Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn một số kinh nghiệm tăng cường tiếng việt cho trẻ mầm non 5 6 tuổi a2 trường...

Tài liệu Skkn một số kinh nghiệm tăng cường tiếng việt cho trẻ mầm non 5 6 tuổi a2 trường mầm non điền thượng huyện bá thước

.DOCX
23
10
68

Mô tả:

MỤC LỤC Nội dung 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. 1.2. Mục đích nghiên cứu. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Tình hình địa phương. 2.2.2. Thực trạng trường mầm non Điền Thượng. 2.2.3. Nhận thức của phụ huynh về nội dung tăng cường tiếng Việt cho trẻ. 2.2.4. Thực trạng nhận thức của giáo viên về nâng cao tiếng việt cho trẻ. 2.2.5. Thực trạng nhận thức của trẻ về tiếng Việt. 2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện. 2.3.1. Biện pháp 1: Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo thông qua việc xây dựng nội dung chương trình, kế hoạch của giáo viên. 2.3.1.1. Đối với giáo viên. 2.3.1.2. Tổ chức môi trường lớp học. 2.3.1.3. Xây dựng kế hoạch cụ thể trong một tuần, ngày để tăng cường tiếng Việt cho trẻ. 2.3.2. Biện pháp 2: Tăng cường đổi mới việc vận dụng phương pháp giáo dục trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. 2.3.2.1. Cho trẻ tiếp xúc với vật thật. 2.3.2.2. Can thiệp phát triển quan hệ. 2.3.2.3. Kể chuyện sáng tạo. 2.3.2.4. Sử dụng trò chơi. 2.3.2.5. Cho trẻ tiếp xúc với sách. 2.3.2.6. Cho trẻ tham gia các hoạt động ngoại khóa. 2.3.3. Biện pháp 3: Công tác xã hội hóa, Phối hợp với phụ huynh có ý thức tạo một môi trường thuận lợi có thể giúp trẻ trong việc phát triển, sử dụng ngôn ngữ. 2.3.3.1. Công tác xã hội hóa giúp trẻ trong việc phát triển, sử dụng ngôn ngữ. 2.3.3.2. Phối hợp với phụ huynh có ý thức tạo một môi trường thuận lợi có thể giúp trẻ trong việc phát triển, sử dụng ngôn ngữ. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 3. KẾT LUẬN. 3.1. Kết luận. 3.2. Kiến nghị. Trang 1 1 2 2 2 3 3 3 3 3 4 4 4 5 5 5 5 7 10 10 12 12 13 13 14 15 15 15 18 19 19 19 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: E.I.Tikhêeva - Nhà giáo dục học Nga đã khẳng định rằng "Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, là chìa khoá để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của dân tộc, của nhân loại. Do ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người đặc biệt là trong giai đoạn đầu tiên của cuộc đời mỗi người, nên việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ phải bắt đầu từ rất sớm, từ khi các cháu chưa cắp sách đến trường" [1] Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi suy nghĩ và công cụ của tư duy. Trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh, trong quá trình nhận thức những sự vật hiện tượng, muốn cho các cháu phân biệt các vật này với vật khác, biết được tên gọi, hình dạng, công dụng, và những thuộc tính cơ bản của vật, nếu chỉ cho các cháu xem xét mà không dùng từ ngữ để giải thích, hướng dẫn và khẳng định những kết quả đã quan sát được thì những tri thức mà các cháu thu được đó nhất định sẽ hời hợt, nông cạn, có khi còn sai lệch hẳn. Trong khi nhận thức các sự vật đó, trẻ phải dùng từ để gọi tên sự vật, tên các chi tiết, đặc điểm, tính chất, công dụng của sự vật, từ đó trẻ biết phân biệt sự vật này với sự vật khác. Tri thức và văn hóa của loài người đến với trẻ bằng ngôn ngữ. Vì vậy, việc chú ý tạo một môi trường thuận lợi để trẻ phát triển ngôn ngữ là rất quan trọng. Nó đặt những nền móng vững chắc cho sự phát triển toàn diện của trẻ sau này. Bằng tình yêu thương và sự quan tâm của bạn dành cho bé, bé yêu của bạn chắc chắn sẽ tiến bộ và có một cuộc sống phong phú, tươi đẹp. U.Sinxki đã nhận định “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển, là vốn quý của mọi tri thức”[6]. Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ. Trước hết, ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh. Song sự lĩnh hội những tri thức đó lại không thể thực hiện được khi không có ngôn ngữ. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong chương trình giáo dục mầm non định hướng. Vì ngôn ngữ sẽ giúp trẻ bày tỏ, trao đổi và giao tiếp với nhau trong học tập cũng như vui chơi. Ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá. Học nói cũng là bước đầu giúp trẻ phát triển tốt về trí tuệ. Vậy làm thế nào để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mô ̣t cách hiê ̣u quả? Làm sao để trẻ có thể nói tốt, câu từ mạch lạc, và "Chuẩn" về ngữ nghĩa? Vấn đề này cần có sự phối hợp đầu tư giữa nhà trường và gia đình, không chỉ phụ thuộc vào những bài học những hoạt động trẻ được học ở trường mà cha mẹ cũng cần đầu tư thời gian tương tác với trẻ phát huy tốt nhất hiệu quả của việc phối hợp giữa trường lớp và môi trường trẻ sinh hoạt hàng ngày. Hiện nay, ngôn ngữ sử dụng trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta là tiếng Việt. Vì vậy, việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhằm nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt của trẻ, đảm bảo cho các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt, để hoàn thành chương trình giáo dục mầm non, tạo tiền đề cho việc 1 học tập, lĩnh hội kiến thức của cấp học tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số. Vì những lí do trên tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non 5 - 6 tuổi A2 ở trường mầm non Điền Thượng huyện Bá Thước”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở thực tiễn tăng cường tiếng Việt cho trẻ ở trường mầm non Điền Thượng, đề xuất các biện pháp giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả tiếng Việt cho trẻ ở trường mầm non Điền Thượng huyện Bá Thước. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Một số kinh nghiệm tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non 5 - 6 tuổi A2 ở trường mầm non Điền Thượng huyện Bá Thước”. Đối tượng là trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi A2 ở trường mầm non Điền Thượng ở độ tuổi này là trẻ hình thành và phát triển ở trẻ những kỹ năng nghe, nói, tiền đọc, tiền viết, nhận dạng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng việt; tập tô, tập đồ các nét chữ, sao chép một số kí hiệu, chữ cái; cách cầm bút, để vở, tư thế ngồi viết thông qua các hoạt động sinh hoạt, học tập, lao động, tham quan, chính vì thế mà các cháu không thể tránh khỏi những lúng túng ban đầu. Lớp có các cháu nhận thức về tiếng Việt trong các kì khảo sát đầu năm và cuối năm chưa đạt yêu cầu. Năm học 2018 – 2019 tôi và một số đồng chí cùng trong tổ trao đổi, thống nhất áp dụng một số nội dung và phương pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ diện trung bình và yếu có so sánh đối chiếu với lớp có mức độ tiếp nhận trung bình và khá tiến hành theo cách học lâu nay vẫn áp dụng. Mặt khác trong các năm học gần đây theo yêu cầu của chuyên môn, chúng tôi đã nắm bắt sự triển khai theo tinh thần chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo về tăng cường tiếng Việt cho trẻ, chúng tôi đã tổ chức các chuyên đề, xây dựng kế hoạch, thảo luận chuyên môn ở tổ và chuyên môn nhà trường về cách soạn để thống nhất nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng trẻ vùng khó khăn. Từ đó tôi mạnh dạn đề xuất, thảo luận một số ứng dụng trong khi dạy tiếng Việt cho trẻ vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Riêng những phần nêu dưới đây chúng tôi đã dạy thử nghiệm ở một số đồng chí giáo viên trên lớp và sinh hoạt tổ, nhóm cặn kẽ, trao đổi cụ thể từng bước soạn và lên lớp áp dụng cho một số trẻ trong năm học 2018 – 2019. Chính kết quả thu được đại trà đã khích lệ tôi trình bày đề tài này. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phỏng vấn - Phương pháp quan sát - Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn - Nhóm phương pháp tìm tòi, sáng tạo: Bao gồm các phương pháp hướng dẫn mang tính gợi mở, các hoạt động, các tình huống có vấn đề để tằng cường giao tiếp, các bài tập sáng tạo giao tiếp[4] - Dùng thống kê toán học để xử lý số liệu 2 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Nghị quyết 40/2002/NQ-QH của Quốc Hội khóa IX về đổi mới giáo dục đã khẳng định: tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông được đưa vào dạy học thống nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tiếng Việt trong nhà trường tồn tại với hai tư cách: Vừa là một môn học vừa là công cụ giao tiếp, học tập của học sinh. Do đó, trình độ tiếng Việt (vốn từ, kiến thức về tiếng Việt và kỹ năng sử dụng vốn từ trong học tập, giao tiếp) có vai trò và ảnh hưởng rất quan trọng đối với khả năng học tập các môn học của học sinh. Thực tế cho thấy, học sinh người dân tộc thiểu số càng học lên lớp trên thì khả năng đạt chuẩn chương trình các môn học càng thấp vì nhiều nguyên nhân; trong đó, sự thiếu hụt về vốn sống, vốn ngôn ngữ là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của tình trạng trên. Căn cứ Quyết định số 1008/QĐ - TTg ngày 02/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2025”[8] Căn cứ Quyết định số 2805/QĐ - BGDĐT ngày 15/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Ban hành kế hoạch thực hiện đề án “Tăng cường chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025”[9] 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Tình hình địa phương. Điền Thượng là một xã thuộc chương trình 135 của huyện Bá Thước. Phía Đông giáp xã Điền Hạ, phía Tây giáp xã Thiết ống, phía Bắc giáp xã Điền Quang. Xã Điền Thượng có tổng dân số là 3.496 người. Trong đó 98% đồng bào dân tộc thiểu số và đa số là dân tộc Mường, ngoài ra còn có dân tộc Thái và dân tộc Kinh sinh sống trên địa bàn xã. Địa bàn xã bị chia cắt bởi những đồi núi nên dân cư không tập trung mà được chia ra thành 6 thôn bản. Kinh tế của nhân dân trong vùng rất khó khăn, nhiều gia đình chưa quan tâm đến việc học tập và sinh hoạt của trẻ. 2.2.2. Thực trạng trường mầm non Điền Thượng. Trường mầm non Điền Thượng là một trường vùng sâu, vùng xa của huyện Bá Thước. Nhà trường đã nhận được sự quan tâm hỗ trợ chính quyền trong quy hoạch xây dựng cơ sở vật chất và nguồn lực con người theo đề án xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia. Với trẻ mẫu giáo chủ yếu là con em các gia đình nông thôn đồng bào dân tộc miền núi kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. * Những thuận lợi: Chính Phủ đã phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2025”. Được sự quan tâm của Đảng nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo, chính quyền địa phương về tăng cường cơ sở vật chất cho giáo dục. Trường mầm non Điền Thượng đạt chuẩn quốc gia năm 2014 và công nhận lại năm 2018. 3 Nhà trường thường xuyên quan tâm, đầu tư đủ nguồn tài liệu, học liệu cho giáo viên và trẻ; tăng cường việc sử dụng đồ dùng trực quan thông qua những vật thật, tranh ảnh, băng hình, phim, video; sử dụng hiệu quả phương tiện hỗ trợ các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết nhằm đảm bảo chất lượng về các kỹ năng này bền vững. * Những khó khăn: Về phía cha mẹ học sinh: 100% là đồng bào dân tộc Mường, do vậy ảnh hưởng đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Mặt bằng kinh tế của người dân còn thấp chủ yếu là làm ruộng làm nương. Sự quan tâm của cha mẹ học sinh đến việc học của các em còn nhiều hạn chế. Không ít cha mẹ học sinh trông chờ, ỉ lại vào chính sách của nhà nước và khoán trắng cho nhà trường. Về cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất nhà trường diện tích chật hẹp, còn thiếu các phòng chức năng như: Phòng âm nhạc, phòng nghệ thuật, thiết bị dạy học đầu tư không đồng bộ, việc khai thác sử dụng đồ dùng, đồ chơi đạt hiệu quả chưa cao. 2.2.3. Nhận thức của phụ huynh về nội dung tăng cường tiếng Việt cho trẻ: Tổng số phụ huynh lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi A2 là 20: ST T 1 Tổng số phụ huyn h 20 Mức độ nhận thức của phụ huynh về rèn luyện các kĩ năng bồi dưỡng tiếng Việt cho trẻ Rất quan Quan trọng Không quan Không quan trọng trọng tâm SL % SL % SL % SL % 2 10 4 20 6 30 8 40 Lối sống khép kín trong gia đình khiến môi trường tiếng Việt của trẻ dân tộc thiểu số nhiều hạn chế, tạo ra không ít rào cản trong việc học tiếng Việt của các em. 2.2.4. Thực trạng về nhận thức của giáo viên về nâng cao tiếng việt cho trẻ: Giáo viên chưa quan tâm nhiều đến việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non, lựa chọn nội dung giáo dục đưa vào các chủ đề trong năm học, còn gò bó, chưa đảm bảo tính linh hoạt. Việc đánh giá chất lượng đầu ra thông qua các sản phẩm học tập của trẻ chưa được quan tâm nhiều. Một bộ phận giáo viên còn hạn chế trong phương pháp dạy tiếng việt cho học sinh dân tộc thiểu số. Nhiều giáo viên không biết tiếng dân tộc để hỗ trợ trẻ học tập và giao tiếp. Sự bất đồng về ngôn ngữ giữa giáo viên và dân cư nơi trường đóng đã hạn chế kết quả vận động gia đình và cộng đồng tham gia vào quá trình giáo dục như huy động trẻ em đi học và đi học đều chưa hiệu quả 2.2.5. Thực trạng nhận thức của trẻ về tiếng Việt: Đặc điểm ngôn ngữ của tiếng Việt và tiếng các dân tộc thiểu số có nhiều khác biệt, nhất là yếu tố dấu thanh trong tiếng Việt tạo ra không ít khó