Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Lớp 2 Skkn nâng cao hiệu quả phụ đạo học sinh yếu lớp 2...

Tài liệu Skkn nâng cao hiệu quả phụ đạo học sinh yếu lớp 2

.DOCX
13
465
102

Mô tả:

1. Tên sáng kiến: Nâng cao hiệu quả phụ đạo học sinh yếu lớp 2. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục Tiểu học. 3. Mô tả bản chất của sáng kiến 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết - Trong sự nghiệp giáo dục, giáo viên có vai trò vô cùng quan trọng. Để dạy học sinh có kết quả, đòi hỏi người giáo viên phải tận tâm, tận lực với nghề, phải có phẩm chất đạo đức tốt. Hiện nay trong nhà trường, bên cạnh những học sinh chăm ngoan, có thành tích tốt trong học tập thì vẫn còn một số em học yếu kém. Làm thế nào để tất cả học sinh trong lớp đều đạt Chuẩn kiến thức kĩ năng. Đây là sự quan tâm, lo lắng của thầy cô và các bậc phụ huynh. Chúng ta đều thấy rằng tuy cùng một nội dung chương trình giáo dục nhưng mỗi học sinh đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ khác nhau, có điều kiện hoàn cảnh sống và sự quan tâm chăm sóc ở gia đình khác nhau, có động cơ thái độ học tập khác nhau, môi trường giáo dục khác nhau nên năng lực học tập, khả năng tiếp thu kiến thức của mỗi học sinh cũng khác nhau. Từ đó dẫn đến có học sinh yếu kém, vậy chúng ta phải rèn luyện các em này như thế nào? Đó là nỗi băn khoăn trăn trở của không ít giáo viên có lòng yêu nghề mến trẻ. Với những vấn đề nêu trên, mong muốn của tôi là làm thế nào để giúp các em học tốt hơn, giảm đáng kể học sinh yếu kém trong lớp, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục hiện nay. Chính vì thế tôi quyết định chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả phụ đạo học sinh yếu lớp 2” để nghiên cứu xây dựng và vận dụng. - Giải pháp đã biết + Trong những năm qua Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định việc dạy 2 buổi/ ngày trong các trường Tiểu học. Điều đó giúp cho giáo viên thuận lợi trong việc có thời gian phụ đạo học sinh yếu, tránh dạy thêm học thêm tràn lan; + Việc giáo viên được dạy cố định một khối lớp cũng tạo điều kiện cho giáo viên có kinh nghiệm trong giảng dạy, trong việc phụ đạo học sinh yếu của khối lớp mình đảm nhiệm; + Kết hợp ba môi trường giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội là một biện pháp tích cực nhằm giảm học sinh yếu, hạn chế học sinh bỏ học; + Đổi mới phương pháp dạy học cũng góp phần giúp học sinh tích cực hơn trong học tập; + Thực hiện tốt công tác chủ nhiệm lớp, quan tâm đến học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh khó khăn cũng là cách nhằm giảm học sinh yếu; + Việc đánh giá học sinh không dùng điểm số để đánh giá thường xuyên giúp học sinh giảm áp lực trong học tập. Giúp học sinh yếu kém tự tin, vươn lên trong học tập. Trong quá trình thực hiện các giải pháp trên tôi nhận thấy có những ưu điểm và hạn chế sau: - Ưu điểm + Điều kiện cơ sở vật chất của trường khá đầy đủ, đảm bảo cho hoạt động dạy và học; + Luôn được sự quan tâm của Ban Giám hiệu nhà trường, sự ủng hộ của đồng nghiệp; + Đa số phụ huynh có quan tâm đến con em mình; + Lớp học có số lượng học sinh vừa; đa số học sinh ở địa bàn cư trú cùng xã; + Việc đánh giá học sinh dựa vào sự tiến bộ của học sinh, không so sánh học sinh này với học sinh khác, chấp nhận sự khác nhau về thời gian, mức độ hoàn thành nhiệm vụ nên không gây áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh. - Hạn chế + Một số em hỏng kiến thức do ngồi sai lớp; + Lớp có một số học sinh thuộc hộ nghèo không được gia đình chăm sóc chu đáo thường thiếu dụng cụ học tập, chưa chuẩn bị bài tốt trước khi đến lớp; + Trình độ học sinh không đồng đều. Nếu dành nhiều thời gian phụ đạo học sinh yếu thì học sinh khá giỏi sẽ nhàm chán; - Thiết bị dạy học, tranh ảnh còn ít không gây hứng thú cho học sinh; - Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em mình; - Một số học sinh chậm phát triển trí tuệ chưa được khám bệnh để đưa qua dạng học sinh khuyết tật, tiếp thu chương trình không kịp bạn; 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến - Mục đích của giải pháp + Nhằm khắc phục những nhược điểm trong công tác giảng dạy, giáo dục của giáo viên chủ nhiệm lớp trong thời gian qua; + Tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo dục của giáo viên đạt hiệu quả cao; + Nhằm trang bị cho bản thân một số kinh nghiệm để thực hiện có hiệu quả hơn công tác giảng dạy, giáo dục học sinh, nhất là học sinh yếu kém trong lớp, làm nền tảng vững chắc cho các em học tiếp ở lớp sau, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. - Nội dung giải pháp Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp: Qua nghiên cứu xây dựng đề tài và áp dụng vào thực tế, bản thân tôi thấy rằng: + Trong quá trình thực hiện phụ đạo học sinh yếu, bản thân tôi cũng luôn khắc phục mọi khó khăn trong cuộc sống, tìm tòi và học hỏi ở đồng nghiệp để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và luôn đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức trong giảng dạy để giúp học sinh chủ động trong học tập. Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, làm thêm đồ dùng dạy học, phóng to tranh ảnh sách giáo khoa để giúp học sinh dễ hiểu bài và gây hứng thú học tập cho các em; + Xây dựng môi trường học tập thân thiện, học sinh tích cực. Tạo bầu không khí lớp học thoải máy, nhẹ nhàng. Không dùng những lời thiếu tôn trọng với học sinh. Thường xuyên gần gũi trò chuyện, tiếp xúc với các em nhiều hơn, nhất là những em có hoàn cảnh khó khăn, tạo cho các em sự thân thiết, tin tưởng để có thể dễ dàng bộc lộ tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính mình khi chưa hiểu bài hoặc gặp trở ngại trong học tập; + Phân loại các đối tượng học sinh, chia học sinh thành từng nhóm riêng biệt: nhóm học sinh yếu Toán và nhóm học sinh yếu Tiếng Việt; + Lên kế hoạch phụ đạo học sinh yếu. Tổ chức dạy phụ đạo 1 đến 2 buổi trong tuần; + Giáo dục ý thức học tập nhằm tạo sự hứng thú trong học tập cho học sinh. Hoạt động tự quản của học sinh là điều cần thiết, lớp có nề nếp tốt sẽ tạo cho các em thói quen học tập tốt; + Để đảm bảo tốt việc truyền thụ kiến thức văn hóa ở nhiều môn học, giáo viên cần nắm vững phân phối chương trình, phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh, điều chỉnh hợp lý giữa học tập với vui chơi giải trí. - Cách thức thực hiện giải pháp mới + Nâng cao chất lượng giáo dục luôn là mục tiêu phấn đấu của mỗi giáo viên, mỗi cấp học, mỗi bậc học. Nó là vấn đề quan trọng hàng đầu góp phần tăng dần chất lượng giáo dục, đảm bảo theo Chuẩn kiến thức kĩ năng cơ bản do Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra đòi hỏi giáo viên Tiểu học nói chung, giáo viên dạy khối 2 nói riêng phải tích cực tìm biện pháp phụ đạo học sinh yếu để các em đạt Chuẩn quy định; + Trẻ em ở Tiểu học còn rất thơ ngây. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần quan tâm đến việc rèn luyện đạo đức, hình thành thói quen tốt cho các em. Trẻ vào lớp 2 nhu cầu nhận thức đang phát triển, nhu cầu phát hiện, tìm hiểu cái mới cùng lúc hình thành và phát triển theo. Hiểu được tâm lý nầy, giáo viên cần lựa chọn và xây dựng cho mình những phương pháp giáo dục phù hợp, kỹ năng dạy học tích cực để mang lại hiệu quả cao như mong muốn; + Chương trình Tiểu học là chương trình đồng tâm được mở rộng và khắc sâu kiến thức qua từng lớp nói chung, từng môn học nói riêng. Chương trình lớp 2 là chương trình chuyển tiếp từ lớp 1 lên. Học sinh được học thêm các môn mới như: Luyện từ và câu, Tập làm văn. Các em được củng cố mở rộng kiến thức, đặc biệt là ở 2 môn Toán và Tiếng việt. Kĩ năng đọc viết, kĩ năng sử dụng câu Tiếng Việt được nâng cao hơn. Từ chỗ biết đọc trơn và đọc nhẩm ở lớp 1, học sinh lớp 2 được rèn luyện để có kĩ năng đọc thầm và bước đầu biết đọc lướt nắm ý để trả lời câu hỏi. Từ chỗ biết nói một số câu đơn giản gắn với âm vần đã học, học sinh có thể đặt câu theo mẫu đã cho nói về bản thân, gia đình, bạn bè, trường học…bằng một số câu đơn giản. Từ chỗ chính tả tập chép, học sinh lớp 2 được học chính tả nghe viết. Đây là phân môn khó đối với những em Tiếng Việt còn yếu kém. Đồng thời rèn kĩ năng tính toán cho học sinh, từ chỗ cộng trừ không nhớ ở lớp 1, học sinh lớp 2 được học thêm cộng trừ có nhớ, làm quen với hai phép tính mới: nhân và chia; + Đối với sách giáo khoa hiện hành đây là giai đoạn rất khó đối với học sinh bởi vì: Nội dung kiến thức có độ chênh lệch so với lớp 1, dung lượng kiến thức được chuyển tải nhiều hơn, mới lạ, đòi hỏi học sinh phải có một khả năng tư duy nhất định, một trí nhớ hoàn chỉnh; + Vì vậy để học sinh yếu kém giải toán đúng, thực hành tốt kĩ năng của môn Tiếng Việt quả là một điều thật sự khó khăn đối với các em. Vì trên thực tế các em học yếu rất ngại làm bài, sợ giải toán do khả năng tư duy, phân tích tổng hợp của các em có nhiều hạn chế. Học sinh có học lực yếu thường có tâm lý tự ti mặc cảm. Hiểu chậm cái mới, quên nhanh cái vừa tiếp thu được. Quá trình ghi nhớ chậm chạp không bền vững, không đầy đủ, thiếu chính xác. Vì vậy, nếu không có biện pháp quan tâm giúp đỡ đặc biệt của giáo viên chủ nhiệm thì các em không thể vượt lên tiến bộ được; + Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở Tiểu học. Đây là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu mà tất cả học sinh cần phải đạt được nhằm khắc phục tình trạng “quá tải” trong giảng dạy. Còn các bài tập ngoài chuẩn dành để dạy cho học sinh khá giỏi, nhằm giúp giáo viên phân hóa được từng đối tượng học sinh; + Trong năm học qua, tôi đã thực hiện đúng theo Thông tư 22/2016/TT- BGDĐT không cho điểm số ở tất cả các môn học, thay việc cho điểm bằng dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết được chỗ đúng, chưa đúng và cách sửa chữa; viết nhận xét vào vở hoặc sản phẩm học tập của học sinh khi cần thiết, có biện pháp cụ thể giúp đỡ kịp thời. Để làm được điều đó tôi phải quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra quá trình và từng kết quả thực hiện nhiệm vụ của học sinh; + Bước đầu thực hiện tôi thấy đối với những em có học lực yếu hơn so với các bạn trong lớp không phải chịu áp lực, tự ti vì thua sút bạn bè. Ngược lại các em được khích lệ và động viên rất nhiều. Từ đó giúp các em có hướng phấn đấu, vươn lên trong học tập; + Để thực hiện tốt, đầu năm tôi nắm kết quả học tập của từng em ở năm học trước để phân loại học sinh. Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy các em học yếu ở hai môn Toán và Tiếng Việt. Từ đó tôi thực hiện một số biện pháp sau: .) Lên kế hoạch phụ đạo, bồi dưỡng đến từng đối tượng cho phù hợp; .) Chia lớp thành ba nhóm đối tượng: Giỏi - Khá - TB yếu; .) Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý, sao cho đối tượng TB yếu ngồi ở chỗ dễ quan sát. Có thể để các em ngồi gần bạn giỏi để học hỏi cái hay từ bạn nhưng tránh để các em copy bài bạn; .) Mời phụ huynh họp ngay từ đầu năm để nắm thông tin từ phụ huynh; .) Tổ chức đôi bạn học tập để các em học sinh giỏi kèm học sinh yếu; .) Phân chia các em thành từng nhóm riêng biệt: nhóm các em yếu Toán và nhóm học sinh yếu Tiếng Việt; Tôi phân loại các đối tượng trong từng nhóm như sau: .) Nhóm 1: Học sinh học yếu nhưng thái độ học tập tích cực, các em chịu học, biết nghe lời và ngoan hiền; .) Nhóm 2: Học sinh yếu vì không muốn học chỉ thích các hoạt động khác như thể thao, văn nghệ, chơi đùa; .) Nhóm 3: Học sinh yếu vì chưa có động cơ học tập tốt, các em nầy nghịch phá, lười học; .) Nhóm 4: Học sinh yếu vì chậm phát triển trí tuệ, dạng khuyết tật. Khi phân loại học sinh yếu xong, tôi bắt đầu phụ đạo với những biện pháp sau: + Đối với học sinh yếu ở nhóm 1: Giai đoạn đầu nhằm để tạo cho học sinh những hứng thú trong học tập và lấy sự tự tin nên các bài tập được xây dựng từ cụ thể đến trừu tượng, từ dễ đến khó. Khi các em đã lấy lại lòng tin, dần dần tôi đưa các em vào những hoạt động tư duy tích cực hơn, đặt nhiều tình huống có vấn đề, cung cấp cho các em cách tự suy nghĩ, giải quyết vấn đề. Điều quan trọng là động viên khen ngợi đúng lúc để các em dần dần học tập một cách độc lập; + Đối với học sinh nhóm 2: Thì việc tập trung nghe giảng bài còn hạn chế. Nhưng trong các hoạt động khác như lao động, thể thao, vui đùa… thì rất nhanh nhẹn tích cực. Với các em nầy điều quan trọng là phải biết tôn trọng vào sở thích của các em. Để tạo thái độ học tập đúng đắn cho các em, tôi tổ chức các trò chơi trong học tập, qua đó nhằm củng cố kiến thức cho các em. Ví dụ: trong giờ học toán tôi tổ chức trò chơi truyền điện, trò chơi tiếp sức, ... Từ các trò chơi đó học sinh sẽ nắm bắt kiến thức một cách nhẹ nhàng, quên đi sự nặng nề trong học tập; + Đối với học sinh ở nhóm 3: Có thể gọi là nhóm học sinh cá biệt. Với đối tượng này, tôi áp dụng các biện pháp giúp đỡ như hai nhóm đối tượng trên nhưng kèm theo sự kiên trì hơn. Tôi quan tâm, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình để thường xuyên động viên giúp đỡ kịp thời, khen các em khi các em tiến bộ dù nhỏ. Tôi luôn tạo sự thân thiện với các em để các em thấy rằng “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”; + Đối với học sinh ở nhóm 4: Đầu tiên tôi tìm hiểu mức độ chậm phát triển trí tuệ của học sinh. Từ đó đưa ra các bài tập vừa sức với khả năng, dành thời gian dạy các em từ cái đơn giản nhất. Ví dụ: khi thực hiện phép tính cộng , trừ trong phạm vi 10, tôi cho các em sử dụng que tính hoặc đưa ra 10 ngón tay để tính. Đối với nhóm học sinh này đòi hỏi giáo viên phải hết sức nhẫn nại, kiên trì thì mới có kết quả; Trong tiết dạy của từng môn học, tôi thường sử dụng hết sức linh hoạt, sáng tạo các phương pháp nhằm giúp các em dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu. - Đối với nhóm đối tượng yếu môn Tiếng Việt + Tôi làm thêm đồ dùng dạy học, phóng to tranh ảnh sách giáo khoa, sử dụng hình ảnh trực quan như vật thật, mô hình, tranh ảnh, hình vẽ để giúp học sinh khỏi nhàm chán, có hứng thú học tập, tăng vốn từ. Môn Tập làm văn lớp 2 được bố trí xen kẽ trong từng tuần, góp phần tô đậm thêm nội dung chủ điểm. Vì thế dạy tập làm văn cần gắn với dạy các phân môn Tiếng Việt khác, đặc biệt là tập đọc và luyện từ và câu, nhằm mục đích giúp học sinh nắm và vận dụng tốt; + Để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh .) Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy các em đọc yếu thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa đúng nên dẫn đến viết sai. Để khắc phục điều đó tôi luyện cho các em cách phát âm, phân tích so sánh từ. Tập cho các em nghe phát âm cuối c, t, n, ng, o, u, thanh hỏi, thanh ngã. Nhận xét kĩ các lỗi khi các em viết sai. Dặn các em xem bài ở nhà trước khi đến lớp; .) Ngoài ra tôi còn nhắc các em nắm một số mẹo chính tả đơn giản đã học lớp 1 như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, ie, iê; + Đối với phân môn Tập đọc .) Học sinh vừa lên lớp 2 còn một số em đọc bài rất chậm, các em phải đánh vần từng tiếng. Vì vậy luyện cho các em này đọc trôi chảy là hết sức cần thiết. Học sinh đọc yếu thường đọc ngắt ngứ, lập đi lập lại tiếng từ. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải triên trì luyện tập cho các em lâu dài đến suốt năm học. Để các em tiến bộ tôi thường nhắc nhở, động viên các em đọc bài trước nhiều lần ở nhà. Tôi tổ chức đôi bạn học tập cho các em, cứ một bạn giỏi kèm một bạn yếu. Trong giờ truy bài đầu giờ, nếu bạn có đọc sai chữ nào thì hướng dẫn bạn đọc lại. Để thực hiện tốt điều nầy tôi nhờ phụ huynh kiểm tra đôn đốc thêm ở nhà. Tôi khuyến khích các em giờ chơi lên thư viện trường mượn sách báo thiếu nhi, truyện tranh đọc thêm. Tôi giáo dục các em đọc nhiều sách sẽ mở mang hiểu biết, các em đọc tốt sẽ viết chính tả ít sai hơn; - Đối với nhóm đối tượng yếu môn Toán + Với những học sinh không biết tính thì tôi hướng dẫn để các em hiểu cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng trừ, tôi sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em không thuộc bảng nhân, bảng chia thì tôi gọi lên kiểm tra thường xuyên. Tôi lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo các tình huống liên quan đến các phép nhân, phép chia cho học sinh thực hiện. Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Tôi cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp: + Học sinh chưa có kỹ năng làm bài tập trắc nghiệm, lười tính và chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn chép vào. Mặt khác các em chưa biết cách suy luận khi giải toán, sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng đến khả năng đọc hiểu và không biết tính hoặc tính thiếu chính xác. Hiểu được điều nầy tôi rèn kĩ năng từ kiến thức cũ đến kiến thức mới, giúp các em nắm các dạng toán cơ bản bài toán “về nhiều hơn”, “ít hơn”. Để làm đúng bài toán, trước hết tôi yêu cầu các em đọc kĩ đề, từng bước giúp các em nhận xét dữ kiện, tóm tắt đề toán rồi giải; + Một điều quan trọng là hàng tháng tôi ra đề kiểm tra tự luận và trắc nghiệm cho các em làm thêm để kiểm tra xem các em hiểu bài tới đâu, chưa nắm được phần nào để tiếp tục phụ đạo. Tôi nhận xét chân tình, hỗ trợ kịp thời, tôi khen những em có tiến bộ dù nhỏ. Với cách làm trên tôi nhận thấy học sinh trung bình, yếu bắt đầu mạnh dạn, tự tin vào bản thân, dần dần ham thích giải toán; + Một tiết học sinh động là có nhiều em tham gia phát biểu. Giáo viên phải biết tôn trọng học sinh của mình, lời phát biểu của các em dù đúng hay sai đều phải động viên hợp lý. Nếu học sinh phát biểu sai, hoặc chưa đúng, giáo viên động viên “gần đúng rồi, con cần suy nghĩ thêm nữa thì sẽ đúng hơn…” giúp các em cố gắng suy nghĩ làm bằng được, chứ không nên nói “sai, không đúng…” làm mất hứng của học sinh, gây ức chế làm các em tự ti, ngại phát biểu, sợ cô chê mất mặt trước bạn bè; + Đối với học sinh yếu để động viên kích thích tính hiếu học của các em, tôi thường giao việc nhẹ, bài tập dễ, dạng bài tập thông hiểu và nhận biết thông thường. Chia nhỏ nhiệm vụ theo từng bước, củng cố kiến thức thường xuyên, liên tục nhắc đi nhắc lại nhiều lần các kiến thức vừa học. Tôi khen khi các em tích cực phát biểu xây dựng bài. Do năng lực của học sinh không đồng đều nên tôi chấp nhận sự khác nhau về thời gian, mức độ hoàn thành nhiệm vụ; + Trong các tiết dạy tôi luôn điều chỉnh thời gian hợp lý giữa học tập, vui chơi và nghỉ ngơi thư giãn. Thường xuyên thay đổi hoạt động tránh gây căng thẳng thần kinh cho học sinh. Khi các em làm sai điều gì tôi thường không trách phạt mà chủ yếu là động viên và tìm điểm tốt của các em để khen ngợi trước lớp, tạo cho các em cảm giác được yêu thương, che chở khiến các em tự tin mà vươn lên trong học tập. Tôi còn yêu cầu phụ huynh kết hợp chặt chẽ với giáo viên, có trách nhiệm hướng dẫn con học ở nhà. Ngoài ra tôi còn kết hợp với đoàn thể, Tổng phụ trách Đội, giáo viên bộ môn hỗ trợ nhằm giáo dục các em tốt hơn; + Trong giảng dạy tôi luôn tìm hiểu để nắm vững phân phối chương trình, nội dung, phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh; + Thực hiện đầy đủ hoạt động trước khi dạy: Xác định chính xác mục tiêu từng môn dạy, bài dạy theo Chuẩn kiến thức kĩ năng, chương trình giảm tải theo công văn 5842. Thực hiện thiết kế bài dạy đảm bảo được yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Xem xét và lựa chọn phương pháp giảng dạy từng bài cho học sinh yếu trước khi lên lớp; + Thực hiện tốt hoạt động trong khi dạy: Đảm bảo đúng theo quy trình tiết dạy, vận dụng phối hợp tốt các phương pháp dạy học, thể hiện đúng vai trò tổ chức hướng dẫn học sinh tự chiếm lĩnh tri thức, tiết dạy nhẹ nhàng, hiệu quả; + Thực hiện hoạt động sau khi dạy: Biết tự đánh giá rút kinh nghiệm kết quả giảng dạy của bản thân, mức độ và kết quả học tập của học sinh so với Chuẩn quy định. Từ đó điều chỉnh phương pháp, cách thức tổ chức giảng dạy phù hợp, hiệu quả hơn nhằm giảm lượng học sinh yếu ở cuối năm; + Kiểm tra kiến thức các em hàng ngày để kịp thời phụ đạo, bổ sung kiến thức mà các em mất căn bản, tránh để quá lâu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu kiến thức sau này. Tôi ghi chép nhật ký để nhận xét học sinh hàng tháng, làm cơ sở đánh giá thường xuyên học sinh trong quá trình học tập rèn luyện về kiến thức, kĩ năng, thái độ và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất. Tạo điều kiện cho học sinh được tự nhận xét và tham gia nhận xét bạn, nhóm bạn về những biểu hiện của từng năng lực, phẩm chất để hoàn thiện bản thân; Tất cả các công việc trên tôi làm hằng ngày một cách tỉ mỉ, kiên trì. Nhờ thế mà năm nào chất lượng giáo dục của lớp tôi cũng đạt kết quả tốt theo kế hoạch. 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp - Đề tài là tập hợp kinh nghiệm của bản thân tôi đã vận dụng thường xuyên trong quá trình giảng dạy; - Qua thời gian thực hiện tôi thấy có hiệu quả, được các bạn đồng nghiệp khen ngợi và học hỏi; Đề tài này có biện pháp thiết thực, gần gũi, dễ thực hiện đã được triển khai trong tổ cùng đóng góp, rút kinh nghiệm. Có thể áp dụng ở tất cả các lớp 2 có học sinh trung bình yếu. 3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được - Nhờ áp dụng sáng kiến “Nâng cao hiệu quả phụ đạo học sinh yếu lớp2” bản thân tôi đạt một số kết quả như: + Chất lượng giáo dục học sinh được nâng lên rõ rệt so với đầu năm. Tất cả các em đều ngoan, lễ phép, biết đoàn kết, tích cực trong học tập, thực hiện tốt nội quy nhà trường; + Tham gia các phong trào thi đua của trường, của Đội với tinh thần hào hứng, đoàn kết, quyết tâm đạt kết quả; + Học sinh trong lớp có tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập và trong mọi hoạt động khác; + Chất lượng học tập của học sinh ngày càng được nâng lên, học sinh trung bình yếu giảm đi rất nhiều. + Mối quan hệ giữa giáo viên và phụ huynh ngày một tốt hơn, góp phần tạo niềm tin của xã hội đối với nhà trường; - Chất lượng: Năm học 2016-2017: Tổng số học sinh 31 em + Học sinh được xác nhận hoàn thành chương trình lớp học: 31em, đạt 100% (trong đó có một học sinh khuyết tật); + Đánh giá định kì về sự hình thành và phát triển năng lực cuối năm học: Tốt + Đạt : 31 em. Tỉ lệ : 100%; + Đánh giá định kì về sự hình thành và phát triển phẩm chất cuối năm học: Tốt + Đạt : 31em. Tỉ lệ : 100%; + Duy trì sĩ số học sinh trong năm: 100% + Học sinh đạt giải Violympic Toán: 6 em vòng trường ; 2 em vòng huyện ; 1 em vòng tỉnh; + Học sinh đạt giải trong các phong trào thi đua chào mừng Ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11: .) Chữ đẹp: vòng trường 1 em giải I , 1 em giải khuyến khích; Vòng huyện: 1 học sinh vào vòng 2 .) Vẽ tranh: vòng trường 1 em giải nhì, 2 em giải khuyến khích. Đây là kết quả thực chất do các em tích cực phấn đấu và rèn luyện. Với kết quả đạt được như trên, tuy rằng không phải là quá cao nhưng nó là động lực luôn động viên khích lệ tôi phát huy hơn nữa vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp ở những năm học sau, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học. 3.5. Tài liệu kèm theo: không có.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan