác phẩm để hình thành cho người nghe một dự cảm tiếp nhận thẩm mỹ và bước đầu nhập thân vào tác phẩm, để từ đó xác định được trọng tâm của vấn đề cần nhận thức. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU III.1 Khách thể nghiên cứu. Tôi đã chọn hai lớp 10 Ban cơ bản chuẩn là 10A10 và 10A11 của trường THPT Hoàng Hoa Thám. Đây là hai lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy trong năm học năm 2013– 2014. III.2 Thiết kế nghiên cứu. Tôi chọn lớp 10A10 làm lớp Thực nghiệm, và lớp 10A11 làm lớp Đối chứng. Đây là hai lớp đã làm bài kiểm tra trước tác động và chưa áp dụng một số phương pháp nâng cao hiệu quả đọc hiểu từ việc khai thác kiến thức của phần Tiểu dẫn trong 18 SGK, và có điểm số trung bình bằng nhau. Bên cạnh, hai lớp này còn có nhiều điểm tương đồng như về sĩ số, ý thức học tập, và cùng học Ban cơ bản Chuẩn. Tổng số Điểm học sinh Trung bình 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 10A10 38 6,1 0 0 1 1 9 14 9 4 0 0 10A11 38 6,1 0 0 2 2 7 12 10 5 0 0 Lớp Số lượng điểm số các bài kiểm tra trước tác động Bảng III.2.1. Điểm kiểm tra của hai nhóm trước tác động Tiếp theo là thiết kế kiểm tra sau tác động đối với các lớp Thực nghiệm và lớp Đối chứng. Lớp Thực nghiệm 10A10: Sử dụng một số phương pháp khai thác và tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn như đã nêu vào quá trình tổ chức bài học trên lớp nhất là ở các bài đọc thêm và liên quan đến tác giả. Lớp Đối chứng 10A11: Không sử dụng một số phương pháp khai thác phần Tiểu dẫn trong quá trình tổ chức bài học trên lớp nhất là ở các bài đọc thêm và liên quan đến tác giả. III.3 Quy trình nghiên cứu Nghiên cứu một số bài học trong chương trình Ngữ Văn 10 học kì 2 gồm: - Tựa Trích diễm thi tập - Đọc thêm: Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - Đọc thêm: Thái sư Trần Thủ Độ - Chuyện chức phán sự đền Tản Viên - Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Truyện Kiều (Các đoạn trích) - Khi thiết kế giáo án: trước khi khai thác phần đọc – hiểu đều tập trung khai thác sâu, kĩ lưỡng phần tiểu dẫn nhất là những kiến thức liên quan đến tác giả,hoàn cảnh ra đời của tác phẩm… - Dạy lớp Thực nghiệm: Khi hướng dẫn học sinh khai thác phần đọc hiểu thì đặt câu hỏi đi từ mức độ phát hiện đến tái hiện rồi khái quát nâng cao kết hợp với sơ đồ khái quát kiến thức cơ bản của phần tiểu dẫn hoặc trình chiếu điện tử sơ 19 đồ khái quát kiến thức hoặc yêu cầu học sinh tìm những câu chuyện liên quan đến tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. - Dạy lớp Đối chứng: Khi hướng dẫn các học sinh khai thác nội dung phần đọc hiểu thì chỉ sử dụng phương pháp diễn giảng kết hợp với thuyết trình, vấn đáp, trình bày trên bảng đen – phấn trắng theo các gạch đầu dòng. - Trong quá trình giảng dạy các lớp Thực nghiệm và Đối chứng, tôi thường cho các em hoạt động theo nhóm hoặc cá nhân để xác định nội dung cơ bản của phần Tiểu dẫn. Nếu là hoạt động nhóm, mỗi nhóm sẽ thuyết trình bài làm của mình ngay trên lớp. Nếu là hoạt động theo cá nhân, tôi sẽ chọn ngẫu nhiên vài em thuyết trình. - Tiến hành quá trình nghiên cứu ở lớp Thực nghiệm 10A10 và lớp Đối chứng 10A11 theo đúng phân phối chương trình của Ngữ văn 10 học kì 2 cũng như chương trình giảm tải của Bộ giáo dục và đào tạo đồng thời theo kế hoạch giảng dạy của tổ, nhóm chuyên môn Tiết 62 65 - 66 Lớp 10A10 10A11 Tên bài dạy Đọc thêm : Tựa Trích diễm thi tập Ngày dạy 20/01/2014 25/01/2014 10A10 -Đọc thêm: Hưng Đạo Đại Vương 10/02/2014 10A11 Trần Quốc Tuấn 14/02/2014 -Đọc thêm: Thái sư Trần Thủ Độ 68 - 69 79- 80 85 -86 -88 10A10 Chuyện chức phán sự đền Tản Viên 17/2/2014 10A11 21/2/2014 10A10 Tình cảnh lẻ loi của người chinh 17/03/2014 10A11 phụ 20/03/2014 10A10 Trao duyên 31/03/- 8/4/2014 10A11 Đọc thêm : Nỗi thương mình 2/4 – 10/4/2014 Chí khí anh hùng Bảng III.3.1. Bảng thời gian tiến hành thực nghiệm III.4 Đo lường và thu thập dữ liệu Để kiểm tra hiệu quả của một số phương pháp mà bản thân vận dụng khi khai thác và tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn, tôi đã cho các học sinh lớp thực nghiệm và lớp đối chứng làm bài kiểm tra đánh giá. Sau đó, tôi tiến hành so sánh điểm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất