Skkn - phuong 13 - 14.doc
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
MỤC LỤC
A.
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
I. Lý do chọn đề tài......................................................................................................2
II. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................2
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.......................................................................3
IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu................................................................................3
V. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU………………………………………………………….3
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU........................3
1. Cơ sở lý luận.............................................................................................................3
2. Thực trạng.......................................................................................................................11
II. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO TỪ 5 – 6 TUỔI THÔNG
QUA MỘT SỐ TRÒ CHƠI DÂN GIAN………………………………………..13
1. Biện pháp trình chiếu video mẫu trò chơi............................................................13
2. Biện pháp dạy trẻ tự chơi theo nhạc.....................................................................14
3. Biện pháp sử dụng lời nói hướng dẫn chơi...........................................................15
4. Biện pháp giúp trẻ vận dụng ngôn ngữ mạch lạc trong trò chơi.........................16
5. Vận dụng phương pháp giáo dục Mầm non mới để tổ chức các trò chơi dân gian
………………………………………………………………………………..16
III. HIỆU QUẢ…………………………………………………………………….20
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………………………..22
I. KẾT LUẬN……………………………………………………………………...22
II. KIẾN NGHỊ SỰ PHẠM………………………………………………………..22.
III. MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA……………………………………………23
1
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non (GDMN) là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân,
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của
nhân cách con người. Trong thời đại ngày nay, trẻ em luôn được xác định là tương lai của
đất nước, là những chủ nhân quyết định vận mệnh đất nước.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo, bởi vui chơi đã gây
ra những biến đổi về chất, có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành nhân cách trẻ và là
tiền đề cho hoạt động học tập ở lứa tuổi tiếp theo. Phương châm “ Học mà chơi, chơi mà
học ” luôn được quán triệt trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ mẫu giáo ở trường mầm
non. Trong hoạt động vui chơi có rất nhiều trò chơi và một bộ phận không thể không
nhắc đến đó là các trò chơi dân gian – đây là một loại trò chơi được trẻ em mẫu giáo yêu
thích.
Từ xa xưa trẻ em Việt Nam đã có nhu cầu chơi, chúng nghĩ ra các trò chơi, truyền
cho nhau cách chơi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ đó mà trò chơi dân gian được lưu
truyền đến ngày nay. Trò chơi dân gian đã được sử dụng nhiều trong các hoạt động vui
chơi của trẻ ở trường mầm non, trò chơi dân gian có ý nghĩa to lớn trong việc: rèn luyện
thể lực, sự khéo léo , nhịp nhàng, rèn luyện trí tuệ, sự nhanh trí, óc phán đoán, gợi xúc
cảm thẩm mỹ, khả năng hoạt động nhóm, tập thể, sự gắn kết của tình bạn… và đặc biệt
nó góp phần xây dựng nhân cách mang đậm văn hóa dân tộc Việt Nam cho trẻ ngay từ
khi trẻ còn nhỏ.
Đặc trưng của trò chơi dân gian đó là khi trẻ chơi trẻ không bao giờ chỉ hùng hục thực
hiện các vận động của mình mà trẻ vừa chơi vừa hát hay đọc các bài đồng dao đi kèm với trò
chơi. Chính vì thế mà chúng ta nên sử dụng các các bài hát, các bài đồng dao đó để trẻ củng
cố vốn từ, phát triển khả năng diễn đạt và phát âm chính xác của trẻ. Hơn nữa, khi chơi
trẻ sẽ được giao tiếp với nhau khi đó khả năng nói mạch lạc của trẻ cũng được phát triển.
Có thể nói trò chơi dân gian giúp cho ngôn ngữ của trẻ được phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, ngay từ đầu năm học, tôi đã tìm
ra: “ Tăng cường phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi A thông qua một số
trò chơi dân gian tại Trường mầm non Trầm Hương”.
II. Mục đích nghiên cứu
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua một số trò chơi
dân gian.
- Nhằm giúp giáo viên sử dụng trò chơi dân gian linh hoạt trong các hoạt động
hàng ngày của trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non.
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
2
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua một
số trò chơi dân gian.
2. Khách thể nghiên cứu
Trẻ lớp mẫu giáo lớn A trường Mầm non Trầm Hương, Khánh Bình – Khánh Vĩnh
– Khánh Hòa.
IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian: Một năm học 2013 – 2014. Tại lớp lớn A trường Mầm non Trầm Hương
– Khánh Bình – Khánh Vĩnh.
V. Phương pháp nghiên cứu
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
2.2. Phương pháp đàm thoại
2.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
3. Phương pháp toán học thống kê
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học:
1.1.2. Khái niệm về ngôn ngữ
V. Lênin đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
của con người”. Ngôn ngữ là một hệ thống các ký hiệu có cấu trúc, quy tắc và ý nghĩa.
Đồng thời, ngôn ngữ cũng là phương tiện để phát triển tư duy, truyền đạt và tiếp nhận
những nét đẹp của truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Đối với trẻ em, ngôn ngữ là cầu nối để đến với thế giới của nhân loại. Ngôn ngữ trở thành
công cụ để trẻ bày tỏ suy nghĩ, những tâm tư, tình cảm, những mong muốn của cá nhân mình.
Bởi lẽ, trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh, mong muốn hòa nhập
với xã hội của loài người.
1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ
* Ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung
quanh
Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi sự suy nghĩ và là công cụ của tư duy. Trẻ em có
nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh. Trong quá trình nhận thức
những sự vật và hiện tượng, các em phải sử dụng từ ngữ để phân biệt được vật này với vật
khác, biết được tên gọi, màu sắc, hình dáng, công dụng và những thuộc tính cơ bản của vật.
3
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
Trẻ tiếp thu kiến thức từ môi trường xung quanh thông qua khả năng phân tích, so
sánh, tổng hợp, trên cơ sở đó trẻ khái quát về vật.
Từ ngữ giúp cho việc cũng cố những biểu tượng đã hình thành ở trẻ.
Mặt khác trẻ còn tìm hiểu những sự vật hiện tượng không xuất hiện trực tiếp trước mắt
trẻ, những sự vật xảy ra trong quá khứ, tương lai. Cho nên ngôn ngữ không chỉ giúp cho trẻ
củng cố kiến thức mà còn mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh.
Nhờ có ngôn ngữ, trẻ nhận biết được ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng từ đơn
giản dần tới phức tạp mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hằng ngày, giúp trẻ hình
thành, phát triển phong phú các biểu tượng về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ngôn ngữ và tư duy cùng
song song tồn tại và phát triển với nhau. Những ý tưởng của trẻ được bộc lộ bằng ngôn
ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ hình thành và phát triển tư duy. Ngôn ngữ của trẻ
được phát triển dần theo lứa tuổi, điều đó sẽ giúp trẻ không chỉ tìm hiểu những hiện
tượng, sự vật gần gũi xung quanh, mà còn có thể tìm hiểu cả những sự vật không xuất
hiện trước mắt trẻ, những sự việc xảy ra trong quá khứ và tương lai. Trẻ hiểu được những
lời giải thích, sự gợi ý của người lớn, biết so sánh, khái quát và dần dần hiểu được bản
chất của sự vật, hiện tượng, hình thành những khái niệm sơ đẳng. Sự hiểu biết của trẻ về
thế giới xung quanh ngày càng rộng lớn hơn. Nhận thức của trẻ được rõ ràng, chính xác
và trí tuệ của trẻ không ngừng được phát triển.
Ngôn ngữ còn là công cụ giúp trẻ hoạt động vui chơi và nhận thức thế giới xung
quanh một cách phong phú hơn. Bởi chơi là phương tiện mở rộng, củng cố chính xác hóa
biểu tượng của trẻ về cuộc sống xung quanh. Nội dung chủ yếu của chơi là phản ánh thế
giới xung quanh trẻ, nên khi tham gia vào hoạt động này trẻ càng hiểu sâu hơn về cuộc
sống xung quanh mình. Tất cả những điều trẻ lĩnh hội trước lúc chơi dưới nhiều hình thức
hoạt động khác nhau sẽ được chính xác hơn, phong phú hơn.
* Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người. Đặc biệt đối với trẻ nhỏ, đó là
phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh, hình thành những cảm
xúc tích cực. Ngôn ngữ dùng để diễn đạt, phát biểu để trình bày ý tưởng, nguyện vọng của
mình cho người khác biết.
Ngôn ngữ đóng vai trò rất lớn trong việc điều chỉnh những hành vi và việc làm của
trẻ. Trong giao tiếp hàng ngày, thông qua truyện kể, ca dao, đồng dao, nhất là trong các
trò chơi dân gian,… trẻ cảm nhận được cái hay cái đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp
trong hành vi, trong cuộc sống.
Những câu hát ru ngọt ngào, những cử chỉ âu yếm kèm theo tình cảm yêu mến
thông qua ngôn ngữ sẽ đem đến cho trẻ những cảm giác bình yên, sự vui mừng hớn hở.
Đặc biệt là qua lời ru, mẹ đã dạy cho con nghệ thuật âm nhạc, thơ ca dân tộc để con biết
4
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
yêu vẻ đẹp của thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, yêu bà con làng xóm, truyền cho
con những ý niệm cơ bản về thiện ác để hun đúc ở đứa con lòng nhân ái. Ngay cả những
lúc nựng con thì đây là cuộc trò chuyện đằm thắm nhất, đầy tình yêu thương và lòng tin
cậy, trong đó người mẹ đã nói với con bằng cả tấm lòng và đứa con đã nghe mẹ với tất cả
sự sung sướng và niềm say mê của mình. Dù có ý thức hay chưa có ý thức rõ ràng, nhiều
người mẹ cũng đã dạy con học ăn, học nói, học gói, học mở - học làm người bằng
những phương thức nghệ thuật đó khiến cho việc tiếp thu của đứa con vừa rất tự
nhiên lại vừa có hiệu quả cao giúp cho trẻ tiếp cận đẽ dàng hơn với văn hoá của
dân tộc.
Khi giao tiếp với người lớn, trẻ tiếp nhận được những sắc thái tình cảm khác nhau.
Qua nét mặt, giọng nói, ngữ điệu, ngữ nghĩa chứa đựng trong các từ, các câu nói, dần dần
trẻ cũng biết thể hiện những cảm xúc khác nhau của mình. Người lớn như là chiếc gương
để trẻ soi mình vào trong đó. Trong quá trình giao tiếp, người lớn luôn hướng dẫn, uốn
nắn hành vi của trẻ bằng lời nói, nét mặt, nụ cười, giúp trẻ có thể nhận ra được hành vi
của mình là đúng hay là sai. Bằng cách đó, ở trẻ dần dần hình thành những thói quen tốt
và học được những cách ửng xử đúng đắn. Người lớn có thể khen trẻ khi chúng làm đúng
và tốt, cổ vũ, động viên kịp thời cho những hành vi đúng đắn hay có những ý tưởng hay
của trẻ. Khi trẻ làm sai hay nói sai, người lớn tỏ vẻ không bằng lòng bằng ánh mắt, nét
mặt nghiêm nghị kèm theo lời nói với giọng điệu nghiêm túc thì trẻ sẽ nhận thức được cái
sai của mình và sửa sai.
Ngôn ngữ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ. Nó tác
động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng
đắn cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật. Các sự vật, hiện tượng
mà trẻ quan sát được trong môi trường sống được in hằn trong trí não của trẻ. Nhưng để trẻ
biết cái lá có màu xanh, bông hoa có màu đỏ, con cá vàng bơi trong nước,… nó trở nên đẹp
như thế nào thì thông qua ngôn ngữ trẻ sẽ nhận thức được cái hay, cái đẹp đó trong cuộc
sống xung quanh mình. Từ đó hình thành ở trẻ thái độ tôn trọng cái đẹp và đồng thời kích
thích sự sáng tạo ra cái đẹp ở trẻ.
Những hình ảnh tưởng tượng này không chỉ đem lại cho tuổi thơ niềm hạnh phúc
mà còn cần cho mỗi người sau này lớn lên, phương tiện có hiệu quả nhất để nuôi dưỡng
sự tưởng tượng đó là trò chơi. Điều đó giúp trẻ có nhiều ấn tượng đẹp và tâm hồn trẻ sẽ
càng thêm phong phú. Từ đó, trẻ sẽ biết yêu quý và có ý thức giữ gìn những cái hay cái
đẹp trong cuộc sống.
Khi trẻ được tiếp xúc thường xuyên với ngôn ngữ văn học như thơ, truyện, ca dao,
đồng dao,… trẻ sẽ được chìm vào với thế giới đa dạng màu sắc. Bao nhiêu loại người
khác nhau, loại người tốt sao gần gũi, mến thương; loại người xấu sao vừa ghét lại vừa
sợ… Những phong cảnh xa lạ từ những khu rừng rậm rạp bí hiểm, đến biển cả mênh
mông, những lâu đài tráng lệ, những con thú chưa hề thấy,… tất cả đã nhập vào tâm hồn
5
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
của các em bé với những màu sắc lung linh kì ảo. Tâm hồn các em được rộng mở, trí
tưởng tượng được kích thích mạnh mẽ, thôi thúc các em muốn khám phá những điều kì lạ
và lí thú trong các câu chuyện hết sức hấp dẫn. Những câu thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu,
những bài đồng dao ngộ nghĩnh có đoạn điệp khúc nhắc đi nhắc lại dễ nhớ… khiến trẻ
muốn đọc theo và sẽ nhớ rất lâu. Đây chính là thời cơ thuận lợi để trẻ tiếp xúc với ngôn
ngữ văn học, đặc biệt là văn học dân gian. Điều đó giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, nó
giúp trẻ sáng tạo ra những cái mới, hình thành những ước mơ táo bạo, những hoài bão về
cuộc sống tương lai.
* Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập với cộng đồng và trở thành thành viên của
cộng đồng
Ngay từ lúc mới đầu, đứa trẻ không thể nhận thức được những gì đang tồn tại xung
quanh nó. Để thỏa mãn sự hiểu biết đó mà nó thường đặt ra hàng vạn câu hỏi cho bố mẹ
và người xung quanh chúng. Vì thế, người lớn trở thành chiếc cầu nối trẻ với cộng đồng,
với thế giới thông qua ngôn ngữ. Người lớn đã dẫn dắt trẻ hình thành tình cảm, thái độ,
nhận thức về con người, đồ vật gần gũi xung quanh. Nhờ sự biết đi, biết nói mà trẻ ngày
càng mở rộng phạm vi tiếp xúc, phát triển nhận thức đối với thế giới xung quanh và hình
thành “ý thức bản ngã”. Trẻ muốn tự lập hơn, thể hiện các hành vi theo ý nghĩ riêng của
mình trong các trò chơi. Qua những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần hiểu được
những quy định chung của cộng đồng mà mọi thành viên trong cộng đồng đều phải thực
hiện. Trước tiên, là những nề nếp sinh hoạt của gia đình, nhóm trẻ, trường mầm non. Sau
đó, là những quy định ngoài xã hội, những gì trẻ được phép làm và không được phép
làm.
Mặt khác, để bày tỏ những những nhu cầu mong muốn của mình với những thành viên
trong cộng đồng, trẻ sử dụng ngôn ngữ để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân mình. Điều đó giúp
trẻ hòa nhập hơn với mọi người xung quanh mình.
* Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục thể lực cho trẻ
Giáo dục thể lực đối với trẻ em là quá trình tác động chủ yếu vào cơ thể của trẻ, việc
vận động, rèn luyện cơ thể, giữ gìn vệ sinh và có chế độ sinh hoạt hợp lý nhằm bảo vệ và
làm cho cơ thể trẻ phát triển hài hòa, cân đối, sức khỏe tăng cường đạt đến trạng thái
hoàn thiện về mặt thể chất.
Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày, cô giáo và người lớn đã dùng chính ngôn ngữ của
mình để nhằm hướng dẫn, chỉ bảo trẻ thực hiện tốt các yêu cầu do mình đề ra góp phần
làm cho cơ thể trẻ phát triển. Đặc biệt, trong giờ thể dục, giáo viên đã tạo điều kiện giúp
trẻ thực hiện chính xác các động tác làm cho cơ thể phát triển được cân đối bằng chính
lời nói của mình.
Ngoài chế độ sinh hoạt hàng ngày, trẻ cần phải được ăn ngon, ăn đủ chất thì cơ thể
của trẻ mới phát triển hoàn thiện được. Để động viên, khích lệ trẻ ăn được thì người lớn
đóng một vai trò rất quan trọng.
6
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
1.1.3. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi
Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự mở rộng giao lưu của trẻ đối với thế giới
xung quanh, với con người, với đồ vật và thiên nhiên. Việc mở rộng phạm vi tiếp xúc và
các mối quan hệ xã hội giúp cho khả năng tri giác của trẻ nhanh nhạy hơn.
Trẻ từ 5 – 6, tuổi khả năng nhận thức vốn từ tăng lên một cách đáng kể, bình quân
tăng 1033 từ. Trẻ học từ mới nhanh hơn, phát âm các từ tốt hơn so với các giai đoạn lứa
tuổi trước. Vì vậy mà vốn từ của trẻ ở giai đoạn này phong phú, bao gồm nhiều từ loại.
Các loại danh từ, động từ đã ngường chổ cho tính từ. Trẻ hiểu được ý nghĩa của nhiều từ
loại khác nhau và biết sử dụng chúng để thể hiện mối liên hệ đa dạng giữa các sự vật và
hiện tượng về thơi gian, định hướng không gian, số lượng, nguyên nhân và kết quả. Trẻ có
khả năng tri giác âm thanh nhanh nhạy và khả năng phát âm mềm dẻo tự nhiên. Trẻ ham học
hỏi, thích tìm hiểu về xã hội và tự nhiên. Trẻ chủ động giao tiếp ngôn ngữ với những người
xung quanh và hay đặt các câu hỏi như: “Như thế nào?”; “Làm gì?”; “Bao giờ?”; “Tại sao?”…
Những câu hỏi, câu trả lời hay những câu nói của trẻ ngày càng được hoàn thiện
hơn. Số lượng các câu nói đúng ngữ pháp cũng được tăng lên một cách rõ rệt, các thành
phần trong câu nói được phát triển. Bởi trẻ biết lắng nghe các câu trả lời, câu nói của
người khác.
Đặc biệt, ở lứa tuổi này trẻ thích tham gia, hòa nhập với tập thể. Trẻ hứng thú đặc
biệt với việc rèn luyện những kĩ năng vận động mới học được và sử dụng những kĩ năng
đó để hoạt động, di chuyển. Trẻ biết sử dụng vốn ngôn ngữ của mình để tham gia vào các
trò chơi cùng bạn bè, cô giáo một cách say sưa, nhiệt tình và giao tiếp khéo léo hơn. Trẻ
có thể diễn tả những hành động phức tạp và hăng hái kể về những điều xảy ra với nó.
Khả năng tiếp thu và sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hằng ngày của trẻ ngày càng
tốt hơn. Trẻ rất thích tưởng tượng, chúng đã biết yêu cái thiện, ghét cái ác. Chính vì vậy,
trẻ rất thích nghe những câu chuyện về động vật dễ thương, thiện ác phân minh, kết thúc có
hậu. Trẻ không những tự mình xây dựng cốt truyện mà còn có thể thuật lại những câu chuyện
nó đã nghe người khác kể.
1.2. Trò chơi dân gian với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
1.2.1. Khái niệm trò chơi dân gian
Trò chơi dân gian trẻ em là một loại hoạt động văn hóa dân gian dành cho trẻ em,
được lưu truyền từ vùng này sang vùng khác, từ đời này sang đời khác nhằm thỏa mãn
nhu cầu vui chơi giải trí và giáo dục trẻ em một cách tinh tế nhẹ nhàng. Những trò chơi
này được tổ chức nhằm tạo cho trẻ những cảm giác hứng thú, thoải mái, phát triển vận
động kết hợp với lời nói.
1.2.2. Đặc điểm của trò chơi dân gian trẻ em
Trò chơi dân gian là một loại hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc của mỗi dân tộc.
Không có dân tộc nào lại không có những trò chơi riêng cho trẻ em. Bởi trò chơi dân
7
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
gian thường đơn giản, dễ chơi, dễ hòa nhập. Ở bất cứ đâu, trong gia đình, trong lớp
học hay ở thôn xóm, trong các bản làng đều có thể tổ chức trò được trò chơi dân
gian phù hợp: ở sân nhỏ thì có thể chơi “ô ăn quan”, “đá cầu”, … rộng hơn thì chơi
“bịt mắt bắt dê”, “rồng rắn lên mây”,…
Vật liệu để chơi trò chơi dân gian rất đơn giản, không cầu kỳ, tốn kém, dễ kiếm,
dễ tìm như: nắm sỏi, cọng cỏ, lá hay những mẩu gỗ,… chúng có thể nhặt trong vườn,
dưới ruộng.
Song, hầu hết các trò chơi dân gian của trẻ em đều gắn liền với những bài đồng dao
với ngôn từ giản dị, mộc mạc, vô tư, hồn nhiên, vui tươi và ngộ nghĩnh. Đó là những câu vè
ngắn gọn, có nhịp điệu, âm thanh dễ thuộc, dễ nhớ thường được sử dụng trong khi chơi các
trò chơi như là: “Dung dăng dung dẻ”, “Thả đỉa ba ba”, “Chi chi chành chành”, hay “rồng
rắn lên mây” là trò chơi gắn với đồng dao nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy
tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp:
“Rồng rắn lên mây
Có cây lúc lắc
Có nhà khiển binh
Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không?...”
Logic của đồng dao chính là logic của trò chơi, nhưng cũng không thể bắt nó phải
theo cái logic của hiện thực mà mang tính nhảy cóc. Ta có thể hiểu rằng không ai có thể
giải thích được:
“Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa”
là cái gì? Tại sao lại:
“Cái cống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mậ….”
Cũng bởi cái lối nhảy cóc đó lại là yếu tố gắn bó với trò chơi để đưa các em vào với
thế giới của trò chơi, khác với thế giới ở bên ngoài lại tạo nên tính hấp dẫn cho đứa trẻ.
Ta dễ nhận thấy một biện pháp tu từ học rất tiêu biểu cho đồng dao là biện pháp nói
ngược, trái hẳn với cái logic thực tế, logic của cuộc đời, chính vì nó đảo như vậy mới tạo
sự hấp dẫn. Chẳng hạn như:
“Trời làm một trận mưa rào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống đuổi chuột trong bồ
Đong đong càn cấn đuổi cò ngoài ao”
Hay là:
8
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
“Bao giờ cho chuối có cành
Cho sung có nụ, cho hành có hoa
Bao giờ cho khỉ đeo hoa
Cho voi đánh sáp, cho gà nhuộm răng”.
Biện pháp nói ngược ngộ nghĩnh này rất phù hợp với không khí của trò chơi, vì nó làm
cho trẻ vui thích, kích thích tính tò mò, ham tìm hiểu của chúng.
Đồng dao là của trẻ em nên đồng dao có tính chất vui chơi phù hợp với tâm sinh lí
của trẻ. Đồng dao gợi lên tình yêu hồn nhiên của trẻ đối với con ong, cái kiến, con cò,
con vạc,… Khi trực tiếp tham gia vào trò chơi, trẻ hát đồng dao và qua đó trẻ tiếp thu
được những điều hay lẽ phải một cách tinh tế, nhẹ nhàng, thoải mái.
Trò chơi dân gian gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên. Trong trò chơi, con người (đặc
biệt là trẻ) và thiên nhiên hòa quyện vào với nhau, thiên nhiên trở nên có hồn và gần gũi
với trẻ hơn. “Cây mốt, cây mai, lá trai, lá hến, con nhện chăng tơ, quả mơ có hạt...” là bài
đồng dao thường hát để chơi chuyền dụng cụ là một quả bóng (có thể được thay bằng
một hòn đá hoặc quả ổi xanh) và 10 que tre được vót tròn.
Trò chơi dân gian được sáng tác dựa trên mô phỏng bắt chước hoạt động của người
lớn trong xã hội nhưng không phụ thuộc vào nghiêm ngặt vào sự thay đổi của cuộc sống
đang diễn ra hằng ngày mà phát triển theo những quy luật riêng, ít nhiều mang tính chất
ổn định.
Nhưng chính nó vì được sáng tác dựa trên hiện thực cuộc sống lao động và sinh
hoạt của con người, nên khó có thể tìm ra được ai là tác giả của những trò chơi này, và
cũng khó xác định được ngày, tháng, năm ra đời của chúng.
Trò chơi dân gian của trẻ em được chia thành bốn loại:
* Loại trò chơi vận động: Gồm các trò chơi cho trẻ em vận động chân tay, chạy nhảy, lộn
vòng, gây không khí vui nhộn, sinh động như “Tập tầm vông”; “Dung dăng dung dẻ”; …
Những trò chơi này thường được chơi ở ngoài trời để tiếp xúc với thiên nhiên, với cảnh vật
xung quanh, nhằm tăng cường sức khoẻ và các tố chất về thể lực cho trẻ em.
* Loại trò chơi học tập: Đó là trò chơi nhằm phát huy trí tuệ của trẻ em, dạy cho các em
biết quan sát, tính toán. Như trò chơi “Ô ăn quan”, “Chuyền thẻ”,… nhằm phát triển trí
tuệ cho trẻ.
* Loại trò chơi mô phỏng: Đây là những trò chơi mà trẻ mô phỏng, bắt chước cách sinh
hoạt của người lớn như làm nhà, cấy ruộng, nấu ăn,… Đặc biệt những trò chơi này có tác
dụng phát huy trí tưởng tượng của trẻ em, mẩu lá cũng được xem là món ăn ngon, vỏ sò,
vỏ hến cũng được xem là những cái nồi niêu, bát đũa, cái mo cau biến thành con ngựa.
Trong trò chơi này, các em hoá thân, nhập vai thành những người lớn mà các em thích.
Nhờ đó trẻ nhập vào các mối quan hệ xã hội, học được cách ứng xử giữa người lớn với
nhau, qua đó mà trẻ học làm người.
9
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
* Loại trò chơi sáng tạo: Đây là những trò chơi trong đó trẻ em tự tay làm nên những đồ
vật bằng vật liệu trong thiên nhiên, như xếp lá dứa thành cái chong chóng, xếp lá đa
thành con trâu, xếp lá chuối thành con cào cào, kết hoa thành vòng vàng xuyến bạc, tết
những cọng rơm, cọng rạ thành những hình người. Những trò chơi này giúp các em khéo
tay, phát huy sáng kiến, khơi dậy khiếu thẩm mĩ cần cho cuộc sống và lao động sau này.
1.2.3. Vai trò của trò chơi dân gian trong việc giáo dục trẻ
Trò chơi dân gian là một phương tiện giáo dục nhân cách toàn diện cho trẻ em. Trò
chơi dân gian cung cấp cho trẻ những kiến thức xã hội cần thiết cho cuộc sống của trẻ:
Trẻ tập đi mua bán, tập làm nhà cửa, trẻ tập làm quen với các nghề nghiệp trong xã hội… Khi
chơi, trẻ tiếp thu được những điều hay lẽ phải, biết yêu cái đẹp và nhìn nhận cuộc sống
một cách phong phú hơn, còn rèn luyện được những thói quen cần thiết cho cuộc sống
hiện thực không chỉ ở hiện tại mà còn cần thiết cả trong tương lai.
Khi trẻ hòa mình vào thế giới trò chơi, trẻ sẽ được trải nghiệm với các mối quan hệ.
Đặc biệt, trẻ được giáo dục có thái độ đúng đắn trong các mối quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người với thiên nhiên. Khôi phục và tổ chức trò chơi dân gian,
một di sản văn hoá dân tộc cho trẻ em chúng ta ngày hôm nay nhằm để lại một “nét hoa
văn” mang bản sắc dân tộc Việt Nam trong tâm hồn của thế hệ mầm non đang trong thế kỷ
XXI.
Trò chơi dân gian rất giàu yếu tố tưởng tượng nó phù hợp với đặc điểm phát triển
tâm lí của trẻ. Trẻ em vốn có trí tưởng tượng phong phú nên mọi vật đều như có hồn.
Chúng có thể trò chuyện với cỏ cây, hoa lá, các loài vật, đồ vật xung quanh và hình dung
rất hồn nhiên, chân thực rằng đó là những cuộc đối thoại hết sức thú vị như được trò
chuyện với những người bạn thân thiết của mình. Trong khi chơi, trẻ biết sử dụng vật này
để thay thế cho vật kia, biết đóng các vai khác nhau khi thì vai người mẹ, khi thì vai người
bác sĩ, học sinh, người bán hàng, có thể trẻ sẽ tưởng tượng ra các điều khác nhau mà đối với
trẻ cũng trở nên thú vị hơn,… Với đầu óc giàu sức tưởng tượng, trẻ thấy được con sên biết
lên công chúa, con cua biết cắp giỏ theo hầu và ông trăng biết xuống chơi cho có bầu, có
bạn…
Trò chơi dân gian còn là phương tiện để phát triển ngôn ngữ mạch lạc, chính xác và
có hiệu quả. Khi tham gia vào trò chơi, trẻ được ca hát, nhảy múa, đối đáp, hay phải sáng
tạo từ ngữ,… Qua đó, vốn từ của trẻ trở nên phong phú, ngôn ngữ mạch lạc hơn.
Trò chơi vui - khỏe - khéo léo là những trò chơi dân gian tổng hợp vì mỗi trò chơi
kết hợp nhiều kỹ năng vận động thể lực. Trẻ trở nên nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo trong
các hoạt động và phản xạ nhạy bén hơn khi tự mình nhập cuộc vào các trò chơi vận động
dân gian. Trò chơi nhằm mục đích phát huy tính tích cực chủ động của trẻ, giúp trẻ mở
rộng các mối quan hệ như: “Cướp cờ”, “Kéo co”, hay “Hái quả”, “Chui vào hang bắt
chuột đồng”, hoặc “Chuột túi nhảy qua rãnh nước - tới đích lấy cờ”.
10
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
Trò chơi dân gian trẻ em còn có ý nghĩa luyện kĩ năng. Trò chơi thường được lặp đi
lặp lại nhiều lần, có khi hàng chục lần mà trẻ vẫn không thấy chán. Chơi hết cuộc, các em
lại chơi lại và sự lặp đi lặp lại đó tạo kĩ năng thành thạo, trẻ sẽ ấn tượng về thực tiễn cuộc
sống được củng cố vững chắc. Trò chơi dân gian có nhiều thể loại phù hợp với các sở
thích, cá tính khác nhau của nhiều đối tượng người chơi như sôi nổi, điềm đạm hay trầm
tĩnh. Mỗi trò lại có một quy luật riêng, mang những sắc thái khác nhau khiến trẻ em chơi
suốt ngày mà không thấy chán.
Đối với trẻ em của chúng ta ngày nay, trò chơi dân gian còn góp phần hình thành
nên nhân cách văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Trong thời buổi đất nước đang
hội nhập, công nghệ ngày một hiện đại hơn cùng với những linh kiện điện tử máy móc
công phu nhưng cũng không thể thiếu được các trò chơi dân gian truyền thống. Nó chính
là sự nối tiếp các giá trị văn hóa dân tộc từ đó góp phần tạo dựng nên nhân cách văn hóa
dân tộc cho trẻ em.
2. Thực trạng.
2.1. Thuận lợi và khó khăn:
Thuận lợi
- Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, nhà trường tạo điều kiện cho các giáo viên,
hoc sinh có phòng học, sân bãi sạch sẽ.
- Các cháu ngoan, nhanh nhẹn, yêu thích các trò chơi cô nhiệt tình hòa đồng với trẻ
trong khi chơi.
- Được các cấp lãnh đạo, ngành, nhà trường bồi dưỡng về các chuyên đề phát triển
ngôn ngữ, chuyên đề tăng cường Tiếng Việt cho trẻ.
- Được Ban Giám Hiệu truyền đạt tận tình về phương pháp giáo dục mầm non mới và
chỉ đạo tăng cường sử dụng các trò chơi dân gian trong công tác giáo dục trẻ.
Khó khăn:
- Trong những năm gần đây các trò chơi dân gian bị mai một dần, do cuộc sống ngày
càng nhiều áp lực về học tập đối với con trẻ, công việc của cha mẹ nhiều cho nên không
có thời gian bày cho các con chơi những trò chơi dân gian
- 64% cháu là người dân tộc thiểu số nên tiếng Việt trẻ cũng chưa thông thạo.
2.2. Khảo sát thực trạng ngôn ngữ của trẻ vào tháng 10/2013 khi chưa áp dụng
các biện pháp
Bảng 1: Các tiêu chí đánh giá thực trạng phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua một số trò
chơi dân gian.
STT
1
Các tiêu chí đánh giá
Khả năng phát âm
Mức độ
+ Diễn đạt dễ dàng
Xếp loại
Tốt
+ Diễn đạt bình thường
Khá
+ Diễn đạt khó khăn
Trung bình
11
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
+ Không diễn đạt được
+ Nhanh
+ Bình thường
2
3
Khá
+ Chậm
Khả năng hiểu từ
Yếu
Tốt
Trung bình
+ Không hiểu
Khả năng hiểu nội dung trò + Nhanh
chơi
+ Bình thường
Yếu
Tốt
Khá
+ Chậm
Trung bình
+ Không hiểu
Yếu
Bảng 2: Kết quả khảo sát thực trạng ngôn ngữ của 25 trẻ của lớp mẫu giáo lớn A đầu năm
học 2013 - 2014
Khả năng
ngôn ngữ
Tốt
Khả năng phát âm
Khả năng hiểu từ
Khả năng hiểu nội
dung trò chơi
6
5
7
Số lượng trẻ
Trung
Khá
bình
8
9
8
10
8
Yếu
2
2
24%
20%
1
9
Tốt
Tỉ lệ %
Trung
Khá
bình
32%
36%
32%
40%
28%
32%
36%
Yếu
8%
8%
4%
Bảng 2: Kết quả khảo sát thực trạng ngôn ngữ của 24 trẻ của lớp mẫu giáo lớn B đầu năm học
2013 - 2014
Khả năng
ngôn ngữ
Tốt
Số lượng trẻ
Trung
Khá
bình
7
9
8
9
Yếu
Tỉ lệ %
Trung
Tốt
Khá
bình
20.8% 29.2% 37.5%
16.7% 33.3% 37.5%
Yếu
Khả năng phát âm
5
3
12.5 %
Khả năng hiểu từ
4
3
12.5 %
Khả năng hiểu nội
6
8
9
1
25% 33.3% 37.5% 4.2 %
dung trò chơi
Nhìn vào 2 bảng khảo sát thực trạng ngôn ngữ của 2 lớp ta thấy đặc điểm phát
triển ngôn ngữ của 2 lớp không chênh lệnh nhau nhiều. khả năng ngôn ngữ của trẻ chủ
yếu là trung bình và vẫn còn có trẻ có khả năng ngôn ngữ yếu.
2.3. Nguyên nhân:
- Đa số cháu là người dân tộc thiểu số nên tiếng Việt trẻ cũng chưa thông thạo.
II. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO TỪ 5 – 6
TUỔI THÔNG QUA MỘT SỐ TRÒ CHƠI DÂN GIAN
1. Biện pháp trình chiếu video mẫu trò chơi
1.1. Yêu cầu
12
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
Video được trình chiếu phải đảm bảo tính thẩm mỹ, màu sắc, kích cỡ. Video phải
thích hợp với góc nhìn của trẻ và tạo được sức hấp dẫn cho trẻ, âm thanh phù hợp và thu
hút trẻ.
Trong video phải có đầy đủ quy trình của trò chơi, đảm bảo chính xác về nội dung
của trò chơi. Ngôn ngữ trong sáng, mang màu sắc dân gian và phù hợp với lứa tuổi mầm
non.
Sử dụng video để truyền đạt tới trẻ, sẽ giúp trẻ bắt chước cách chơi nhanh hơn. Hình
ảnh kết hợp với âm thanh tạo sự cuốn hút đối với trẻ. Tuy nhiên, ngôn ngữ trong các video
cho trẻ xem có tác động tới trẻ rất lớn khiến cho trẻ nhập tâm hơn, từ đó hình thành thái độ,
tình cảm cho trẻ một cách sâu sắc.
1.2. Cách tiến hành
Dùng các video để cho trẻ học và nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ là biện pháp rất
hiệu quả để kích thích sự khám phá tò mò của trẻ.
Sử dụng video như là phương tiện trực quan để giúp trẻ trực tiếp quan sát được
những cái hay cái mới mẻ, độc đáo thông qua sự mô tả của công nghệ hiện đại. Đây cũng
là con đường để truyền thụ những tri thức, hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo và năng lực
nhận thức, năng lực chơi của trẻ.
1.3. Điều kiện vận dụng
Giáo viên chuẩn bị các video và máy dạy trẻ vào một giờ học cho trẻ quan sát và
chơi theo những video đó.
2. Biện pháp dạy trẻ tự chơi theo nhạc
2.1. Yêu cầu
Để tổ chức hoạt động cho trẻ chơi theo nhạc, giáo viên cần chọn nhạc phù hợp với lứa
tuổi, nội dung của trò chơi, độ dài của nhạc vừa phải không nên quá dài.
Hơn nữa, trẻ cần hiểu được rõ ràng nội dung của trò chơi. Trẻ cần miêu tả được lại
đầy đủ nội dung trò chơi theo đúng trình tự nhất định. Sử dụng các từ đồng dao chính
xác.
Trẻ chơi với nhịp điệu liên tục, liền mạch theo nhạc không ngắt quãng quá lâu.
Trong khi chơi, trẻ phải thể hiện sự lịch thiệp: nói rõ ràng, rành mạch, hướng về phía các
bạn,…
Trò chơi dùng để chơi cần phải dễ hiểu, dễ nắm bắt với khả năng nhận thức của trẻ. Khi
trẻ hiểu được nội dung trò chơi thì giúp trẻ sẽ nhớ lâu hơn. Nếu nội dung của trò chơi tương
đối phức tạp so với nhận thức của trẻ thì có thể chơi thử trước sau đó yêu cầu trẻ chơi lại. Nếu
trò chơi không quá phức tạp thì cho trẻ nghe hướng dẫn của cô sau đó cho trẻ chơi theo hướng
dẫn của cô giáo.
Tuy nhiên trò chơi được chọn phải được chơi một cách tự nhiên để trẻ có thể thoải
mái vận động theo nhạc của trò chơi.
13
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
2.2. Cách tiến hành
Giáo viên giới thiệu tên trò chơi dân gian mà mình đã định cho trẻ chơi nhằm giúp
trẻ hiểu trò chơi và có nhận thức về trò chơi một cách sâu sắc hơn.
Các bước giúp trẻ hiểu được trò chơi và cách chơi thì giáo viên cần có vốn hiểu biết
rõ ràng về trò chơi, từ đó mới thể hiện ra được.
Với cách hướng dẫn trẻ chơi theo nhạc, cô giáo nên chơi thử và hướng dẫn cho trẻ
bắt chước làm theo như vậy trẻ vừa tư duy, nhận thức về trò chơi lại hiểu sâu sắc hơn. Trẻ
biết cách chơi đúng theo trình tự của trò chơi, chơi tốt hơn với trò chơi đó.
Việc thực hành vận động chơi theo nhạc đó phải được tiến hành thường xuyên và tất
cả các trẻ đều phải được luyện tập.
Trong quá trình chơi theo nhạc, cô giáo cần chú ý nhận xét, uốn nắn, chỉnh sửa lỗi
cho trẻ để lần sau trẻ chơi tốt hơn không mắc phải những lỗi sai đó.
Trẻ phải sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, rành mạch, không nói ngọng và mở rộng được số
lượng vốn từ đối với trẻ.
2.3. Điều kiện vận dụng
Biện pháp dạy trẻ tự chơi theo nhạc có thể tiến hành thường xuyên qua các tiết học
hay trong những giờ giải lao.
Cũng có thể cho trẻ chơi theo các hình thức như nhóm, đội, cá nhân, đôi,… tùy
thuộc vào trò chơi được chơi.
3. Biện pháp sử dụng lời nói hướng dẫn chơi
3.1. Yêu cầu
Lời hướng dẫn của cô phải đảm bảo tính ngắn gọn, hấp dẫn trẻ.
Giáo viên cần phải truyền đạt được các âm điệu vui tươi, sảng khoái và nghịch
ngợm để gây được hứng thú cho trẻ và giúp trẻ cảm nhận được nhạc tính trong ngôn ngữ
đó. Khi hướng dẫn trẻ đọc các bài đồng dao, giáo viên nên vừa đọc, vừa kết hợp với cử
động của cơ thể, sao cho có sự phù hợp giữa lời với nhịp điệu vận động.
Lời hướng dẫn của cô phải chuẩn, chính xác, phải được nghiên cứu kỹ và được cô
hướng dẫn với tâm huyết của mình, có như vậy mới có sức hấp dẫn, lôi cuốn trẻ háo hức
tham gia vào trò chơi đó.
Cô sử dụng toàn bộ lời nói của mình để hướng dẫn, truyền đạt trò chơi đến với trẻ. Lúc
này cô trở thành cầu nối liên kết trẻ và đến với trò chơi dân gian. Đây là một việc làm hết
sức quan trọng bởi lời hướng dẫn của cô có tác dụng to lớn, kích thích sự ham muốn chơi
của trẻ. Qua sự hướng dẫn của cô, trẻ có thể thích hay không hứng thú với trò chơi. Chính
vì thế mà giáo viên cần phải hết sức chú ý trong việc sử dụng biện pháp này để truyền đạt
trò chơi dân gian đến với trẻ.
3.2. Cách tiến hành
14
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
Muốn truyền tải nội dung trò chơi đến với trẻ một cách đầy đủ, chính xác đòi hỏi sự
hiểu biết của cô về mọi thành tố nội dung và hình thức của trò chơi. Phải nói đúng và có
sắc thái phù hợp với những những lời nói hay những lời của các bài đồng dao.
Phương pháp sử dụng lời nói mẫu để hướng dẫn chơi đòi hỏi mức độ cao hơn về lời nói và
cách diễn đạt sắc thái đặc biệt với những trò chơi dân gian có lời đồng dao.
Cô có thể hòa trộn ngôn ngữ của mình bằng sự cảm nhận để tô đậm lên những
tình tiết chính của trò chơi, hay những dụng cụ, hình ảnh được truyền đạt khác nhau.
Sử dụng lời nói chậm, truyền cảm khi trong trò chơi có đọc đồng dao nhằm tạo sự
nhẹ nhàng, không căng thẳng cho trẻ theo dõi. Hơn nữa, việc phối hợp giọng nói với
những hành động, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, những yếu tố phi ngôn ngữ này cũng phần
nào giúp trẻ thâm nhập vào trò chơi sâu hơn, hiểu rõ hơn ý nghĩa của trò chơi.
Cùng với những kiến thức về trò chơi dân gian, sự cảm thụ riêng của cô ý nghĩa cuả
trò chơi vượt ra khỏi văn bản cứng nhắc. Những lời hướng dẫn của cô sẽ làm nên sự khúc
triết, sinh động, tạo khả năng ghi nhớ thông qua năng lực nghe, nhìn, sự cảm nhận gây
hứng thú mạnh tới trẻ. Trẻ thích chơi nhiều lần một trò chơi.
Như vậy, khi chơi trẻ không chỉ cần thông tin mà mỗi lần chơi trẻ sẽ có những sáng tạo,
tìm thấy những điều mới, được sống với chính văn hóa của dân tộc.
3.3. Điều kiện vận dụng
Phương pháp sử dụng lời nói mẫu để hướng dẫn trẻ chơi được sử dụng hầu hết trong
các giờ học hay trong giờ nghỉ giải lao. Phương pháp này giúp trẻ đến được với trò chơi
một cách gián tiếp qua lời hướng dẫn của giáo viên đã được nghiên cứu tìm hiểu kỹ.
4. Biện pháp giúp trẻ vận dụng ngôn ngữ mạch lạc trong trò chơi
4.1. Yêu cầu
Ngôn ngữ mạch lạc được sử dụng trong giao tiếp cần phải đúng văn cảnh hay nói
cách khác phải phù hợp với trò chơi.
Đặc biệt, trẻ phải được tự do thể hiện thái độ tâm tư tình cảm của mình bằng chính
vốn ngôn ngữ của bản thân trẻ. Giáo viên không nên áp đặt, tạo áp lực hay gò bó trẻ mà
nên tạo cảm giác thoải mái, tự tin cho trẻ gây được hứng thú và thiện cảm khi giao tiếp
với trẻ.
Khơi dậy và phát huy những khả năng, năng lực vốn có ở trẻ nhưng không vì thế mà
lãng quên việc sửa lỗi sai, hướng dẫn trẻ sử dụng câu, từ đúng, chính xác trong quá trình
tham gia vào trò chơi.
Trò chơi dùng để nhằm phát huy được khả năng sử dụng ngôn ngữ mạch lạc của trẻ
cần phải dễ hiểu. Vì khi trẻ hiểu được nội dung sẽ giúp trẻ nhớ lâu hơn, diễn đạt trò chơi
sẽ chính xác hơn. Giáo viên hướng dẫn trẻ bằng cách đàm thoại với trẻ. Nhằm giúp trẻ
nắm được các cấu trúc ngữ pháp, các từ khó hiểu cần được giải nghĩa trong trò chơi dân
gian.
15
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
Từ việc trò chuyện, vốn từ của trẻ sẽ được phát huy và phát triển, lời nói trong quá
trình chơi được tách ra từ lời nói mạch lạc các yếu tố của ngôn ngữ: âm thanh, từ và câu.
Trẻ nhớ vị trí của mọi yếu tố ngôn ngữ trong văn cảnh mạch lạc, điều này tạo nên quá trình
phát triển vốn từ và ngữ cảm cho trẻ.
4.2. Cách tiến hành
Để trẻ tự diễn lại một trò chơi dân gian nào đó, cô giáo tiến hành hướng dẫn trẻ theo một
trình tự từ giới thiệu trò chơi, giúp trẻ hiểu được nội dung của trò chơi đó, củng cố và diễn lại
trò chơi để trẻ hiểu sâu và rõ ràng hơn về trò chơi. Nếu cô giáo hướng dẫn trẻ như vậy giúp trẻ
hiểu rõ và ghi nhớ được trò chơi.
Để trẻ có thể chơi và đối thoại với nhau thì cô giáo phải trực tiếp tham gia,
chỉnh sửa những lỗi sai cho trẻ. Có thể một số lời đồng dao được sử dụng trong trò
chơi mà trẻ không nhớ được hết thì cô là người gợi ý, nhắc lại cho trẻ nhớ. Đối với
những trò chơi có lời đồng dao đi kèm thì phải thường xuyên ôn luyện chơi để giúp
trẻ ghi nhớ lời các bài đồng dao đó.
Trẻ có thể chơi đúng nguyên văn của trò chơi với đúng lời đồng dao đi kèm. Nhưng trẻ
cũng có thể chơi sử dụng chính ngôn ngữ của mình để chơi nhằm phát huy được khả năng
vận dụng ngôn ngữ mạch lạc vào trong trò chơi.
4.3. Điều kiện vận dụng
Đối với biện pháp này có thể áp dụng thường xuyên vào trong các giờ học chính của trẻ
hay trong những giờ chơi, giờ nghỉ giải lao cũng có thể chơi được.
Hơn nữa, cô giáo có thể tổ chức trò chơi trước giờ đón, trả trẻ và được vận dụng dưới
nhiều hình thức có thể kết hợp các biện pháp khác để tổ chức chơi.
5. Vận dụng phương pháp giáo dục Mầm non mới để tổ chức các trò chơi dân
gian
5.1. Vận dụng quan điểm tích hợp
Quá trình chơi trò chơi dân gian phải hướng tới sự phát triển của trẻ một cách toàn
diện như: Phát triển thể chất, phát triển trí tuệ, phát triển tình cảm đạo đức thẩm mĩ và
hình thành thái độ ứng xử đúng đắn cũng như hành vi, thói quen văn hóa văn minh. Nói
cách khác thì trẻ phải được phát triển vốn kiến thức, vốn kinh nghiệm sống, phát triển các
kỹ năng nhận thức và và kỹ năng xã hội, các kỹ năng vận động, ngôn ngữ, giao tiếp, các
phẩm chất nhân cách như: Sự tự tin – tính tích cực nhận thức, tính sáng tạo, tính linh
hoạt, tính độc lập, lòng nhân ái, tính thẩm mĩ.
Để đạt được những mục đích trên thì giáo viên cần phải xây dựng được một kế hoạch
tổng thể trong từng năm học, từng tháng, từng tuần, từng ngày học. Mỗi trò chơi dân gian
cô đưa ra phải được tiến hành thông qua nhiều hình thức phương pháp đa dạng. Bởi vì
trong mỗi hình thức, mỗi phương pháp đa dạng để trẻ phát triển thông qua trò chơi dân
gian đều có ưu thế riêng trong việc giải quyết một số mục đích trọng tâm nào đó. Mà việc
16
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
tổ chức cho trẻ chơi trò chơi dân gian thông qua việc tích hợp sẽ giúp cho trẻ dễ tập trung
chú ý, ghi nhớ lâu dài, tái hiện tốt hơn giảm được sự căng thẳng và mệt mỏi cho trẻ trong
quá trình chơi. Giáo viên phải lập kế hoạch chu đáo trong đó xác định được rõ các hoạt
động có thể tổ chức cho trẻ, các hoạt động đó cần đa dạng về mặt tính chất, cách tổ chức
phải phù hợp với trình độ, khả năng hứng thú của trẻ.
5.2. Vận dụng các phương pháp tổ chức hoạt động
5.2.1 Bản chất của phương pháp tổ chức hoạt động
Trong các trò chơi dân gian nội dung kiến thức mà trò chơi cung cấp cho trẻ rất
rộng, chứa đựng tất cả các lĩnh vực của đời sống thiên nhiên – xã hội, của đời sống tinh
thần, … Chính vì vậy mà ta có thể tích hợp trò chơi với nhiều lĩnh vực khác nhau như:
Tích hợp Toán học, tích hợp với Âm nhạc, tích hợp với Tạo hình, tích hợp phát triển thể
chất, tích hợp với Chữ cái và chữ viết, tích hợp với môi trường xung quanh.
5.2.2. Hoạt động của giáo viên trong giờ dạy trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi chơi trò
chơi dân gian
Trong giờ dạy trẻ chơi trò chơi dân gian giáo viên phải tổ chức được những hoạt
động nhằm tích hợp được những lĩnh vực như trên.
* Tích hợp Toán học
Số lượng và số đếm: Khi cho trẻ chơi giáo viên cần tận dụng các cơ hội để cho trẻ
thực hiện kỹ năng đếm, so sánh các nhóm có số lượng khác nhau và làm quen với chữ số
biểu thị số đếm.
Ví dụ: Trong trò chơi “đếm sao” cô tổ chức cho trẻ tập trung thành các nhóm theo ý
định của cô giáo. Cô cho trẻ đếm số lượng bạn chơi và cho trẻ đọc bài đồng dao trong trò
chơi đó.
“Một ông sao sáng
Hai ông sáng sao
Ba ông sao sáng
Bốn ông sáng sao…”
Định hướng trong không gian: Trong khi cho trẻ chơi cô giáo có thể củng cố cho trẻ
các biểu tượng về phía trên, phía dưới, đằng trước, đằng sau hoặc từ trái sang phải, từ
trên xuống dưới thông qua việc chỉ cho trẻ xem chữ, những hình ảnh về trò chơi dân gian.
Ví dụ: Khi cô giáo cho trẻ lên chỉ chữ ở phía dưới tranh, yêu cầu trẻ nhận biết mặt
chữ, chỉ từ trên xuống dưới hay từ trái sang phải. Hoặc khi cho trẻ giở tranh, cô yêu cầu
trẻ giở từng trang lần lượt để xem.
* Tích hợp với Âm nhạc:
Trong quá trình cho trẻ chơi qua các bản nhạc, qua các bài hát dân ca luôn được kết
hợp một cách nhuần nhuyễn, tác động và kích thích hứng thú hoạt động chơi của trẻ. Một
17
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
ưu điểm đối với trò chơi dân gian đó là những bài hát đồng dao đi kèm, do vậy cô giáo có
thể sử dụng ngay những bài hát đồng dao đó để nhằm tác động đến trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ chơi trò: “Chi chi chành chành” cô giáo có thể mở nhạc bài
hát đồng dao đó lên kích thích trẻ chơi và nhằm làm tăng hứng thú đối với trẻ.
“Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa đứt cương
Ba vương ngũ đế…”
* Tích hợp với Tạo hình:
Trò chơi dân gian thường có những dụng cụ chơi đơn giản, dễ làm và dễ tìm kiếm
trong tự nhiên. Vì vậy, khi dạy trẻ chơi giáo viên nên kết hợp cho trẻ làm những đồ chơi
đó. Cũng có thể cho trẻ tô màu, vẽ, nặn, xé, dán,… nhằm kích thích hứng thú và khả năng
sáng tạo của trẻ khi cho trẻ trực tiếp tiếp xúc với những đồ dùng đó. Hơn thế nữa, những
sản phẩm của trẻ làm ra có thể để triển lãm trưng bày, có thể sử dụng trong tiết học giúp
củng cố hệ thống hóa toàn bộ nội dung mà trẻ đã được làm quen, đồng thời làm tăng
thêm lòng tự hòa, sự tự tin vào bản thân của trẻ.
* Tích hợp phát triển thể chất:
Có thể nói, những trò chơi dân gian động giúp trẻ hoạt động một cách tích cực. Giáo
viên nên có những phương pháp phù hợp khi cho trẻ chơi nhằm tạo được hiệu quả cao
trong mục đích giáo dục. Với những trò chơi dân gian không có luật giáo viên sẽ phải tạo
ra luật cho trẻ như chạy qua chướng ngại vật, nhảy lò cò, nhảy qua vòng,… nhằm tạo cho
trò chơi mang tính sâu rộng hơn, hấp dẫn hơn và thu hút được sự tham gia của trẻ.
* Tích hợp với Chữ cái và chữ viết:
Biểu tượng về chữ cái hoặc chữ viết có thể củng cố cho trẻ trong giờ xem tranh ảnh
minh họa về trò chơi dân gian hay tiếp xúc với các sự vật hiện tượng trong thiên nhiên và
xã hội dưới các bức tranh, ảnh, vật thật ở lớp học hay ở trong các phòng,… giáo viên cần
phải ghi tên cụ thể vì như vậy khi trẻ quan sát các bức tranh thì trẻ đã đồng thời được tri
giác cả tên gọi của chúng.
Chữ cái có thể được tích hợp một cách có hiệu quả khi được gắn vào các trẻ tham
gia trong trò chơi. Như trong trò chơi “câu ếch” cô giáo có thể gắn chữ “Ê” – con ếch
vào trên ngực của mỗi trẻ còn người câu ếch thì gắn chữ “B” – bác câu ếch.
* Tích hợp Môi trường xung quanh:
Trò chơi dân gian mang tính đặc thù chất liệu của những đồ dùng, vật dụng phục vụ
cho trò chơi được lấy từ thiên nhiên, từ môi trường xung quanh trẻ, do vậy trong quá
trình dạy giáo viên có thể đi sâu hơn giới thiệu cho trẻ hiểu thông qua tranh ảnh, mô hình,
vật thể về các đối tượng sẽ cho trẻ làm quen trong trò chơi nhằm gây được hứng thú đối
và sự tập trung chú ý của trẻ.
18
Sáng kiến kinh nghiệm
Kiều Thị Thanh Vân
Ví dụ: Trong trò chơi “Ô ăn quan” giáo viên có thể cho trẻ quan sát tranh ảnh hay
vật thật là những hòn sỏi dùng để chơi.
5.2.3. Hoạt động của trẻ 5 – 6 tuổi trong giờ học chơi trò chơi dân gian
Những trò chơi dân gian gắn liền với ký ức của những đứa trẻ miền quê xưa kia
tưởng chừng như xa lạ với những đứa trẻ thành thị với đầy đủ các đồ chơi hiện đại, ti
vi, máy vi tính thì ở các trường mầm non trong cả nước, những trò chơi dân gian đang
dần được đưa vào trong các hoạt động vui chơi của trẻ.
Vào các giờ hoạt động ngoài trời, giờ học hay những giờ giải lao, chúng ta sẽ thấy
những nhóm trẻ cùng ngồi tụm năm tụm ba với các trò chơi dân gian, những giọng ê a
câu hát đồng giao: Chi chi chành chành, cái nanh thổi lửa... hoặc những trò chơi tưởng
chừng chỉ còn tìm thấy ở vùng quê hoặc trở về với ký ức ngày xưa: ô ăn quan, bịt mắt bắt
dê, bịt mắt đập bóng...
Trong giờ học chơi trò chơi dân gian, cô và trẻ cùng chơi và cùng khám phá, một
giờ học có sự kết hợp nhịp nhàng giữa trò chơi dân gian, đồng giao và hoạt động học tập
tạo nên môi trường học tập tích cực và thân thiện giữa cô và trẻ. Trong các hoạt động, cô
và trẻ cùng thay đổi vai chơi, có sự giao lưu thân thiện và cởi mở giữa cô và trẻ và giữa
trẻ với trẻ, giữa trẻ với những người xung quanh trẻ. Thông qua các hoạt động của trò
chơi giúp trẻ học hỏi và nắm rõ kiến thức được giáo viên tích hợp vào trong đó hơn nữa
trẻ biết được văn hóa người Việt từ những trò chơi dân gian.
III. HIỆU QUẢ
Gần một năm thực hiện, tôi nhận thấy các biện pháp tác động sư phạm đã đem lại hiệu
quả ban đầu tương đối tốt. Trẻ lớp lớn A phát âm, hiểu nghĩa của từ và hiểu cách chơi
nhanh và tốt hơn so với đầu năm.
Khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ không giống nhau. Trẻ đã phát âm chuẩn tên
một số trò chơi đã được học và ngoài ra còn kể tên một số trò chơi khác mà trẻ biết được.
Trẻ hiểu được nội dung của trò chơi nhanh, vận dụng vào chơi rất tốt. Đặc biệt là khả
năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ trong trò chơi phát triển hơn trước.
Qua việc thử nghiệm và sử dụng các biện pháp sáng tạo và phù hợp, với sự khéo léo
có phần hấp dẫn cao đã đem lại cho chúng tôi hiệu quả bất ngờ, với sự chuẩn bị về đồ
dùng trực quan dạy học cùng với một số video và hệ thống câu hỏi phù hợp, kết hợp với
việc tích hợp vào trong các trò chơi dân gian đó đã đem lại cho chúng tôi hiệu quả rất
cao.
Đánh giá kết quả sau khi áp dụng các biện pháp của lớp lớn A
Khả năng
ngôn ngữ
Khả năng phát âm
Tốt
9
Số lượng trẻ
Trung
Khá
bình
11
5
Yếu
0
19
Tốt
36%
Tỉ lệ %
Trung
Khá
bình
44%
20%
Yếu
0%
Sáng kiến kinh nghiệm
Khả năng hiểu từ
Khả năng hiểu nội
dung trò chơi
Kiều Thị Thanh Vân
8
10
7
0
32%
40%
28%
0%
10
11
4
0
40%
44%
16%
0%
Kết quả khảo sát của 24 trẻ của lớp mẫu giáo lớn B cuối tháng 4/ 2014 ( không áp
dụng biện pháp)
Khả năng
ngôn ngữ
Tốt
Số lượng trẻ
Trung
Khá
bình
10
8
9
9
Yếu
Tốt
Tỉ lệ %
Trung
Khá
bình
41,7% 33,5%
37,5% 37,5%
Yếu
Khả năng phát âm
6
0
25%
0%
Khả năng hiểu từ
6
0
25%
0%
Khả năng hiểu nội
33,5
8
10
6
0
41,7%
25%
0%
dung trò chơi
%
Qua một thời gian tìm hiểu, điều tra cũng như việc tiếp xúc với trẻ thông qua các trò
chơi dân gian, tôi thấy trẻ có sự nhận thức tiến bộ hơn. Nhóm trẻ có áp dụng biện pháp đã
có sự tiến bộ đáng kể so với nhóm trẻ không áp dung biện pháp. Những tiết học trước trẻ
được tiếp xúc với phương pháp cũ, đồ dùng trực quan nghèo nàn, chưa sinh động,…
Nhưng khi tiến hành dạy thể nghiệm, trẻ được hòa vào không khí vui vẻ, được xem video
và có nhạc vui nhộn tạo cảm giác thoải mái, trẻ hoàn toàn bị thuyết phục và cảm thấy hứng
thú. Ở giờ học chơi trò chơi dân gian, trẻ được tự do nói, tự do trả lời những câu hỏi của
giáo viên theo lối suy nghĩ của trẻ. Trẻ hoàn toàn chủ động, tìm kiếm, khám phá những
điều mới lạ.
Ví dụ: Cô hỏi trẻ: “thấy trò chơi dân gian nào hấp dẫn nhất?” có tới 48% trẻ trả lời
thích trò chơi mèo đuổi chuột, 40% trẻ trả lời thích trò chơi kéo co và 12% trẻ trả lời các
trò chơi khác như: Chi chi chành chành; Kéo cưa lừa xẻ; Bịt mắt bắt dê; rồng rắn lên
mây;…
Cô phải cùng trẻ hoạt động, nhưng cô chỉ giữ vai trò một người hướng dẫn, hướng trẻ
theo đúng mục đích, nội dung của bài một cách thoải mái không áp đặt. Vì vậy, mức độ
tiếp nhận trò chơi và khả năng phát âm, hiểu nghĩa của từ trong trò chơi dân gian của trẻ
tăng lên một cách đáng kể.
Ví dụ: Cô hỏi trẻ nghĩa của các từ sau là gì?
- Bắt (trong trò chơi “Bịt mắt bắt dê”)? Có 88% trẻ trả lời được nghĩa là túm, tóm, vồ.
- Luồn (trong trò chơi “Mèo đuổi chuột”)? Có 84% trẻ trả lời được nghĩa của từ là chui
qua.
- Kéo kít (trong trò chơi “Kéo cưa lùa xẻ”)? Có 64% trẻ trả lời được nghĩa của từ là tiếng
cưa.
Ví dụ: Cô hỏi trẻ cách phát âm nào đúng?
- Mèo đuổi chuột hay Mèo đuổi chụt? Có 100% trẻ trả lời được “Mèo đuổi chuột”.
20
- Xem thêm -