khăn cho các em. Nhận thức của trẻ về tiếng Việt thông qua kết quả khảo sát 20 trẻ lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi A2 đầu năm học 2018 – 2019 thu được kết quả cụ thể như sau: 4 ST T 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. Tổn g số trẻ Nội dung khảo sát Tốt SL 3 3 0 0 2 1 0 0 % 15 15 0 0 10 5 0 0 Mức độ nhận thức Khá TB SL % SL % 6 30 10 50 6 30 9 45 5 25 6 30 3 15 7 35 4 20 7 35 5 25 6 30 3 15 7 35 2 10 10 50 Yếu SL 1 2 9 10 7 8 10 8 % 5 10 45 50 35 40 50 40 Kỹ năng nghe Kỹ năng nói Kỹ năng tiền đọc 20 Kỹ năng tiền viết Nhận dạng các chữ cái Tập tô Tập tồ các nét chữ Sao chép một số kí hiệu Khó khăn về việc học tiếng Việt: Đối với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi A2 có thể giao tiếp bằng tiếng Việt, tuy nhiên phần lớn các em chỉ sử dụng tiếng Việt ở trường, khi về nhà vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ. Điều này khiến các em gặp nhiều hạn chế trong việc giao tiếp và khó khăn khi tiếp thu, lĩnh hội kiến thức khi bước vào lớp 1. nhận thức của các cháu về kĩ năng tiền viết, tập tô các nét chữ số lượng yếu, kém còn 10 cháu chiếm 50%, tiếp đến kĩ năng tiền đọc 9 cháu chiếm 45% và tập tô, sao chép một số kí hiệu 8 cháu chiếm tỷ lệ 40%. Các em vốn quen nói tiếng mẹ đẻ nên cách phát âm, câu chữ, cách ứng xử không phù hợp với chương trình giáo dục trên lớp. Trẻ găp nhiều hạn chế về môi trường sử dụng tiếng Việt: những người xung quanh các em giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ là chủ yếu (cùng hoặc khác ngôn ngữ với các em). 2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện 2.3.1. Biện pháp 1: Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo thông qua việc xây dựng nội dung chương trình, kế hoạch của giáo viên. 2.3.1.1. Đối với giáo viên : Căn cứ vào thực tế, số lượng trẻ còn hạn chế tiếng Việt để xem xét thời lượng tăng cường tiếng Việt trong ngày, xây dựng nội dung tăng cường tiếng Việt cho trẻ, linh hoạt sử dụng các tình huống dạy trẻ tiếng Việt, đối với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi A2. Khi dạy tăng cường tiếng Việt, giáo viên phải chú ý rèn kỹ năng dạy trẻ nói câu đầy đủ, phù hợp với bảng từ, chú trọng sửa lỗi cho trẻ ở những từ phát âm khó, sửa tật nói ngọng, rèn cho trẻ tự tin trong giao tiếp tiếng việt. Khuyến khích giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy và học, sử dụng linh hoạt các tiện ích, phần mềm, tư liệu, hình ảnh để nâng cao hiệu quả dạy học tiếng Việt. Tổ chức các các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các hoạt động trải nghiệm,sáng tạo để tạo sân chơi và môi trường giao tiếp tiếng việt cho trẻ. 2.3.1.2. Tổ chức môi trường lớp học 5 Môi trường lớp học đóng một vai trò quan trọng trong việc dạy và học, nó quyết định phần lớn tới chất lượng dạy học của nhóm lớp. Đối với các lớp dạy chương trình tăng cường tiếng Việt thì việc tạo môi trường lớp học lại càng có ý nghĩa lớn lao hơn đối với trẻ. Môi trường trong lớp học : Môi trường giáo dục được xây dựng phù hợp với nội dung giáo dục của từng độ tuổi, từng chủ đề phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu, nội dung giáo dục nói chung và nội dung dạy tăng cường tiếng Việt nói riêng của các lớp. Môi trường của các nhóm, lớp phải tạo cho trẻ có nhiều cơ hội học tập và được hoạt động với môi trường tiếng Việt, cho dù trẻ học trong lớp phân chia được độ tuổi hay lớp mẫu giáo ghép. Ví dụ: Các đồ dùng các nhân của trẻ, các thiết bị trong lớp được dán ký hiệu bằng các chữ cái; các mảng tường có sử dụng đa dạng các kiểu chữ cái, các chữ cái và chữ số treo, dán trong lớp (Hình ảnh đồ dùng của trẻ) (Hình ảnh cây chữ cái ở góc học tập) Việc sắp xếp các góc hoạt động trong lớp phải hợp lí, thuận tiện và có đủ không gian cho trẻ hoạt động, các góc yên tĩnh như góc (học tập, nghệ thuật) phải xa góc động (góc xây dựng, góc phân vai). Sử dụng các giá, bảng để làm hàng rào ngăn cách các góc chơi nhưng phải có độ cao vừa phải để không làm che khuất tầm nhìn. Thường xuyên thay đổi nội dung các góc chơi trong từng chủ đề nhằm tạo sự hứng thú, kích thích trẻ tham gia hoạt động. 6 Hình ảnh: Góc phân vai Hình ảnh: Góc học tập Các nhóm, lớp tạo ra môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt tích cực thông qua nhiều hình thức như: tổ chức các giờ học tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vào các buổi chiều trong tuần, tổ chức các trò chơi ngôn ngữ, các hoạt động giáo dục khác có tăng cường sự giao lưu, giao tiếp bằng tiếng Việt giữa trẻ - trẻ, giữa trẻ cô và những người xung quanh. Môi trường ngoài lớp học: Cần chú ý thiết kế xây dựng các góc hoạt động cho trẻ ngoài lớp học, (như góc thiên nhiên, góc vận động..). Giáo viên phải biết tận dụng các điều kiện cơ sở vật chất sẵn có của trường, tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương để giao nhiệm vụ cho trẻ, khuyến khích trẻ giao tiếp, tương tác với nhau bằng tiếng Việt. Ví dụ: Xây dựng góc thiên nhiên cho trẻ được chăm sóc cây, hoa để cho trẻ được chơi theo nhóm và khuyến khích trẻ giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt trong quá trình trẻ chơi. Đẩy mạnh việc phối hợp tạo môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt từ ngay trong nhà trường và trong gia đình trẻ, phối hợp chặt chẽ với cha mẹ trẻ, thường xuyên giao tiếp với trẻ bằng tiếng Việt ngay tại gia đình. Đồng thời, có các biện pháp tuyên truyền để khuyến khích cộng đồng nơi trẻ đang sinh sống tăng cường giao tiếp với trẻ bằng tiếng Việt thường xuyên và tự tin. (Hình ảnh góc thiên nhiên của bé) 7 2.3.1.3. Xây dựng kế hoạch cụ thể trong một tuần, ngày để tăng cường tiếng Việt cho trẻ: - Xây dựng kế hoạch tuần: + Xây dựng kế hoạch tuần 3 : Một số loại hoa Thứ Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 Thời điểm Đón * Đón trẻ: Cô đến lớp sớm 15 phút, mở cửa, quyét dọn phòng trẻ,chơi, nhóm. Cô ân cần niềm nở khi đón trẻ, nhắc trẻ chào cô, các bạn, bố thể dục mẹ khi đến lớp hướng dẫn trẻ cất đồ dùng cá nhân của mình vào nơi sáng quy định, trao đổi với phụ huynh tình hình học tâ ̣p, ăn ở của trẻ khi ở lớp cùng cô * Chơi: Trò chuyện cùng trẻ về những người thân trong gia đình trẻ, tên, địa chỉ gia đình, công việc của những người thân trong gia đình. - Hát các bài hát có trong chủ đề. * Thể dục sáng: Tập bài Hoa trường em. Hoạt PTNT PTNN PTTC PTTM PTTM động Trò chuyện Thơ: Hoa Nhảy Vẽ bông Vỗ tay theo nhịp Học cùng trẻ về kết trái lò cò 5 hoa : Màu hoa TCTV một số loại bước NH: Hoa trong thông hoa vườn qua HĐ TCTV: TC: Bao nhiêu TCTV: Tim học bạn hát Hoa hồng, tím, nho nhỏ, hoa đào, chói chang hoa đồng tiền Chơi, * Góc phân vai: Gia đình, bác sĩ, bán hàng, rau quả, thực phẩm. hoạt * Góc xây dựng: Xây dựng nông trại trồng cây, hoa. động * Góc học tập: Xem tranh, kể chuyện theo tranh về chủ đề. góc * Góc nghệ thuật tạo hình: Vẽ các loại cây, hoa múa, hát về các ( TCTV bài hát về chủ đề.( góc chính) Thông * Góc thiên nhiên: Trồng rau, cây, hoa và chăm sóc cây rau góc qua HĐ thiên nhiên. góc) * TCTV từ: Hoa hồng, hoa đào, hoa đồng tiền Chơi Quan sát có mục đích: Quan sát mô ̣t số loại hoa (hoa đào, hoa ngoài hồng, hoa cúc) trời TCVĐ: Hái hoa, Gieo hạt ( TCTV Chơi tự do: Chơi với đồ chơi có sẵn ngoài sân trường. Dung dăng thông dung dẻ… qua HĐ TCTV từ: Hoa cúc, màu vàng, cuống hoa góc) Cô cho trẻ đi vệ sinh, rửa tay, ngồi vào bàn, cô giới thiệu cho trẻ về Ăn, các món ăn, cho trẻ ăn, động viên trẻ ăn hết suất của mình. Ngủ, Vệ - Kê giường, trải chiếu, chăn cho trẻ ngủ, cô ngồi trong lớp bao quát 8 sinh cá nhân Chơi hoạt động theo ý thích (TCTV thông qua HĐ chơi theo ý thích) trẻ ngủ. - Trẻ ngủ dậy cho trẻ đi vệ sinh. ngồi vào bàn ăn phụ. Ôn: Trò Ôn: Văn Ôn: Đề tài : Ôn: Vẽ bông Ôn : Hoa chuyện học Nhảy lò cò hoa trường em cùng trẻ về Đề tài: 5 bước Làm quen NH: Hoa một số loại Thơ: Làm quen bài mới: trong vườn hoa Hoa kết bài mới: DH: Hoa TC: Bao Làm quen trái Vẽ bông trường em nhiêu bạn bài mới: Làm hoa NH: Hoa hát. Văn học quen TCTV: trong vườn TCTV: Hoa Đề tài: bài mới: Hoa loa TC: Bao mai, Hoa Thơ: Hoa Nhảy lò kèn,hoa sen, nhiêu bạn huệ, Hoa kết trái cò 5 hoa hướng hát. phượng. - Chơi tự bước dương TCTV: Hoa Nêu gương do ở các - Chơi - Chơi tự ly, hoa thược cuối tuần góc. tự do ở do ở các dược, hoa các góc. góc. dâm bịt - Chơi tự do ở các góc. Trẻ - Cô chải tóc gọn gàng cho trẻ, cho trẻ đi vệ sinh, lấy đồ dùng tư chuẩn bị trang cá nhân trẻ. ra về và - Nhắc trẻ chào cô,bố mẹ khi ra về. trả trẻ - Trao đổi với phụ huynh tình hình của trẻ khi ở lớp. - Xây dựng kế hoạch hoạt động trong một ngày: Xây dựng kế hoạch tăng cường tiếng Việt vào các hoạt động trong ngày cho trẻ ở mỗi chủ đề bao gồm: - Mục tiêu chủ đề: Thực hiện mục tiêu chương trình phù hợp với đặc điểm của trẻ, nhấn mạnh việc chuẩn bị tiếng Việt (Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ ). - Nội dung chủ đề: Căn cứ vào chương trình khung. - Tổ chức môi trường lớp học: Căn cứ vào nội dung bài học để chuẩn bị môi trường lớp học, đồ dùng của cô, đồ dùng của trẻ và dự kiến hình thức tổ chức. + Môi trường vật chất: Tổ chức các khu vực hoạt động; chuẩn bị đồ dùng đồ chơi, sưu tầm và trưng bày tranh ảnh, sách, sản phẩm tạo hình của trẻ, vật thật, đồ dùng sinh hoạt địa phương về chủ đề. + Môi trường chữ viết: Chú ý khi tạo môi trường chữ viết cho trẻ cần tạo bằng các chữ cái in thường, đảm bảo vừa tầm mắt của trẻ, tránh rườm rà gây khó nhìn cho trẻ. Các hoạt động như học, chơi, ăn, ngủ theo chế độ sinh hoạt, theo thời gian biểu. + Hoạt động cụ thể: - Đón trẻ - Chơi thể dục sáng - Hoạt động học (1 hoặc 2 hoạt động) - Chơi hoạt động góc. - Chơi hoạt động ngoài trời: 3 hoạt động + Quan sát có mục đích 9 + Trò chơi vận động + Chơi tự do (Vẽ tự do, nhặt lá rụng…) - Làm quen với tiếng Việt (mỗi ngày làm quen có trọng tâm 3 từ, thực hiện trong bất cứ hoạt động nào phù hợp). Cho trẻ làm quen trong hoạt động học, khi trẻ chơi ở các góc và lồng ghép trong hoạt động hàng ngày. - Ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân trẻ. - Chơi hoạt động theo ý thích. - Trẻ chuẩn bị ra về và trả trẻ. Hằng ngày nhắc nhở trẻ 1 - 2 nội dung để chú ý tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Phối hợp với phụ huynh để tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Tuỳ mức độ hiểu tiếng Việt của trẻ mà giáo viên linh hoạt lựa chọn các hình thức tăng cường tiếng Việt phù hợp. Ví dụ : Giờ tăng cường tiếng Việt cho trẻ: Mẫu giáo lớn 5 -6 tuổi A2 Làm quen với từ: Gieo hạt, cấy, gặt (Chủ đề: Nghề nghiệp Mục tiêu: Trẻ hiểu nghĩa và nói được từ: gieo, gieo mạ, cấy lúa, gặt lúa. Hiểu nội dung câu nói: Bác nông dân đang cấy lúa; Các bác nông dân đang gặt lúa. - Hỏi và trả lời được câu hỏi: Đây là ai? Đang làm gì? Chuẩn bị: - Tranh,hình ảnh (video clip) về gieo mạ, cấy lúa, gặt lúa. - Chọn từ cũ để dạy từ mới: gieo (gieo hạt), cấy lúa, lúa vàng, gặt lúa. Tổ chức hoạt động: - Cô giáo vừa nói vừa chỉ vào tranh: Gieo hạt (lúa). Cô làm động tác và cho trẻ nhắc lại 3 lần. - Giáo viên chỉ và hỏi: Bác nông dân/cô đang làm gì? Cho trẻ trả lời. - Cô giáo vừa nói vừa chỉ vào tranh: Bác nông dân đang cấy lúa. Cho trẻ nhắc lại 3 lần. Giáo viên chỉ và hỏi: Bác/cô đang làm gì? Cho trẻ trả lời. - Cô giáo vừa nói vừa chỉ vào tranh: Bác nông dân đang gặt lúa. Cho trẻ nhắc lại 3 lần. Giáo viên chỉ và hỏi: Bác/cô đang làm gì? Cho trẻ trả lời. - Mở rộng: yêu cầu trẻ nhìn vào tranh “Gặt lúa” và hỏi trẻ: Lúa chín có màu gì? (lúa chín màu vàng). Sau đó cho trẻ hỏi nhau. Nếu trẻ nói tốt, cho trẻ chơi vận động: Bé cũng là người nông dân (làm động tác vung tay gieo mạ/đi cúi thấp, bước sang ngang và cấy lúa/dàn hàng ngang bước tiến lên trước và làm động tác gặt lúa) vừa vận động vừa nói: Gieo mạ, cấy lúa, gặt lúa. 2.3.2. Biện pháp 2: Tăng cường đổi mới việc vận dụng phương pháp giáo dục trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non Phương pháp dạy học tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ thứ nhất) của chương trình tiếng Việt hiện hành chưa hoàn toàn thích hợp với đối tượng học sinh dân tộc chưa biết tiếng Việt hoặc biết rất ít (học tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai). Như vậy để nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh mầm non vùng dân tộc thiểu số của nhà trường giáo viên linh hoạt trong việc vận dụng một số phương pháp như sau: 2.3.2.1. Cho trẻ tiếp xúc với vật thật 10 Là hình thức cô cho trẻ được tiếp xúc với từng vật cụ thể qua đó giúp trẻ nhận biết, tri giác vật một cách khái quát và cụ thể từng chi tiết, từ được gọi chính xác với vật và đặc điểm của vật. Trong khi xem xét, giáo viên kết hợp chỉ vào vật hoặc từng chi tiết, đặc điểm của vật với từ được gọi (trong trường hợp không có vật thật, giáo viên cho trẻ tiếp xúc với đồ chơi, tranh ảnh…) Hình thành kĩ năng quan sát khi cho trẻ tiếp xúc với vật thật: Là dạy trẻ sử dụng những giác quan của mình để tích lũy dần dần những kinh nghiệm, những hình ảnh, những biểu tượng và kỹ xảo ngôn ngữ. Khi tổ chức quan sát, không nên chỉ hướng sự chú ý của trẻ vào các sự vật và hiện tượng riêng lẻ, mà cần phải làm cho trẻ thấy được mối quan hệ giữa chúng. Điều đó giúp trẻ suy nghĩ mạch lạc và biểu hiện những ấn tượng của mình bằng lời nói trôi chảy. * Đọc biểu tượng: Đối với trẻ em mầm non “Đọc” biểu tượng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng để phát triển sự phong phú, đa dạng về ngôn ngữ cho trẻ. Mỗi trẻ có một cách đọc biểu tượng khác nhau. Ví dụ: Nhìn biểu tượng “Cái cốc”, mỗi trẻ có thể “Đọc” theo cách của mình: - Cái cốc dùng để uống nước. - Cái cốc làm bằng nhựa. - Cái cốc này rất đẹp. v.v… Trong một hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non “Đọc biểu tượng” khoảng 20 – 30 phút thông thường giáo viên tổ chức gồm ba việc làm sau (không giảng giải): Bước 1: Tổ chức cho trẻ xem biểu tượng (2 - 3 phút) tương tự như học sinh có một văn bản để đọc. Bước 2: Mô tả biểu tượng (10 - 12 phút) tương tự như chuẩn bị giúp học sinh đọc đúng tiếng và tìm hiểu từ ngữ bài đọc. Bước 3: Đọc biểu tượng (5 phút) – tương tự như việc học sinh đã đọc đúng và hiểu ý nghĩa bài đọc. Qua đó trẻ có cơ hội tưởng tượng vốn từ rất phong phú và đa dạng, trẻ được nói lên ý hiểu của mình về biểu tượng, trẻ tưởng tượng ra nhiều nội dung về biểu tượng, trẻ trình bày mẫu câu, kiểu câu khác nhau. * Sử dụng phần mềm Phát triển ngôn ngữ trừu tượng dễ hiểu và biểu cảm kỹ năng là một kỹ năng nền tảng quan trọng vào đầu giáo dục thời thơ ấu. Gần đây, trong giáo dục mầm non các chuyên gia đã bắt đầu sử dụng công nghệ thông tin dựa trên hỗ trợ trong việc phát triển những kỹ năng ngôn ngữ cho trẻ. Một số phần mềm ứng dựng công nghệ thông tin có tiềm năng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non như: Chương trình, phần mềm Kidsmart Chương trình bé Vui học Chương trình bút chì thông mình. Trong mỗi chương trình, phần mềm đã được thiết kế bằng ngôn ngữ trẻ thơ có hình ảnh, âm thanh, nhạc giúp trẻ thích khám phá, học hỏi, kích thích cho việc phát triển vốn từ ở trẻ. 11 * Hệ thống giao tiếp bằng trao đổi tranh Đây là một phương pháp rất thực tế và hấp dẫn trẻ, cho hiệu quả cao trong phát triển ngôn ngữ và phát triển nhận thức, đặc biệt là có ý nghĩa trong việc phát triển vốn từ và khả năng hội thoại trong giao tiếp. Phương pháp này nhấn mạnh vào sự trao đổi có ý nghĩa thay vì dạy trẻ những âm thanh hay lặp lại những từ cụ thể. Trẻ sẽ trao đổi về một thứ mà trẻ thích với cha mẹ thông qua bức tranh. Ví dụ: Khi trẻ đói trẻ có thể chọn bức tranh cốc sữa, khi trẻ muốn đi chơi trẻ có thể chọn bức tranh đôi giày. Trong PECS, ngôn ngữ lời nói được thay thế bằng việc sử dụng thẻ hình cho giao tiếp, đặc biệt có ý nghĩa đối với trẻ ở giai đoạn tiền ngôn ngữ. Khi trẻ chưa có ngôn ngữ hoặc ngôn ngữ bị hạn chế, hình ảnh sẽ giúp trẻ yêu cầu người khác và thực hiện yêu cầu của người khác. Hình ảnh lúc này là trung gian để chuyển tải thông tin diễn ra mối quan hệ tương tác giữa trẻ và người lớn. PECS góp phần củng cố sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ mạch lạc và chắc chắn hơn. 2.3.2.2. Can thiệp phát triển quan hệ: Mỗi trẻ em là một cá thể có sự khác biệt riêng, khi tiến hành phát triển ngôn ngữ cho trẻ không được đánh đồng mọi trẻ em như nhau, cần chú ý tới yếu tố cá biệt. Phương pháp can thiệp phát triển quan hệ là một phương pháp để giúp trẻ học, khám phá cuộc sống, giúp liên kết các phần chức năng khác nhau trong não của trẻ cùng phối hợp làm việc với nhau và có chức năng như một tổng thể chứ không phải các cơ quan rời rạc. Hình thành ở trẻ mối quan hệ bản thân trẻ với cuộc sống tự nhiên, cuộc sống xã hội xung quanh. Khi sử dụng phương pháp RDI cần nhấn mạnh đến yếu tố làm thế nào để trẻ có được sự thích thú tham gia vào quá trình giao tiếp, huy động sự tham gia tối đa của các giác quan như thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác giúp trẻ bộc lộ khả năng hồi tưởng kỷ niệm trong trí nhớ dài hạn về vốn từ, mẫu câu để trẻ sử dụng vào trong quá trình trao đổi thông tin, giải quyết nhiệm vụ, nội dung giao tiếp. Cần 2 người để nói chuyện là một phương pháp giúp chúng ta vượt qua những rào cản – năng lực giao tiếp hạn chế của trẻ, những cảm xúc tiêu cực của trẻ, sự thiếu năng lực nhận thức của trẻ, sự hoài nghi của trẻ và lợi ích giao tiếp – để giao tiếp tốt với trẻ. Tính chất quan trọng của phương pháp này là khuyến khích trẻ giao tiếp bằng hành động gián tiếp, chúng ta làm cho trẻ được hưởng niềm vui và lợi ích của việc giao tiếp, điều chỉnh cách giao tiếp khác nhau như: Nương theo trẻ, hòa đồng chia sẻ, bổ sung kinh nghiệm cho trẻ. Từ đó hướng đến mục tiêu kích thích trẻ xuất hiện nhu cầu giao tiếp, trẻ tự khởi sướng cuộc giao tiếp. Thông qua giao tiếp chúng ta hiểu trẻ hơn để điều chỉnh môi trường, âm thanh, giọng điệu, sửa sai, bổ sung vốn từ cho phù hợp với mỗi cá nhân trẻ, hướng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 2.3.2.3. Kể chuyện sáng tạo Khi nói đến phương pháp kể chuyện gồm có: Kể chuyện với đồ dùng, đồ chơi; kể chuyện sáng tạo; kể chuyện theo trí nhớ. 12 Kể chuyện sáng tạo là lấy trẻ làm nòng cốt và phát huy tính sáng tạo cho trẻ. Cô giới thiệu các bức tranh và giúp trẻ làm quen với các nhân vật trong bức tranh. Giúp trẻ khám phá những điều mới trong các bức tranh. Tổ chức cho các bé thảo luận nhóm để sáng tạo cho câu chuyện của mình sẽ kể. Giáo viên có thể lấy một câu chuyện ngắn trong chương trình, có thể tranh minh họa (thông thường là 3 tranh), cô giới thiệu các nhân vật ở trong tranh và kể câu chuyện theo thứ tự các bức tranh đó. Sau đó cô khuyến khích các bé có thể kể câu chuyện theo một cách khác mà bé hiểu, có thể đổi thứ tự các bức tranh để cho bé kể theo sự sáng tạo và suy nghĩ của mình. Tuỳ theo lứa tuổi mà giáo viên có thể kể trước ý của mình cho trẻ nghe, sau đó yêu cầu trẻ kể câu chuyện đó theo ý của mỗi trẻ. Trẻ có thể dùng ngôn ngữ của mình để kể và đặt tên cho câu chuyện. Trẻ tự đặt tên câu chuyện cũng là một hình thức sáng tạo. Để có thể làm được nội dung này phải chuẩn bị cho bé rất nhiều: Cách diễn đạt câu, cách hiểu vấn đề, cách nhập vai. Thông qua cách này sẽ giúp bé tự tin hơn khi rèn luyện cho trẻ tính sáng tạo và trình bày sáng tạo của mình trước đám đông, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của mình. Kể chuyê ̣n sáng tạo giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ, năng lực tư duy, óc tưởng tượng sáng tạo, biết yêu cái đẹp, hướng tới cái đẹp, thông qua đó giúp cho trẻ rễ ràng hơn khi giao tiếp, học tập và vui chơi. Kể chuyê ̣n sáng tạo giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý của trẻ. Bên cạnh đó kể chuyê ̣n sáng tạo còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá. 2.3.2.4. Sử dụng trò chơi Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua trò chơi: Ngôn ngữ và tư duy liên hệ chặt chẽ với hoạt động, lao động của con người. Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ em. Vui chơi được thể hiện qua các trò chơi. Trò chơi góp phần phát triển toàn diện cho trẻ trong đó có ngôn ngữ. Từ những kinh nghiệm trong trò chơi trẻ khám phá ra những biểu tượng rồi liên hệ chúng với từ. Mỗi vật có tên riêng, mỗi hành động có một động từ riêng để chỉ nó cho nên nếu giáo viên tổ chức tốt hoạt động chơi, cung cấp đủ đồ dùng, đồ chơi thì trẻ có điều kiện tăng cường hoạt động ngôn ngữ. Trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển ngôn ngữ và nhiều mặt cho trẻ, đặc biệt là khẩu ngữ. Trong quá trình chơi trẻ không hề im lặng mà còn chia sẻ với nhau những kinh nghiệm của mình, điều này cần đến ngôn ngữ. Có thể nói hoạt động vui chơi là hoạt động góp phần phát triển toàn diện cho trẻ, trong đó có ngôn ngữ. Đây là phương pháp mà giáo viên sẽ sử dụng các loại tr ̣chơi khác nhau để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trò chơi chiếm giữ một vị trí quan trọng trong các hoạt động giáo dục ở trường mầm non. Đối với việc dạy nói cho trẻ thì điều này càng rõ. Có nhiều trò chơi có thể sử dụng được vào mục đích dạy nói cho trẻ. Đó là các trò chơi luyện phát âm, luyện thở ngôn ngữ, phát triển vốn từ, nói đúng ngữ pháp, nói mạch lạc. Ví dụ: 13 - Trò chơi luyện phát âm như ngửi hoa, thổi bóng. - Các trò chơi để phát triển vốn từ: chiếc túi kỳ diệu. - Các trò chơi để phát triển kỹ năng nói mạch lạc, giao tiếp ngôn ngữ có văn hoá như các trò chơi đóng vai theo chủ đề: Mẹ và con, bán hàng, giáo viên, bác sĩ. Trò chơi chiếm giữ một vị trí quan trọng trong các hoạt động giáo dục ở trường mầm non. Thông qua trò chơi trẻ sẽ được thực hành ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để nói ra những ý nghĩ của mình và học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm với bạn. Sử dụng trò chơi để phát triển ngôn ngữ tạo cho trẻ một trạng thái học nói tự nhiên, là con đường nhanh nhất để trẻ bắt chước, tập nói và ghi nhớ lâu những từ ngữ mới học được. 2.3.2.5. Cho trẻ tiếp xúc với sách Giúp trẻ cảm nhận được vần điệu, nhịp điệu của tiếng Việt thông qua việc đọc, kể thơ truyện. Phát triển ngôn ngữ nghệ thuật cho trẻ, giúp trẻ làm quen với cách diễn đạt của ngôn ngữ văn học. Thông qua việc giải thích các từ khó, từ xa lạ đối với trẻ trong các tác phẩm văn học cũng góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giáo viên sử dụng những từ trẻ đã biết để giải nghĩa cho những từ trẻ chưa biết góp phần quan trọng vào quá trình phát triển vốn từ, mở rộng vốn sống vốn hiểu biết của trẻ. Sử dụng câu hỏi, đàm thoại trong quá trình đọc thơ, kể chuyện cho trẻ, tất cả các câu hỏi được sắp xếp có tổ chức, có kế hoạch nhằm mục đích đi sâu, làm cho chính xác và hệ thống tất cả những biểu tượng và kiến thức mà trẻ thu lượm được; yêu cầu trẻ phải suy nghĩ, lựa chọn từ ngữ để trả lời câu hỏi được đặt ra. Khi đọc, kể chuyện giáo viên sử dụng ngữ điệu giọng nói để bộc lộ được đặc điểm, tính cách nhân vật. Đọc kể phải chậm rãi, vừa phải để trẻ còn lắng nghe và ghi nhớ được các từ ngữ, câu văn trong truyện, điều đó giúp trẻ tích luỹ vốn từ và học được cách thể hiện qua giọng đọc, giọng kể của cô. Đọc sách mỗi ngày cung cấp cho trẻ em cơ hội phát triển khả năng tưởng tượng về nhân vật, môi trường, diễn biến, tình tiết nội dung câu chuyện. Khi trẻ trở thành quen thuộc với những câu chuyện, trẻ học hỏi và thực hành kỹ năng ngôn ngữ như: khả năng dự đoán, hiểu nguyên nhân và thời gian trình tự, kể lại câu chuyện, chi tiết thu hồi, sử dụng từ vựng trong ngữ cảnh khác nhau, trả lời các câu phức tạp hơn, câu hỏi về nội dung câu chuyện và tiến tới sắm vai các nhân vật “Đóng kịch”. Giáo viên có thể sử dụng cách như sau: Ngày 1: Giới thiệu các bộ phận của cuốn sách (tác giả, tiêu đề, minh hoạ); yêu cầu trẻ đoán những gì cuốn sách có thể được về dựa trên tiêu đề và bao gồm hình ảnh minh họa; giới thiệu các khái niệm quan trọng và từ vựng. Ngày 2: Đọc cuốn sách với đạo cụ như con rối, sa bàn. - Ngày 3: Đọc cuốn sách với trẻ em dự đoán sự kiện đơn giản. Đó là, khi đọc một dự đoán được, quen thuộc văn bản, giáo viên cung cấp từ đầu tiên trong một định kỳ trình tự nội dung câu chuyện và khuyến khích trẻ trả lời. Ngày 4: Trẻ em thay phiên nhau đọc sách (đọc theo cách hiểu của trẻ về nội dung truyện qua tranh), tạo cơ hội cho nhiều trẻ được tham gia. Ngày 5: Trẻ diễn lại nội dung cuốn sách, phiên bản của câu chuyện. Thêm tình tiết vào làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn. 14 2.3.2.6. Cho trẻ tham gia các hoạt động ngoại khóa: Tham quan: Là con đường đưa trẻ đến gần sự vật, hiện tượng, trẻ có thể quan sát các sự vật và mở rộng nhận thức của mình. Nội dung tham quan phải đáp ứng được sở thích của trẻ. Buổi tham quan không mang tính chất của một bài học. Sau buổi tham quan cần tổ chức ngay các biện pháp củng cố các nhận thức và ấn tượng thu lượm được thông qua việc trao đổi, trò chuyện. Xem phim: Là hình thức sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại vào quá trình dạy trẻ, tạo điều kiện cho trẻ có thể quan sát, tham quan cảnh vật mà trẻ không thể đi đến nơi xem được hoặc xem lại cảnh quay trong quá khứ. Xem phim cũng góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ nếu giáo viên lựa chọn phim phù hợp với nhận thức đọ tuổi, sở thích của trẻ kết hợp với tổ chức trò chuyện, đàm thoại sau đó. Nhóm phương pháp trực quan được sử dụng nhằm vào các mục đích phát triển ngôn ngữ sau: Rèn luyện phát âm cho trẻ. Dạy cho trẻ cách thức phát âm: Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát các loại hoa, cây cối, giáo viên yêu cầu trẻ gọi tên các bộ phận của cây. Nếu trẻ chỉ vào cành cây mà nói là cằn cây hoặc chỉ vào lá mà nói thành "ná" thì giáo viên phải sửa ngay lỗi phát âm sai này của trẻ. Hình thành và phát triển vốn từ cho trẻ: Ví dụ: Sau khi cho trẻ xem phim về thế giới động vật, giáo viên trò chuyện với trẻ, yêu cầu trẻ kể lại những gì đã xem được. Muốn kể lại, trẻ phải huy động từ ngữ và sử dụng từ chính xác. Củng cố kiến thức, củng cố vốn từ. Ví dụ: Trong hoạt động ngoài trời, giáo viên có thể chỉ vào bồn hoa hình vuông và hỏi trẻ “Bồn hoa có những loại hoa gì?” nếu trẻ không nhớ, giáo viên có thể nói với trẻ “Bồn hoa có hoa hồng, hoa, cúc, hoa đồng tiền,…". Phát triển ngôn ngữ mạch lạc, tập cho trẻ diễn đạt. Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát hiện tượng gió, trẻ nhìn lên vòm cây và nói: “Cành cây lắc lư ghê lắm. Gió thổi rất mạnh”. Khi trực quan: Trẻ tích lũy dần dần những kinh nghiệm, những hình ảnh, những biểu tượng và dùng phương tiện ngôn ngữ để củng cố và diễn đạt lại. 2.3.3. Biện pháp 3: Công tác xã hội hóa, Phối hợp với phụ huynh có ý thức tạo một môi trường thuận lợi có thể giúp trẻ trong việc phát triển, sử dụng ngôn ngữ. 2.3.3.1. Công tác xã hội hóa giúp trẻ trong việc phát triển, sử dụng ngôn ngữ. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các bậc cha mẹ của trẻ, giáo viên và cộng đồng đối với việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số. Tăng cường công tác tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền; phối hợp chặt chẽ các đoàn thể địa phương, đẩy mạnh xã hội hóa để huy động nguồn lực hợp pháp nhằm tổ chức thực hiện tốt kế hoạch tăng cường tiếng Việt đối với trẻ em dân tộc thiểu số; vận động phụ huynh huy động tối đa trẻ em trong độ tuổi mầm non ra lớp, thực hiện tốt việc duy trì sĩ số, hạn chế thấp nhất tình trạng trẻ nghỉ học, đi học không chuyên cần. 15 Phối hợp với đoàn thanh niên, hội phụ nữ xây dựng các câu lạc bộ đọc sách tại thôn, làng; giao lưu các hoạt động văn hóa, văn nghệ; tổ chức các trò chơi học tập; thi kể chuyện; tham gia ngày hội nói tiếng việt; giao lưu tiếng Việt của các em; hướng dẫn cha mẹ trẻ tạo dựng môi trường tiếng Việt tại nhà và tăng cường giao tiếp với trẻ. Tổ chức cho trẻ lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi A2 giao lưu với học sinh tiểu học. Phối hợp với hội cha mẹ, già làng sưu tầm các tác phẩm văn học dân gian (truyện, thơ, câu đố, bài hát) của người dân tộc thiểu số để sử dụng trong công tác giáo dục tại lớp mẫu giáo; khuyến khích phụ huynh, các tổ chức đóng góp đồ dùng, đồ chơi, vật dụng sinh hoạt địa phương để sử dụng trong hoạt động tập nói tiếng. 2.3.3.2. Phối hợp với phụ huynh có ý thức tạo một môi trường thuận lợi có thể giúp trẻ trong việc phát triển, sử dụng ngôn ngữ: Ngoài thời gian ở lớp được tiếp xúc với cô giáo và bạn bè, còn lại phần lớn thời gian của trẻ là ở gia đình. Vì vậy, việc có ý thức tạo một môi trường thuận lợi có thể giúp trẻ rất nhiều trong việc phát triển, sử dụng ngôn ngữ. Chú trọng và ý thức được điều này, gia đình cũng sẽ tạo lập được con đường vững chắc trong việc hình thành và bồi đắp nhân cách cho trẻ. Cha mẹ và người lớn phải là tấm gương về ngôn ngữ để hàng ngày trẻ soi vào. Trẻ học một cách vô thức từ cách nói năng, cách sử dụng ngôn ngữ, sắc thái biểu cảm trong ngôn ngữ của người lớn, và rất thích bắt chước, làm theo. Vì vậy, người lớn trong gia đình phải ý thức được điều này để định hướng, giúp đỡ trẻ. Bố mẹ cần nói những câu đơn giản, rõ ràng để cho trẻ noi theo. Giao tiếp với trẻ bằng ngôn ngữ dịu dàng, tình cảm, yêu thương thì trẻ cũng sẽ có được ngôn ngữ như vậy. Hàng ngày, khi người lớn nói chuyện với nhau cần đúng mực, dùng câu đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ, bố mẹ lễ phép với ông bà, tôn trọng và yêu thương nhau. Còn nếu người lớn nói năng cục cằn, hay văng tục, nói bậy, thiếu tôn trọng nhau thì không thể trông mong trẻ nói năng lễ phép, ngoan ngoãn được. Nên tăng cường sử dụng các câu hỏi lựa chọn để trẻ trả lời. Ví dụ 1: “Con thích ăn trái táo hay quả cam?; con thích mặc chiếc váy màu đỏ hay màu xanh?”. Đồng thời, cũng cần mở rộng những câu nói ngắn, câu cụt của trẻ thành các câu dài hơn, chú ý sử dụng các từ tượng thanh, tượng hình, các từ láy giàu giá trị biểu cảm trong tiếng Việt để làm phong phú ngôn ngữ của trẻ. Ví dụ 2: Khi đi chơi công viên, trẻ có thể ngạc nhiên trước hồ nước rộng và nói “Hồ nước to quá”, bạn có thể nói “Đúng rồi con ạ, hồ nước rộng mênh mông”; nhìn thấy con mèo có đôi mắt màu xanh, rất lạ, trẻ có thể nói “ Mắt mèo xanh quá”, bạn khẳng định lại cho bé “Đúng lắm, mèo con có đôi mắt xanh, sáng long lanh”; hoặc thêm vào “Dáng đi của nó thật uyển chuyển, mềm mại”. Ở nhà, ra phố, đi chợ, đi chơi luôn luôn có những hình ảnh, sự kiện mới, người lớn cần nhân lúc đó, giới thiệu từ mới cho trẻ. Cứ như vậy, vốn từ ngữ của trẻ sẽ phát triển, trẻ sẽ thích thú sử dụng vốn ngôn từ phong phú của mình một cách uyển chuyển, linh hoạt. Khi trẻ nói ngọng, dùng từ sai ta cần uốn nắn, nhắc nhở trẻ nhẹ nhàng, kịp thời và kiên nhẫn. Không được mắng hay chế giễu trẻ làm các em mất tự tin, ngại giao tiếp, sẽ ảnh hưởng nhiều mặt đến tâm lí và tình cảm của trẻ, không 16 đơn thuần là về ngôn ngữ. Khi trẻ nói bậy, nói tục cần làm cho trẻ thấy đó là ngôn ngữ không đúng để trẻ tránh, không kết luận rằng trẻ như vậy là láo, hư đốn. Hằng ngày cha mẹ nhất thiết phải dành thời gian để trò chuyện với trẻ. Chúng ta có thể tận dụng thời gian lúc tắm cho trẻ hay trên đường đón trẻ về nhà, hỏi thăm về công việc, nội dung mà trẻ đã học, làm trong ngày; hỏi trẻ về những ngýời bạn, về tình cảm, cảm xúc của trẻ trong ngày hôm đó. Trẻ sẽ rất hào hứng “Ôn lại” những hoạt động của mình trong suốt cả ngày, bạn đồng thời củng cố được mối liên hệ chặt chẽ và lòng tin cậy đối với trẻ. Các góc của gia đình có thể để những giá sách nhỏ đó là phòng khách, phòng ăn. Trên tường trong phòng của bé bạn có thể treo những bức tranh theo chủ đề: Hoa quả, thế giới động vật, thực vật, đại dương kèm theo chữ viết rồi hướng dẫn trẻ tìm hiểu, gọi tên. Khoảng một tháng một lần, bạn nên gỡ các bức tranh đã quen đi và thay bằng bức mới (khoảng hai bức cho một lần). Bên cạnh đó, việc tạo ra những góc học tập và tiến hành những hoạt động có chủ đích hướng tới việc học trong gia đình cũng vô cùng quan trọng. Bạn có thể xây dựng cho bé một “Khu vườn văn học”. Với một góc học tập riêng, có tủ hoặc giá sách. Việc lựa chọn sách là rất quan trọng. Các cuốn sách nên có đó là những tập thơ dành cho thiếu nhi, ca dao, đồng dao; truyện tranh, truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyền thuyết. Bên cạnh đó, bạn cũng nên bổ sung các tác phẩm mang đậm những truyền thống của địa phương phù hợp với nhận thức của trẻ để làm giàu thêm tâm hồn trẻ về tình yêu quê hương đất nước. Đây là những kho tàng tri thức quí báu, những viên ngọc sáng của nhân loại. Bạn cũng nên tham khảo ý kiến các chuyên gia để mua được những cuốn sách có chất lượng, phù hợp với trẻ. Hàng ngày, dành thời gian đọc cho trẻ nghe, có thể vào những lúc bạn rảnh rỗi hoặc trước khi đi ngủ. Chúng ta có thể phân chia ra những phương pháp đọc khác nhau: đọc có chủ đích và đọc vô thức. Đọc có chủ đích là hoạt động đọc hướng tới những mục đích nhất định. Đối với những bài thơ, ca dao, đồng dao bạn đọc thật diễn cảm, thể hiện được nhịp điệu và cảm xúc để trẻ cảm nhận được. Sau đó, có thể dạy cho trẻ học thuộc lòng, giúp cho trẻ nghe ý nghĩa cơ bản của tác phẩm. Ví dụ : Khi đọc đoạn ca dao: “Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” Bạn đọc đúng nhịp 2/2 “Trong đầm/ gì đẹp…” và ngắt nhịp ở cuối mỗi câu 6/8 để bé yêu cảm nhận được âm điệu du dương, tha thiết của nhịp thơ lục bát. Sau đó, bạn khuyến khích bé đọc cùng, nhắc những đoạn quên để bé thuộc đoạn thơ. Rồi cùng trao đổi : “Con biết đoạn thơ nói gì không nào? À, đoạn thơ tả vẻ đẹp của hoa sen? Hoa sen đẹp thế nào nhỉ? Lá màu xanh, bông sen màu trắng, nhị hoa màu vàng. Thế con có biết nhị hoa là cái gì không? Cứ như vậy, bạn cùng bé khám phá vẻ đẹp vô cùng phong phú của mỗi bài thơ/đoạn thơ. Đối với truyện cổ tích, truyền thuyết, câu đố cũng vậy. Đọc, tìm hiểu, kể lại, nhập 17 vai, trả lời là những hoạt động trẻ rất thích thú. Bạn sẽ ngạc nhiên trước khả năng nghe và nắm bắt ngôn ngữ nhanh chóng của trẻ. Cách đọc vô thức nên thực hiện với các tác phẩm văn học lớn của nhân loại. Bạn hoàn toàn có thể cho trẻ tiếp xúc bằng cách đọc từng đoạn, từng phần. Ở đây chúng ta không hướng tới những mục đích cụ thể như cách đọc có chủ đích, mà đọc như một trò chơi. Đừng lo trẻ nhàm chán, ngược lại, trẻ sẽ rất say mê và hứng thú trước những thế giới ngôn ngữ trong sáng, hàm súc, giàu giá trị biểu cảm và gợi tả của các tác phẩm này. Vì vậy, đọc vô thức có tác dụng rất lớn, để khơi gợi những tình cảm phong phú trong thế giới tinh thần của trẻ, có thể trẻ chưa thể hiểu hết được ý nghĩa sâu xa nhưng tình yêu văn thơ, ngôn ngữ và tâm hồn trẻ sẽ được bồi bổ hằng ngày. Đối với trẻ có biểu hiện tự kỉ hoặc rối nhiễu về tâm lí cần phải quan tâm đặc biệt hơn. Phát triển ngôn ngữ là cách ngắn nhất để giúp trẻ hòa nhập với cộng đồng, giao tiếp và chia sẻ để gắn kết với mọi người. Bằng ngôn ngữ, bạn sẽ thể hiện được tình cảm, sự quan tâm, yêu mến với trẻ. Phải dành nhiều thời gian hơn để trò chuyện với trẻ, đừng nản lòng nếu trẻ chưa hào hứng nói chuyện. Kiên trì trò chuyện, chơi cùng trẻ, đọc những vần thơ giàu tình cảm dịu dàng, truyện tranh dần dần trẻ sẽ chú ý và sẽ nói chuyện với bạn. Khi trẻ sử dụng được ngôn ngữ, tức là trẻ đã thoát khỏi cái tôi cô đơn yếu đuối, tự kỉ để đến với thế giới rực rỡ, tươi vui của mọi người. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Kết quả sau khi áp dụng các biện pháp ở trên để để tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo qua hoạt động giáo dục. So sánh đối chứng đầu năm học 2018 2019 có sự tham gia chỉ đạo và kiểm tra của ban giám hiệu nhà trường đánh giá chất lượng trẻ và các kỹ năng nhận thức về tiếng Việt của trẻ với tổng số trẻ là 20. Kết quả thu được như sau: STT Tổn g số trẻ Nội dung khảo sát Tốt SL 10 8 4 % 50 40 20 Mức độ nhận thức Khá TB SL % SL % 7 35 3 15 6 30 5 25 7 35 7 35 Yếu SL 0 1 2 % 1 Kỹ năng nghe 0 2 Kỹ năng nói 5 3 Kỹ năng tiền đọc 1 20 0 4 Kỹ năng tiền viết 4 20 6 30 8 40 2 1 0 5 Nhận dạng các chữ cái 10 50 5 25 4 20 1 5 6 Tập tô 10 50 7 35 3 15 0 0 7 Tập tồ các nét chữ 8 40 7 35 4 20 1 5 8 Sao chép một số kí 5 25 10 50 3 15 2 1 hiệu 0 Qua việc khảo sát ứng dụng, đối chứng, tôi nhận thấy không khí của lớp học có sự khác nhau đáng kể. Các cháu tham gia vào hoạt động nói chung và việc tăng cường tiếng Việt nói riêng thực sự sôi nổi, hào hứng. Trẻ luôn bị lôi 18 cuốn vào giờ học, vốn dĩ bị coi là khó khăn và cứng nhắc thì nay đã hoàn toàn tự nguyện và hứng thú. Nhận thức của các cháu đã có nhiều khởi sắc, tiến bộ rõ rệt, về kĩ năng tiền viết đã giảm từ 50 % xuống còn 10%, tập tô các nét chữ số lượng yếu, kém không còn, tiếp đến kĩ năng tiền đọc, tiền viết con 2 cháu chiếm tỷ lệ 10 % và sao chép một số kí hiệu con 2 cháu chiếm tỷ lệ 10%. Để đạt được kết quả trên chúng tôi nhận thức rằng: Phải có phương pháp dạy học cho phù hợp với nội dung chương trình mới, giáo viên luôn ý thức được điều đó. Khi giảng bài giáo viên luôn chủ động ngay từ khâu soạn giáo án, thực hành trên lớp giảng dạy và cả khi vận dụng thực hành. Điều này đòi hỏi giáo viên phải đầu tư công sức hơn trong khi soạn, khi nắm bắt và xử lý tình huống giao tiếp của trẻ. Thời gian học hạn chế nhưng với nội dung kiến thức khá rộng, vốn từ về tiếng Việt của trẻ khác khác biệt và sự nhận thức của trẻ không đồng đều là sự khó khăn đặt ra cho giáo viên khi đứng lớp phải thay đổi nhận thức trong việc tìm phương pháp truyền tải kiến thức cho trẻ phù hợp. Ngoài việc đưa ra những kiến thức cơ bản trong chương trình, giáo viên cần phải cho trẻ tìm hiểu những tài liệu bên ngoài, nảy sinh từ cuộc sống hàng ngày hoặc qua thực tế của trẻ đã làm sinh động cho giờ học. Mặt khác, giúp các em có ý thức khai thác kiến thức đã học và giải quyết các tình huống của cuộc sống cho cuộc giao tiếp đạt hiệu quả. Tiếng Việt trong việc vận dụng phương pháp dạy học mới, giáo viên luôn chủ động và ý thức được vai trò chủ động trong việc tiếp thu tri thức mới. Trẻ bị cuốn vào tình huống và với tư cách là một người trong cuộc, phải tham gia tháo gỡ, giải đáp những tình huống ấy cho trẻ một cách thỏa đáng nhất. Giáo viên đóng vai trò là người dẫn dắt trẻ, tìm hiểu bài thông qua hoạt động giao tiếp, thực hành lý thuyết đó vào vận dụng nó trong cuộc sống. 3. KẾT LUẬN 3.1. Kết luận Để dạy được tiếng Việt mang lại hiệu quả cao đối với trẻ vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn như trường mầm non Điền Thượng không phải là một điều đơn giản bởi vốn dĩ việc tăng cường tiếng Việt lâu nay rất công thức và khô khan. Chính vì vậy nó đòi hỏi người giáo viên trong giảng dạy luôn luôn có những cái nhìn bao quát, tổng thể về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy có sự phối kết hợp với gia đình trẻ. Để tăng cường tiếng Việt cho trẻ, Bản thân tôi chuẩn bị rất kĩ càng với 3 yếu tố rất quan trọng và tuân thủ các biện pháp: - Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo thông qua việc xây dựng nội dung chương trình, kế hoạch của giáo viên - Tăng cường đổi mới việc vận dụng phương pháp giáo dục trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non - Phối hợp với phụ huynh có ý thức tạo một môi trường thuận lợi có thể giúp trẻ rất nhiều trong việc phát triển, sử dụng ngôn ngữ Khi soạn và dạy giáo viên không nên coi nội dung từng bài học là bất biến mà cứng nhắc tuân theo chương trình một cách cứng nhắc mà trái lại, cần có sự năng động, sáng tạo, biết cách điều chỉnh, bố trí lại các hoạt động tăng cường 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan