Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Lớp 2 Skkn “nâng cao hiệu quả giờ dạy toán lớp 2 bằng việc thiết kế giáo án điện tử và...

Tài liệu Skkn “nâng cao hiệu quả giờ dạy toán lớp 2 bằng việc thiết kế giáo án điện tử và tổ chức các trò chơi toán học”.

.DOC
36
225
126

Mô tả:

A. MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề: Trong chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Toán cùng với các môn học khác trong nhà trường Tiểu học có những vai trò quan trọng góp phần đào tạo nên những con người phát triển toàn diện. Toán học là môn khoa học tự nhiên có tính logic và tính chính xác cao, nó là chìa khóa mở ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác. Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải nội dung học tập theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, trong sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động mà còn phải biết khơi gợi lòng đam mê của HS với môn học. Bởi nếu chỉ dạy học thụ động như vậy thì việc học của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong những nguyên nhân cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày. Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở bậc Tiểu học theo đúng hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Để giúp các em học tốt môn Toán – một môn học khô khan, nếu chỉ dạy trên bảng đen phấn trắng thì học sinh sẽ nhanh chán, tiếp thu bài hạn chế. Vì vậy, bên cạnh việc thiết kế nội dung bài học hợp lí, người giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động mà các em hào hứng nhất. Giáo viên cần biết kết hợp sử dụng các phương tiện dạy học hỗ trợ nhằm khơi gợi trí tò mò, óc sáng tạo của học sinh. Việc sử dụng bài giảng trên máy tính kết hợp tổ chức các trò chơi mang tính tập thể để yêu cầu HS làm việc theo nhóm sẽ tạo được sự thích thú, lòng say mê và xây dựng tính kỉ luật, tập cách hợp tác với các bạn xung quanh. Nhờ đó mà học sinh hứng thú học tập hơn, kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn. Các bài giảng sinh động trên các phương tiện dạy học hiện đại cùng với các trò chơi có nội dung toán học lý thú, phù hợp với việc nhận thức của các em sẽ đem lại cho các em những bài học bổ ích. Thông qua đó, các em sẽ lĩnh hội những tri thức toán học một cách dễ dàng, đầy hứng khởi, củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập. Chính vì những lí do trên mà tôi đã lựa chọn và viết đề tài : “Nâng cao hiệu quả giờ dạy Toán lớp 2 bằng việc thiết kế giáo án điện tử và tổ chức các trò chơi Toán học”. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 1 II. Mục đích nghiên cứu: - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học theo phương hướng hoạt động cá thể phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. - Góp phần gây hứng thú học tập môn Toán cho học sinh - một môn học được coi là khô khan, hóc búa thì việc sử dụng phương tiện dạy học hiện đại sẽ giúp các em nhìn nhận, nắm bắt nội dung học tập một cách cụ thể, dễ hiểu. Việc kết hợp đưa ra các trò chơi Toán học trong một số giờ học nhằm mục đích để các em học mà chơi, chơi mà học. Trò chơi toán học không những chỉ giúp các em lĩnh hội được tri thức mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó. - Tìm hệ thống nội dung, phương pháp, hình thức dạy học Toán lớp 2. - Tìm hiểu những thuận lợi khó khăn của giáo viên và học sinh khi thiết kế giáo án điện tử và sử dụng trò chơi trong giờ học toán. III. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 1. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 2 – Cụ thể là lớp 2B trường Tiểu học Dịch Vọng A 2. Phương pháp nghiên cứu: * Phương pháp nghiên cứu tài liệu: - Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục ... liên quan đến nội dung đề tài. - Đọc SGK, sách giáo viên, các loại sách tham khảo: Toán tuổi thơ, Giúp em vui học toán. * Phương pháp quan sát: Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung các tiết học có sử dụng giáo án điện tử và các trò chơi toán học. * Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng việc dạy học bằng giáo án điện tử và tổ chức một số trò chơi Toán học lớp 2. * Phương pháp thực nghiệm: - Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm (Soạn giáo án đã thông qua các tiết dạy). Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học để kiểm tra tính khả thi của đề tài. 3. Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 2B, 2A. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 2 B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 1. Vị trí của môn Toán trong trường Tiểu học: Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn Toán cũng như những môn học khác, cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người. Môn Toán ở trường Tiểu học là một học chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của trẻ. Môn Toán có tầm quan trọng to lớn, là bộ môn khoa học nghiên cứu có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người. Môn Toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận logic, thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. 2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học - Ở lứa tuổi Tiểu học, cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển hay nói cụ thể là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện. Vì thế, sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt nhất là khi hoạt động quá mạnh và ở môi trường thiếu dưỡng khí. - Học sinh Tiểu học dễ nắm bắt nội dung học tập bởi các em chưa bị chi phối nhiều về cuộc sống xung quanh nhưng cũng sẽ quên ngay khi chúng không tập trung cao độ và không được luyện tập thường xuyên. Vì vậy, người giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lí đó để luôn tạo ra hứng thú trong học tập cho học sinh và giúp HS thường xuyên được luyện tập. - Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật, hiện tượng nào đó nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh. - Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song các em chóng chán. Do vậy, trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, sử dụng những phương tiện dạy học hiện đại, đưa học sinh đi tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi xen kẽ ... để kích thích trí tưởng tượng của học sinh và củng cố khắc sâu kiến thức. 3. Nhu cầu về đổi mới phương pháp dạy học: Học sinh Tiểu học có trí thông minh khá nhạy bén và sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng trẻ cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tải. Chính vì thế, nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải, truyền đạt làm thế nào cho phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi là điều không thể xem nhẹ. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 3 Đặc biệt đối với học sinh lớp 2, lớp mà các em vừa mới vượt qua những mới mẻ ban đầu chuyển từ hoạt động vui chơi là chủ đạo sang hoạt động học tập là chủ đạo. Vì ở lứa tuổi mẫu giáo, các em được học theo cách vui chơi là chủ yếu còn yêu cầu về kỷ luật học tập và kết quả học tập không đặt ra nghiêm ngặt với các em ở tất cả các môn học. Như vậy, có thể nói, về cách học, về yêu cầu học thì trẻ lớp 1 gặp phải một sự thay đổi đột ngột mà đến cuối năm học lớp 1 và sang lớp 2 các em mới quen dần với cách học đó. Do vậy, giờ học sẽ trở nên nặng nề, không duy trì được khả năng chú ý của các em nếu các em chỉ có nghe và làm theo. Muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Kiểu dạy này người giáo viên là người định hướng, tổ chức ra những tình huống học tập nó kích thích vào óc tò mò và tư duy độc lập. Muốn các em học được thì trước hết giáo viên phải nắm chắc nội dung của mỗi bài và lựa chọn, vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp, bài nào thì sử dụng các phương pháp trực quan, thuyết trình, trò chơi … hoặc bài nào thì sử dụng phương pháp giảng giải, kiểm tra, thí nghiệm … nhưng phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học. Học sinh Tiểu học không thể ngồi quá lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó nhiều thời gian vì thế giáo viên có thể thay đổi hoạt động học của các em trong giờ học: cho các em thảo luận, làm bài tập hoặc thông qua trò chơi. Có như vậy mới gây được hứng thú học tập và khắc sâu được bài học. Bởi vậy, các phương tiện trực quan rất cần thiết trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt là các phương tiện trực quan sinh động, rõ nét sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh. Trong những tiết học có đồ dùng trực quan đẹp, rõ nét, học sinh sẽ chú ý đến bài giảng hơn và kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn. Môn Toán không có nhiều tranh ảnh như các bộ môn khác, nhưng không phải vì thế mà không cần đến ứng dụng CNTT. Ngoài bộ đồ dùng, dạy và học toán chỉ là những con số và các bài toán và những hình vẽ thì không có đồ dùng gì khác. Thế nhưng, những con số, những bài toán và những hình vẽ nếu đưa lên màn hình lớn với sự nhấn mạnh bằng cách đổi màu chữ hay gạch chân; những kiến thức Toán khô khan biến thành những trò chơi hấp dẫn sẽ có hiệu quả hơn. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: 1. Thực trạng: - Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử vì để thiết kế được 1 giáo án có chất lượng phải công phu và tốn nhiều thời gian để chuẩn bị. Đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 4 - Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm PowerPoint, giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế. Nó đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn. - Khó khăn nhất đối với giáo viên là trình độ tin học còn hạn chế nên việc thiết kế giáo án điện tử rất vất vả và mất nhiều thời gian. Tuy nhà trường luôn tạo điều kiện cho chúng tôi đi học để nâng cao trình độ tin học, nhưng thời gian có hạn nên chúng tôi không thể đi chuyên sâu tìm hiểu được các kiến thức của tin học để soạn bài theo mong muốn. - Nhiều giáo viên (nhất là những đông chí giáo viên đã có tuổi) sử dụng chưa thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại nên việc soạn giáo án điện tử gặp nhiều khó khăn. - Việc thiết kế giáo án điện tử chưa có nhiều kinh nghiệm nên việc chọn màu sắc, phông nền hay phông chữ, chọn hiệu ứng đôi khi chưa phù hợp. - Nhiều khi để thiết kế được giáo án hay, giáo viên phải biết sử dụng kết hợp nhiều chương trình phần mềm khác nhau mà không phải ai và không phải lúc nào cũng làm được. Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một GAĐT tốt, từng cá nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm thanh sôi động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực hiện dạy bằng CNTT. Qua quá trình tìm hiểu một số giáo viên dạy lớp 2, tìm hiểu học sinh, tài liệu tham khảo ở trường tiểu học Dịch Vọng A, tôi nhận thấy: các đồng chí đã quan tâm đến việc đưa trò chơi vào các giờ học. Tuy nhiên, việc lựa chọn và làm các vật dụng nhiều trong trò chơi còn gặp nhiều khó khăn về chi phí, thời gian và tính ứng dụng nhiều trong tiết học khác. Ngoài ra, do thời lượng một tiết học mà khối lượng bài, kiến thức lại nặng nên nhiều khi rất khó để tổ chức được trò chơi trong giờ học. Vì vậy mà giờ học toán còn trầm, học sinh còn thụ động trong học tập, một số học sinh còn yếu kém còn ngại học toán. Do địa bàn ở Dịch Vọng A trình độ dân trí chưa đồng đều nên việc quan tâm đến việc học tập của con cái chưa chu đáo, đồ dùng học tập của một số em còn thiếu, tính tự giác học tập của các em chưa cao. 2. Giải pháp: - Đến nay, việc giảng dạy giáo án điện tử đã được nhiều giáo viên đón nhận một cách tích cực, bởi nó tạo ra một không khí học tập sôi nổi, thu hút sự Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 5 chú ý của học sinh, học sinh thực sự làm chủ trong tiết học. Khi dạy bằng giáo án điện tử, giáo viên đỡ vất vả hơn nhiều. Thay bằng các thao tác gắn đồ dùng lên bảng, giáo viên chỉ cần kích chuột là có ngay những hình ảnh như ý muốn. Dạy bằng giáo án điện tử còn tránh được tình trạng cháy giáo án do quá nhiều thao tác gắn và tháo đồ dùng dạy học. - Khi sử dụng giáo án điện tử, giáo viên có thể thiết kế bài học như sách giáo khoa, không cần in tranh ảnh tốn tiền, mất thời gian, bảo quản khó mà hình ảnh lại nhỏ không rõ nét như khi đưa lên màn hình lớn. - Môn Toán tuy ít tranh ảnh, nhưng mỗi bài học hay mỗi bài toán ta đưa lên màn hình lớn sẽ giúp học sinh chú ý hơn. Những từ ngữ trọng tâm trong bài ta có thể đổi màu hoặc gạch chân sẽ giúp học sinh hiểu bài hơn, từ đó giải bài toán một cách dễ dàng. Hoặc khi tóm tắt đề bài ta có thể dùng những hình ảnh phù hợp với đề bài ( như con gà, con cá, bông hoa...) những hình ảnh này ta có thể lấy trên mạng Internet. Cách tóm tắt đề bài đó sẽ giúp học sinh dễ hiểu bài và làm bài tốt hơn. Những bài toán về hình học ta có thể đưa lên màn hình lớn, tô màu những phần cần thiết, như vậy sẽ giúp học sinh dễ hiểu bài hơn. Hoặc những bài toán về ghép hình, mỗi bài toán có thể có nhiều cách ghép khác nhau. Cùng một lúc giáo viên đưa các đáp án lên bảng sẽ rất vất vả và mất thời gian. Nhưng nếu dạy bằng giáo án điện tử thì chỉ cần thiết kế trong một Slide là có đủ các đáp án của bài. Dựa vào đó học sinh biết được mình đã ghép theo cách nào, và còn có những cách ghép nào nữa. Từ đó, học sinh có thể vận dụng các cách ghép hình cho các bài học sau. - Việc đưa ứng dụng CNTT vào giảng dạy có rất nhiều cái lợi cho cả học sinh lẫn giáo viên. Vấn đề đặt ra là phải soạn giáo án như thế nào cho phù hợp thì mới đem lại hiệu quả mong muốn. Trên cơ sở nghiên cứu đề tài, điều tra, quan sát tình hình thực tế và trực tiếp tổ chức một số trò chơi Toán học lớp 2 tôi đã nhận thấy: - Đối với trẻ nhỏ, trò chơi là một phát hiện mới, kích thích sự tò mò, muốn tìm hiểu, khám phá. Do vậy quan điểm “Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập” là phù hợp với trường học. - Trong quá trình học toán, GV cũng cần tích cực tổ chức trò chơi cho các em. Việc sử dụng trò chơi toán học có nhiều tác dụng như: + Giúp học sinh thay đổi loại hình hoạt động ngoài giờ học, làm cho giờ học bớt căng thẳng, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu. Học sinh tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập. + Kích thích sự tìm tòi, tạo cơ hội để học sinh tự thể hiện mình + Thông qua trò chơi, học sinh được vận dụng kiến thức, năng nổ, hoạt bát, kích thích trí tưởng tượng, trí nhớ. Từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, học tập Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 6 cách xử lý thông minh trong những tình huống phức tạp, tăng cường khả năng vận dụng trong cuộc sống để dễ dàng thích nghi với điều kiện mới của xã hội. Ngoài ra, thông qua hoạt động trò chơi còn giúp các em phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng trung thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Vì vậy, việc thiết kế bài giảng sinh động trên máy kết hợp với việc tổ chức các trò chơi toán học rất cần thiết trong giờ học toán ở Tiểu học. III. NHỮNG ƯU ĐIỂM KHI SỬ DỤNG GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ ĐỂ DẠY Ở MỘT SỐ BÀI CỦA MÔN TOÁN LỚP 2. * Nhóm bài: 29 + 5, 49 + 25 ( trang 16, 17 – SGK Toán 2); 28 + 5; 38 + 25 ( trang 16, 17 – SGK Toán 2): Ở những bài này, để xây dựng được các công thức trong bảng cộng mà không sử dụng giáo án điện tử thì người GV phải sử dụng rất nhiều que tính, GV sẽ vất vả trong việc gắn que tính lên bảng cũng như gộp hoặc tách que tính để phân tích nội dung bài học. Trong khi đó, với việc sử dụng giáo án điện tử thì thay bằng các thao tác gắn tách trên bảng, GV chỉ cần nhấp chuột là những hình ảnh GV cần sẽ lần lượt hiện ra một cách sinh động (có màu sắc bắt mắt, hình ảnh động.....) gây sự chú ý của HS. Bước 1: Cô có 49 que tính (gồm 4 bó 1 Bước 2: có thêm 25 que tính nữa (gồm 2 bó 1 chục que tính và 5 que rời) chục que tính và 9 que rời) Bước 3: Có 9 que tính rời và thêm 5 que tính rời nữa, tức là thêm 1 que tính vào 9 que tính (rồi bó lại thành 1 bó 1 chục que tính) và thêm tiếp 4 que tính còn lại. Bước 4: 4 bó thêm 2 bó rồi thêm 1 bó nữa thành 7 bó hay 7 chục que tính, 7 chục que tính thêm 4 que tính là 74 que tính. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 7 Như vậy 49 que tính thêm 25 que tính thành 74 que tính. *Bài: Ki – lô - mét ( trang 151 – SGK Toán 2): Ở bài này, để HS hình dung được độ dài 1 ki – lô - mét mà chỉ dùng hình ảnh trong SGK thì khó có thể giúp các em hình dung được một cách cụ thể. Vì thế, khi dạy bài này, GV cần lấy điểm mốc cụ thể trên quãng đường mà HS thường đi qua hàng ngày để giúp các em dễ hình dung ra độ dài 1km là như thế nào. VD: Ở bài này, để dạy cho HS lớp 2 trường Dịch Vọng A hình dung ra đoạn đường dài 1km, tôi lấy điểm mốc cụ thể là tòa nhà HITC (ở đầu ngõ 233, nơi vào trường Tiểu học Dịch Vọng A) và siêu thị điện máy Topcare, đường Xuân Thủy Cầu Giấy. Và tôi giới thiệu cho HS biết: Khoảng cách từ tòa nhà HITC đến siêu thị điện máy Topcare là 1km. Đây là đoạn đường mà rất nhiều HS của trường thường đi qua. Với ví dụ minh họa như thế rất dễ để cho các em hình dung ra đoạn đường dài 1km mà GV không cần diễn giải nhiều. Tôi có thể đưa nó lên sơ đồ trên màn hình như sau: Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 8 Ở phần luyện tập, để giúp các em làm tốt bài tập số 3, GV đưa lược đồ Việt Nam, đổi màu các đoạn đường để giúp HS hình dung được khoảng cách giữa các tỉnh và các em sẽ dễ dàng so sánh được các quãng đường đó. *Bài: Mi – li - mét ( trang 153 – SGK Toán 2): Ở bài này để hướng dẫn HS cùng quan sát thước có vạch chia Mi - li - mét là khó vì khoảng cách giữa các vạch là quá nhỏ. Để GV có thể giới thiệu về 1mm và giúp HS nắm được biểu tượng 1mm trên thước là rất khó cho việc quan sát của HS. Vì vậy, việc đưa hình ảnh cái thước cùng với độ dài 1mm được tô màu đỏ lên màn hình sẽ giúp cho GV dễ dàng truyền tải tới HS và HS cũng dễ dàng nắm bắt khái niệm. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 9 Để HS nắm được 1cm = ...mm, GV có thể yêu cầu HS quan sát độ dài 1cm trên thước và hỏi: “Độ dài 1cm, chẳng hạn từ vạch 0 đến vạch 1, được chia thành bao nhiêu phần bằng nhau?” GV có thể đưa hình ảnh sau: Hoặc khi hướng dẫn HS đo độ dài đoạn thẳng thì rất khó để cho HS quan sát nếu GV sử dụng thước chia vạch Mi – li - mét của HS với một đoạn thẳng chỉ có vài Mi – li - mét. Vì thế với GAĐT, GV có thể phóng lên màn hình để hướng dẫn HS cách đo, cách đặt thước và đọc số đo của đoạn thẳng đó. HS có thể quan sát dễ dàng mà không sợ thước nhỏ quá hay đoạn thẳng ngắn quá. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 10 Ngoài ra, GV cũng có thể sử dụng máy quay để quay các thao tác đo mẫu hoặc vẽ mẫu để đưa lên màn hình lớn cho HS quan sát một cách dễ dàng và chính xác. *Bài: Ngày tháng ( trang 79 – SGK Toán 2): Để dạy bài này, nếu không sử dụng máy chiếu GV phải mất thời gian scan ảnh rồi phóng to ra giấy A0 nhưng vẫn rất khó cho HS có thể quan sát được. Bằng việc sử dụng máy chiếu GV có thể phóng to tờ lịch, đổi màu chữ nếu cần và HS có thể dễ dàng quan sát. *Bài: Đơn vị, chục, trăm, nghìn ( trang 137 – SGK Toán 2): Với bài này, phần nội dung bài mới, GV sẽ phải gắn rất nhiều các ô vuông nhỏ biểu thị cho đơn vị, chục, trăm, nghìn lên bảng mất rất nhiều thời gian, và nhiều khi nam châm không đủ chắc, lại mất thời gian chỉnh sửa. Bằng việc sử dụng máy chiếu GV chỉ cần kích chuột là các biểu tượng sẽ hiện ra theo đúng ý đồ của GV, không gây nên sự vất vả, tiết kiệm thời gian cho GV còn HS thì dễ dàng tiếp cận với nội dung bài học. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 11 *Kết luận: Như vậy bằng việc sử dụng giáo án điện tử GV có thể mang lại cho HS những giờ học bổ ích và lí thú, có thể tác động đến hầu hết các giác quan của HS, tạo những ấn tượng sâu sắc tới các em. Khi soạn những bài giảng này, GV không phải vất vả trong việc phóng to tranh ảnh ra giấy vừa tốn tiền vừa tốn thời gian và công sức, lại phải mất công bảo quản đồ dùng sau mỗi lần dạy xong mà hình ảnh màu sắc lại không sống động, không rõ nét như khi làm trên GAĐT. Khi GV đã thành thạo sử dụng máy vi tính, Internet thì việc soạn bài trên máy rất đơn giản, không cần phải di chuyển đi đâu, chỉ việc vào mạng Internet mọi tư liệu đều có thể tìm thấy. IV. GIỚI THIỆU MỘT SỐ TRÒ CHƠI TOÁN HỌC 2: 1. Tổ chức trò chơi trong môn Toán: Để các trò chơi góp phần mang lại hiệu quả cao trong giờ học, khi tổ chức và thiết kế trò chơi phải đảm bảo những nguyên tắc: a. Nguyên tắc “vừa sức, dễ thực hiện” Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 12 - Mỗi trò chơi phải củng cố được một số nội dung toán học cụ thể trong chương trình (Có thể là kiến thức cần kiểm tra bài cũ, kiến thức bài mới, kiến thức thực hành, luyện tập …) - Chương trình toán 2 được chia thành 4 mạch kiến thức cơ bản: Số học, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, toán giải có lời văn. Các trò chơi được xây dựng từ các dạng bài tập có chọn lọc của các tiết học gồm 4 mạch kiến thức trên, nhưng có thể mang những cái tên gợi cảm, gây hứng thú, góp phần hình thành, củng cố hoặc hệ thống kiến thức. - Các trò chơi phải giúp học sinh rèn luyện kỹ năng toán học, phát huy trí tuệ, óc phân tích, tư duy sáng tạo. - Trò chơi phải phù hợp với quỹ thời gian (Sử dụng trong giờ học từ 5 đến 7 phút), thích hợp với môi trường học tập. - Trò chơi có sức hấp dẫn, thu hút được sự chú ý, tham gia của học sinh, tạo không khí vui vẻ, thoải mái. - Trò chơi cần phải gần gũi, sát thực, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 2. Tổ chức trò chơi không quá cầu kỳ, phức tạp. b. Nguyên tắc khai thác và thực hành. - Sử dụng triệt để yêu cầu, nội dung kiến thức cơ bản, cũng như đồ dùng, phương tiện có sẵn của môn học (ở thư viện, đồ dùng của giáo viên, học sinh…) - Các đồ dùng tự làm của giáo viên khai thác từ những vật liệu gần gũi xung quanh (từ các phế liệu như: Vỏ hộp bánh, đầu gỗ, đầu nứa, nắp chai, giấy bìa …) sao cho đồ dùng vừa đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục, tính thẩm mỹ nhưng ít tốn kém. - Ứng dụng CNTT: Thiết kế trò chơi toán học trên phần mềm PowerPoint Từ các nguyên tắc trên, tôi đã căn cứ vào nội dung kiến thức trong sách giáo khoa, căn cứ vào thời gian, mục tiêu đề ra ở mỗi tiết học cũng như đối tượng học sinh để thiết kế các trò chơi sử dụng trong giờ học toán lớp 2. c. Thiết kế trò chơi toán học trong môn Toán: * Tổ chức trò chơi học tập để dạy môn toán nói chung và môn toán lớp 2 nói riêng, chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp. Song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy toán có hiệu quả thì đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau: + Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục + Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học + Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lý học sinh lớp 2, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 13 + Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú + Trò chơi phải được chuẩn bị chu đáo + Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh * Cấu trúc của trò chơi học tập + Tên trò chơi + Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kỹ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ quy định hành động chơi được thiết kế trong trò chơi. + Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong trò chơi học tập. + Nêu lên luật chơi: Chỉ rõ quy tắc của hành động chơi quy định đối với người chơi, quy định thắng thua của trò chơi. + Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi. + Nêu lên cách chơi. d. Cách tổ chức trò chơi: Thời gian tiến hành: thường từ 5 – 7 phút - Đầu tiên là giới thiệu trò chơi: + Nêu tên trò chơi. + Hướng dẫn cho HS cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ luật chơi. - Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi - Chơi thật - Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh. - Thưởng phạt: Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh. Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui (như chào các bạn thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò ….) tránh tạo không khí căng thẳng, không thoải mái cho HS sau khi chơi. 2. Giới thiệu một số trò chơi toán học 2: Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu mang tính đồng đội mà tôi đã ứng dụng trong quá trình dạy toán học sinh lớp 2. a)Trò chơi 1: Xây nhà (Áp dụng cho các tiết học Luyện tập về 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Ví dụ, có thể sử dụng cho các tiết học như: tiết 3, tiết 14). Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 14 *Mục đích: + Luyện tập và củng cố kỹ năng làm tính cộng nhẩm không nhớ trong phạm vi 100. *Chuẩn bị: 2 hình vẽ ngôi nhà trên bìa và các mảnh giấy hình tam giác, chữ nhật (như hình vẽ), có 5 mảnh ghi các tổng tương ứng với các tổng ghi trên ngôi nhà và 2 mảnh ghi sai. *Cách chơi: Chọn 2 đội chơi, mỗi đội có 5 em. Khi nghe hô “1, 2, 3 bắt đầu” các em phải nhẩm nhanh kết quả cho phép tính trên ngôi nhà, rồi tìm mảnh giấy có kết quả tương ứng gắn với đúng vị trí. Khi dán xong sẽ được hình ngôi nhà có mái đỏ, tường vàng, cửa xanh. * Cách tính điểm như sau: + Gắn đúng 1 hình được 10 điểm, hình nào gắn sai không được điểm, gán đúng cả 5 hình được 100 điểm. + Đội nào gắn được nhiều hình đúng, nhanh, xong trước là đội thắng cuộc + Cả hai đội cùng gắn được số hình đúng bằng nhau thì đội nào nhanh hơn đội ấy giành chiến thắng. + Nếu đội gắn xong trước mà gắn được ít hình đúng hơn đội xong sau thì đội xong sau giành chiến thắng. * Lưu ý: Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 15 + Ở trò chơi kiểu này nên đưa ra một vài kết quả không đúng để học sinh lựa chọn, nếu nhìn bằng mắt mà không kỹ thì sẽ rất dễ nhầm. Ví dụ: Nếu vội có thể cộng nhẩm bằng 75 (vì lấy hàng đơn vị của số thứ nhất cộng với hàng chục của số thứ 2) các em có thể nhẩm kết quả. Tôi đưa vào như vậy cốt để củng cố khắc sâu cách cộng nhẩm. + Trò chơi này còn có thể sử dụng trong các tiết Luyện tập và củng cố kĩ năng làm các phép tính nhân chia trong bảng hay nhiều loại bài cùng dang. b)Trò chơi 2: Truyền điện (Áp dụng cho các tiết học về xây dựng bảng cộng có nhớ, bảng trừ có nhớ, bảng nhân hay bảng chia…. ) * Mục đích: + Luyện tập và củng cố kĩ năng làm các phép tính cộng trừ không nhớ trong phạm vi 100. + Luyện tập và củng cố kĩ năng làm các phép tính nhân chia trong bảng. + Luyện tập phản xạ nhanh ở các em * Chuẩn bị: Không cần chuẩn bị bất kỳ đồ dùng nào. * Cách chơi: Các em ngồi tại chỗ. Giáo viên gọi bắt đầu từ 1 em xung phong. Ví dụ em A xướng to 1 số trong phạm vi 100 chẳng hạn “35” và chỉ nhanh vào em B bất kỳ để truyền điện. Lúc này em B phải nói tiếp, ví dụ “trừ 14” rồi lại chỉ nhanh vào em C bất kỳ. Thế là em C phải nói tiếp bằng 21. Nếu C nói đúng thì được quyền xướng to một số như A rồi chỉ vào một bạn D nào đó để truyền điện tiếp. Cứ làm như thế nêu bạn nào nói sai (chẳng hạn A nói “35” truyền cho B mà B nói trừ 18, tức là sai dạng tính hoặc là C đọc kết quả tính sai) thì phải nhảy lò cò một vòng từ chỗ của mình lên bảng. Kết thúc khen và thưởng một tràng vỗ tay cho những bạn nói đúng và nhanh. *Lưu ý: + Trò chơi này không cần phải chuẩn bị đồ dùng, giáo cụ … + Trò chơi này có thể áp dụng được vào nhiều bài (Ví dụ: Luyện tập các bảng cộng trừ, nhân chia) và có thể thay đổi hình thức “truyền” Ví dụ: Một em hô to “ 5 + 6” và chỉ vào em tiếp theo để truyền thì em này chỉ việc nói kết quả là 11. Hay “2 x 3” truyền vào bạn tiếp theo, bạn này phải ngay lập tức nói bằng bằng bao nhiêu. + Trò chơi này không cầu kỳ nhưng vẫn gây được không khí vui, sôi nổi, hào hứng trong giờ học cho các em. c)Trò chơi 3: Ong đi tìm nhụy (Trò chơi này có thể áp dụng vào các bảng +, - , x, : , cụ thể Tiết 6: 14 trừ đi một số: 14 - 8) Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 16 * Mục đích: + Củng cố kỹ năng tính nhẩm dạng trừ đi một số: 14 - 8 + Rèn tính tập thể * Chuẩn bị: + 02 bông hoa 5 cánh, mỗi bông một màu, trên mỗi cánh hoa ghi các số như sau, mặt sau gắn nam châm. 5 8 9 6 5 7 8 6 7 9 + 10 chú ong trên mình ghi các phép tính, mặt sau có gắn nam châm + Phấn màu *Cách chơi: + Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em + Giáo viên chia làm 2, gắn mỗi bên một bông hoa và 5 chú ong, ở bên dưới không theo trật tự, đồng thời giới thiệu trò chơi: Cô có 2 bông hoa trên những cánh hoa là các kết quả của phép tính, còn những chú Ong thì chở các phép tính đi tìm kết quả của mình. Nhưng các chú Ong không biết phải tìm như thế nào, các chú muốn nhờ các con tìm giúp, các con có giúp được không? - 2 đội xếp thành hàng. Khi nghe hiệu lệnh “Bắt đầu” thì lần lượt từng bạn lên nối các phép tính với số thích hợp. Bạn thứ nhất nối xong phép tính đầu tiên, trao phấn cho bạn thứ 2 lên nối, cứ như vậy cho đến khi nối hết các phép tính. Trong vòng 1 phút, đội nào nối đúng và nhanh hơn là đội chiến thắng. * Lưu ý: Sau khi học sinh chơi xong. Giáo viên chấm và hỏi thêm một số câu hỏi sau để khắc sâu bài học. + Tại sao chú ong “14 - 10” không tìm được đường về nhà? Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 17 + Phép tính “14 - 10” có thuộc dạng bài học ngày hôm nay không? Tại sao? + Muốn chú Ong này tìm được đường về nhà thì phải thay đổi số trên cánh hoa như thế nào? d)Trò chơi 4: Tìm lá cho hoa (Áp dụng cho Tiết 83: Ôn tập về phép cộng và phép trừ hay nhiều tiết học khác nhằm củng cố về cộng trừ, nhân, chia.) * Mục đích: + Củng cố về cộng trừ nhẩm trong phạm vi các bảng tính. + Rèn tính tập thể cao * Chuẩn bị: + 2 bông hoa màu bằng bìa cứng, mặt sau gắn nam châm. + 10 chiếc lá xanh, có gắn nam châm mặt sau: * Cách chơi: + Chọn 2 đội chơi, mỗi đội 4 em Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 18 + Gắn 2 bông hoa và những chiếc lá lên bảng rồi giới thiệu. Cô có 2 bông hoa mà nhị của nó là kết quả phải chọn nhanh những chiếc lá có phép tính ứng với kết quả trên nhị hoa và gắn vào cành hoa của đội mình để tạo thành bông hoa toán học thật đúng, thật đẹp. - 2 đội xếp hàng một, khi nghe hiệu lệnh cả 2 đội bắt đầu chơi. Đội nào nhanh, đúng thì sẽ là dội thắng cuộc. Sau khi đã chấm phân đội thắng – thua, giáo viên chỉ vào chiếc lá và hỏi: + : Tại sao con gắn lá này cho hoa? + : Nếu các con gắn chiếc lá này các con sẽ gắn vào bông hoa nào? e)Trò chơi 5: Bác đưa thư (Áp dụng dạy các bảng nhân, bảng chia) * Mục đích: Giúp học sinh thuộc lòng bảng nhân 2. Kết hợp với thói quen nói “cảm ơn” khi người khác giúp mình một việc gì đó. * Chuẩn bị: + Một số thẻ, mỗi thẻ có ghi 1 số: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 8, … 12, 14, ….. 18, 20 là kết quả của các phép nhân để làm số nhà. + Một số phong bì có ghi phép nhân trong bảng nhân 2: 1 x 2, 2 x 1, 2 x 2, 3 x 2, 2 x 3, …. 9 x 2, 10 x 2. + Một tấm các đeo ở ngực ghi “Nhân viên bưu điện” * Cách chơi: + Gọi một số em lên bảng chơi giáo viên phát cho mỗi em 1 thẻ để làm số nhà. Một em đóng vai “Bác đưa thư” ngực đeo “Nhân viên đưa thư” tay cầm tập phong bì. + Một số em đứng trên bảng, lần lượt từng em một nói: Bác đưa thư ơi Cháu có thư không Đưa giúp cháu với Số nhà ….. 12 Khi đọc đến câu cuối cùng “Số nhà ….12” thì đồng thời em đó giơ số nhà 12 của mình lên cho cả lớp xem. Lúc này nhiệm vụ của “Bác đưa thư” phải tính nhẩm cho nhanh để chọn đúng là thư có ghi phép tính có kết quả là số tương ứng giao cho chủ nhà (ở trường hợp này phải chọn phong bì “6 x 2” hoặc “2 x 6”) giao cho chủ nhà. Chủ nhà nhận thư và nói lời “cảm ơn”. Cứ như vậy các bạn chơi lại nói và “Bác đưa thư” lại tiếp tục đưa thư cho các nhà. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 19 Nếu “Bác đưa thư” nhầm sai, đưa không đúng địa chỉ nhận thì không được đóng vai đưa thư mà trở về chỗ để các bạn khác lên thay. Nếu các lần đưa thư đều đúng thì sau 3 lần được cô giáo tuyên dương và đổi chỗ cho bạn khác chơi. g) Trò chơi 6: Tìm đường về nhà cho 3 chú ếch (Tiết 130: Luyện tập chung) * Mục đích: Củng cố kỹ năng tìm thừa số và số bị chia * Chuẩn bị: + Bút dạ màu vàng – xanh - đỏ (mỗi câu hai chiếc) + 2 bức tranh tô màu đẹp treo trên bảng như sau: * Cách chơi: + Chọn 2 đội, mỗi đội 3 em (phát cho mỗi em bút dạ màu) + Hướng dẫn: Vì 3 chú ếch xanh mải đi tắm mưa nên bị lạc đường về nhà. Em hãy chỉ đường cho mỗi chú ếch về đúng nhà của mình kẻo trời sắp tối. Biết rằng muốn về được nhà phải giải đúng bài toán ghi trên lưng mỗi chú ếch. Sau khi 3 học sinh mỗi đội dùng 3 bút khác nhau để tìm đường về nhà cho ếch. Giáo viên cho từng học sinh đọc lại để kiểm tra. Nhận xét đội thắng thua. Thực hiện: Dương Thị Ngà – GV trường Tiểu học Dịch Vọng A 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan