Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm tron...

Tài liệu Skkn một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học trung học cơ sở

.DOC
32
374
67

Mô tả:

SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong các môn học của chương trình trung học cơ sở thì Hóa học là môn học được học sinh tiếp cận muộn hơn so với các môn học khác, phải tới lớp 8 học sinh mới được học môn hóa học. Trong khi đó các môn học như Toán và Tiếng Việt đã có từ bậc tiểu học, được học sinh được làm quen từ trước nên việc học tập sẽ có phần thuận lợi hơn, nội dung kiến thức được dàn trải đều trong suốt cả cấp học. Đối với môn Hóa học, do được tiếp cận muộn nên việc nghiên cứu, học tập của học sinh không được thuận lợi bằng các môn học khác. Để học sinh làm quen với cách học bộ môn hóa học, giáo viên cần phải sử dụng đến các phương tiện trực quan đặc trưng của bộ môn hóa học - đó là hệ thống các thí nghiệm hóa học. Các thí nghiệm hóa học chính là điểm thuận lợi để giáo viên có thể kết nối bản chất của sự vật, hiện tượng với kiến thức lí thuyết trong chương trình một cách hiệu quả mà không hề khô khan. Bằng cách tiến hành các thí nghiệm trực quan hoặc cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm, giáo viên giúp học sinh tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng bằng cách quan sát trực tiếp. Nhờ đó, học sinh sẽ dễ hiểu bài, nhớ kiến thức, từ đó vận dụng được kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Qua thực tế giảng dạy môn Hóa học chương trình trung học cơ sở, bản thân tôi nhận thấy hệ thống thí nghiệm mà bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn tuy có làm rõ trọng tâm bài học nhưng chưa thực sự hấp dẫn để kích thích được hứng thú của người học. Hưởng ứng cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn học sinh khám phá kiến thức. Tuy nhiên, hệ thống thí nghiệm nếu như xây dựng rập khuôn theo sách giáo khoa có thể chưa tạo được điểm nhấn, chưa có sức thu hút học sinh dù tiến hành nhiều thí nghiệm. Vì vậy, tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu, thay thế một số thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm sinh động, hấp dẫn, kích thích tính tò mò, sáng tạo, khám phá kiến thức của học sinh mà vẫn đảm bảo nội dung bài học. Trên cơ sở Sáng kiến kinh nghiệm của bản thân từ năm học 2015-2016 cùng với sự nghiên cứu, đổi mới và sáng tạo trong quá trình dạy học nhằm giúp học sinh học tập bộ môn hóa học hứng thú hơn, tăng khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống, nâng cao chất lượng dạy học hóa học; tôi đề xuất đề tài: “Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm ở chương trình hóa học Trung học cơ sở”. Mong rằng đề tài sẽ giúp học sinh học tập bộ môn Hóa học một cách hứng thú, thêm yêu mến môn học này hơn. Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 1 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài a) Mục tiêu: Mục tiêu của đề tài là xây dựng kĩ năng thực hành thí nghiệm, tạo hứng thú học tập và hình thành cho học sinh khả năng giải quyết vấn đề một cách khoa học, sáng tạo, đưa hóa học và thực tế cuộc sống lại gần nhau hơn, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học môn Hóa học trong trường Trung học cơ sở. b) Nhiệm vụ: Giáo viên lựa chọn, thay thế, thêm bớt các thí nghiệm trong mỗi bài dạy sau đó tổ chức cho học sinh tiến hành theo từng nhóm nhỏ (nếu có nhiều thí nghiệm thể hiện tính chất của chất thì nên cho học sinh làm liên tiếp, ghi hiện tượng quan sát vào bảng sau đó nêu các tính chất của chất rồi viết các phương trình hóa học để tiết kiệm thời gian). Giáo viên tạo điểm nhấn khi thực hiện các thí nghiệm bằng cách thay thế một số thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm vui, hấp dẫn, tương đương mà vẫn đảm bảo về mặt nội dung kiến thức. Những thí nghiệm thay thế phải tạo được sự hứng thú vượt trội so với thí nghiệm ban đầu. Để học sinh có thể nhớ tốt kiến thức, giáo viên nên để cho các em tự mình chuẩn bị dụng cụ, hóa chất gần gũi với cuộc sống (như giáo viên đã định hướng trong đề tài); sau đó là hãy để các em tự là thí nghiệm theo nhóm vì chỉ có tự làm thí nghiệm học sinh mới nâng cao được kĩ năng tiến hành thí nghiệm, tăng cường khả năng quan sát hiện tượng thí nghiệm, phát hiện ra những quy luật bản chất và từ đó học sinh sẽ tìm thấy vấn đề cần giải quyết. Để tạo động lực khám phá kiến thức, giáo viên cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở, giúp học sinh tự mình chiếm lĩnh tri thức Có như vậy, các em mới dần làm quen được phương pháp làm việc một cách khoa học, rèn luyện tính cẩn thận, tư duy suy luận logic và quan trọng hơn là biết phối hợp với các thành viên trong nhóm để giải quyết nhiệm vụ học tập, tăng cường tình đoàn kết. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở. 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu Khuôn khổ nghiên cứu: Các bài dạy có sử dụng thí nghiệm hóa học trong chương trình Trung học cơ sở. Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 8,9 trường THCS Dur Kmăn. Thời gian: Năm học 2015 - 2016 Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 2 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở 5. Phương pháp nghiên cứu a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: - Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu: Qua việc nghiên cứu các tài liệu bồi dưỡng giáo viên; tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng; sách giáo khoa, sách giáo viên ; một số thiết kế bài dạy và tài liệu khác có liên quan (phương pháp giảng dạy bộ môn hóa học) … đã giúp tôi định hướng được cách thức, phương pháp tối ưu trong giảng dạy bộ môn Hóa học. Đặc biệt, một nguồn tài liệu vô cùng phong phú, đa dạng về thể loại và hình thức – đó là mạng Internet. Qua việc tìm hiểu các thí nghiệm ở trang điện tử này, tôi đã thu thập được rất nhiều thí nghiệm vui, hấp dẫn (pháo hoa, làm sữa chua…). b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp điều tra: giáo viên điều tra về việc học bộ môn hóa học như: niềm yêu thích bộ môn, được làm thí nghiệm, thích làm thí nghiệm hóa học, kết quả học tập bộ môn hóa học, đã hiểu biết/ ứng dụng thực tế kiến thức hóa học vào thực tế cuộc sống. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: qua soạn giáo án và giảng dạy trong thực tế, dự giờ, rút kinh nghiệm từ các tiết dạy của đồng nghiệp cũng như thái độ học tập, kết quả học tập của học sinh, từ đó tổng kết kinh nghiệm giáo dục. - Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động: thường xuyên trò chuyện với học sinh để biết được tâm tư nguyện vọng về cách thức học tập của các em, về những phương pháp giáo viên giảng dạy có tạo chuyển biến gì về kiến thức, nhận thức, hành động của các em… - Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm: Giáo viên yêu cầu học sinh tự làm thí nghiệm dựa vào các hóa chất, dụng cụ mà giáo viên/ tự bản thân các em chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên. Kết hợp với thí nghiệm mà giáo viên đưa vào là hệ thông câu hỏi gợi mở kiến thức. Giáo viên đo lường hiệu quả của thí nghiệm đó mang lại có khác gì so với thí nghiệm như trong sách giáo khoa yêu cầu tiến hành hay không. Từ đó, giáo viên rút ra kinh nghiệm cho bản thân. c) Phương pháp thống kê toán học: với mục đích đầu tiên là khảo sát định lượng về sự yêu thích bộ môn hóa học trong hệ thống các môn học ở cấp Trung học cơ sở; thứ hai là tính toán tỉ lệ phần trăm chất lượng học bộ môn hóa học của học sinh; thứ ba là xem xét mức độ vận dụng kiến thức bài học vào thực tế cuộc sống. PHẦN II: NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Theo nghị quyết 29 NQ/TW Trung ương 8 khóa XI: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 3 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Giáo viên khai thác thiết bị dạy học (trong đó có công nghệ thông tin) tăng cường thí nghiệm, thực hành trực quan (kênh chữ, kênh hình) để nâng cao hiệu quả dạy học và gắn bài giảng sát với thực tế của cuộc sống. Đã có nhiều phương pháp dạy học tích cực đã được áp dụng, triển khai và mang lại kết quả hết sức khả quan: Phương pháp dạy học nhóm, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học theo dự án, phương pháp bàn tay nặn bột… Trường tôi công tác là 1 trong 12 trường trên cả nước thí điểm mô hình Trường học mới. Sự khác biệt của mô hình Trường học mới so với mô hình giáo dục đại trà chủ yếu nằm ở 2 điểm quan trọng: Thay đổi cách thức tiếp cận tài liệu của học sinh và phương pháp tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục của giáo viên. Qua gần 3 năm dạy học theo mô hình này đã chứng minh việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực mang lại nhiều kết quả tốt đẹp. Trong đó, học sinh đóng vai trò trung tâm của hoạt động dạy học còn giáo viên là người trực tiếp tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập. Do đó, phương pháp tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục của giáo viên gần như quyết định hoàn toàn đến năng lực, phẩm chất của học sinh. Nếu giáo viên biết vận dụng linh hoạt, khéo léo các phương pháp cũng như phương tiện dạy học thì kết quả dạy học sẽ từng bước được nâng cao. Qua việc nghiên cứu, áp dụng, khảo sát thực tiễn tôi nhận thấy đối với môn đặc thù như Hóa học, nếu giáo viên khai thác được lợi thế của bộ môn (thí nghiệm, thực hành) sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực: tạo hứng thú, rèn luyện khả năng quan sát, tính cẩn thận, kĩ năng làm thí nghiệm, tư duy khoa học, gắn kiến thức bài học vào thực tế cuộc sống. Đề tài mà bản thân tôi muốn đề xuất phần nào cũng đã đáp ứng được yêu cầu trên. Trước mắt là giúp học sinh nắm được nội dung trọng tâm của bài học, tạo hứng thú học tập. Sau nữa là tạo cho học sinh tâm thế chủ động khám phá kiến thức mới. Đồng thời, hình thành tư duy khoa học, năng lực giải quyết vấn đề, các kĩ năng làm việc nhóm, góp phần hình thành phẩm chất và tăng khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống cho các em học sinh. a. Vai trò quan trọng của thí nghiệm trong dạy học hóa học Thí nghiệm có vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học và quan trọng đặc biệt trong dạy học hóa học Thí nghiệm có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nhận thức của con người về thế giới. Thí nghiệm là một phần của hiện thực khách quan được thực hiện hoặc tái tạo lại trong những điều kiện đặc biệt, trong đó con người có thể chủ động điều khiển các yếu tố tác động vào quá trình xảy ra để Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 4 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở phục vụ cho các muc đích nhất định. Thí nghiệm giúp con người gạt bỏ những cái phụ, không bản chất để tìm ra cái bản chất của sự vật hiện tượng. Thí nghiệm giúp con người phát hiện ra các quy luật còn ẩn náu trong thế giới tự nhiên. Mặt khác, nó còn giúp con người kiểm chứng, làm sáng tỏ những giả thuyết khoa học. Đúng như Ăng ghen đã nói: “Trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, cũng như lịch sử, phải xuất phát từ những sự thật đã có, từ những hình thái hiện thực khác nhau của vật chất; cho nên trong khoa học lí luận về tự nhiên, chúng ta không thể cấu tạo nên mối liên hệ để ghép chúng vào sự thật, mà phải từ những sự thật đó, phát hiện ra mối liên hệ ấy, rồi phải hết sức chứng minh những mối liên hệ ấy bằng thực nghiệm”. Thí nghiệm là nền tảng của việc dạy học hóa học. Nó giúp học sinh chuyển từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng và ngược lại. Khi làm thí nghiệm, học sinh sẽ làm quen với các chất hóa học và trưc tiếp nắm bắt các tính chất lí, hóa của chúng. Từ đó các em hiểu được các quá trình hóa học, nắm vững các khái niệm, định luật của hóa học. Nếu không có thí nghiệm thì: + Giáo viên sẽ tốn nhiều thời gian để giảng giải nhưng vẫn không rõ và không hết ý vì không phải mọi thứ đều có thể diễn đạt trọn vẹn bằng lời. Lời nói thì trừu tượng còn các thí nghiệm thì cụ thể. + Học sinh tiếp thu kiến thức thiếu chính xác và vững chắc. Các em sẽ khó hiểu bài vì không có những biểu tượng rõ ràng, cụ thể về các chất, các hiện tượng hóa học. Ví dụ: Phản ứng tạo kết tủa đồng (II) hiđroxit dạng keo, màu xanh. Nếu không có thí nghiệm thì học sinh không thể hình dung được dạng keo như thế nào. Màu xanh thì có nhiều màu xanh khác nhau. + Học sinh sẽ chóng quên khi không hiểu bài, không có ấn tượng sâu sắc về các hình ảnh cụ thể... Thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và thực tế. Nhiều thí nghiệm rất gần gũi với đời sống, với các quy trình công nghệ. Vì vậy, thí nghiệm giúp học sinh vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống. Thí nghiệm giúp học sinh rèn luyên các kĩ năng thực hành (các thao tác và cách thức tiến hành thí nghiệm), hình thành những đức tính của người lao động mới: cẩn thận, khoa học, kỉ luật. Thí nghiệm giúp học sinh phát triển tư duy, hình thành thế giới quan duy vật biện chứng. Khi tự tay làm thí nghiệm hoặc được tận mắt nhìn thấy những hiện tượng hóa học xảy ra, học sinh sẽ tin tưởng vào kiến thức đã học và cũng thêm tin tưởng vào chính bản thân mình. Khi làm thí nghiệm rất dễ gây húng thú học tập. Học sinh không thể yêu thích bộ môn và không thể say mê khoa học với những bài giảng lí thuyết khô khan. Thí nghiệm cùng với những hiện tượng thí nghiệm kì lạ, hấp dẫn chính là thuận lợi riêng của bộ môn hóa học so với các bộ môn khoa học khác. Nếu giáo Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 5 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở viên biết tận dụng, phát triển một cách sáng tạo, linh hoạt trong quá trình dạy học thì kết quả của hoạt động dạy học hóa học trong trường phổ thông chắc chắn sẽ được nâng cao. b. Các nguyên tắc xây dựng hệ thống thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở Muốn các thí nghiệm đi vào các bài dạy hóa học ở chương trình trung học cơ sở một cách hiệu quả thì phải xây dựng hệ thống thí nghiệm theo các nguyên tắc sau: Thí nghiệm phải gắn với nội dung bài dạy, tốt nhất là chọn được các thí nghiệm giúp học sinh tiếp thu được các kiến thức cốt lõi, trọng tâm. Thí nghiệm phải trực quan, hiện tượng rõ ràng, có tính thuyết phục Thí nghiệm phải hấp dẫn, kích thích hứng thú với người dạy và người học Thí nghiệm dễ kiếm hóa chất, đơn giản, dễ làm Việc thực hiện thí nghiệm không được mất quá nhiều thời gian, làm ảnh hưởng đến nội dung bài dạy Thí nghiệm phải an toàn, càng ít độc hại càng tốt. Nên thay các thí nghiệm độc bằng các thí nghiệm không độc hoặc ít độc hại hơn. Số lượng thí nghiệm trong 1 bài dạy cần hợp lí, không nên quá nhiều để học sinh có thời gian rèn các kĩ năng khác 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Trước khi áp dụng đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của thí nghiệm, các tiết thực hành môn hóa học; và các hình thức tiếp xúc với thí nghiệm của học sinh ở trường Trung học cơ sở Dur Kmăn. Kết quả nhận được như sau: Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của thí nghiệm hóa học KHÔNG QUAN TRỌNG 13,2% KHÔNG RÕ 27,4% ÍT QUAN TRỌNG 29,2% QUAN TRỌNG RẤT QUAN TRỌNG 25,5% 4,7% Biểu đồ 1: Nhận thức của học sinh trường Trung học cơ sở Dur Kmăn về tầm quan trọng của thí nghiệm trong tiết học hóa học Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 6 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở CÁC HÌNH THỨC TIẾP XÚC THÍ NGHIỆM HÓA HỌC CỦA HỌC SINH Chưa bao giờ làm thí nghiệm,chỉ xem các bạn làm 30,6% Trực tiếp làm thí nghiệm 27,8% Chỉ thầy cô làm thí nghiệm, học sinh ngồi quan sát Thầy cô chiếu thí nghiệm trên màn chiếu Thầy cô chỉ dạy lí thuyết, không làm thí nghiệm 42,5% 9,3% 32,4% BBiểu đồ 2: Các hình thức tiếp xúc thí nghiệm của học sinh trường Trung học cơ sở Dur Kmăn trong các tiết học có sử dụng thí nghiệm hóa học Một số nguyên nhân của tình trạng trên: Thứ nhất: Do chương trình sách giáo khoa Hệ thống thí nghiệm được xây dựng trong sách giáo khoa môn Hóa học 8, 9 hiện hành cơ bản đã đáp ứng được phần nào các yêu cầu làm rõ trọng tâm bài học, hình thành được 1 số kĩ năng làm thí nghiệm đơn giản; khả năng quan sát, suy luận, tư duy logic trong quá trình học tập hóa học ở các bài dạy có sử dụng thí nghiệm. Tuy nhiên, các thí nghiệm trong sách giáo khoa còn mang nặng tính rập khuôn, máy móc, chưa kích thích được niềm đam mê nghiên cứu học tập, tính sáng tạo của học sinh. Thứ hai: Do nhận thức của học sinh Đa số học sinh trong địa bàn trường tôi công tác có hoàn cảnh khó khăn, nhà xa trường, bố mẹ chưa quan tâm đúng mức, đầu vào thấp, nhận thức chậm. Ngoài ra, nhiều học sinh lười học bài, ham chơi, học tập chưa chuyên cần làm cho hiệu quả dạy học vẫn ở mức thấp. Rất nhiều học sinh vẫn hào hứng khi được làm thí nghiệm nhưng lại lười suy nghĩ, học tập thụ động, đối phó,chưa mạnh dạn, không chịu khó tìm tòi, ôn luyện nên gây ra nhiều khó khăn cho giáo viên đứng lớp. Theo khảo sát của bản thân trước khi áp dụng đề tài: có đến 60% học sinh không thích các tiết học hóa học, hơn 70% học sinh không muốn làm thí nghiệm. Nguyên nhân, qua tìm hiểu là do các em yếu kĩ năng thực hành, sợ hóa chất độc hại, cháy nổ và chưa tìm thấy niềm vui, sự cần thiết phải học bộ môn Hóa học. Thứ ba: Do điều kiện cơ sở vật chất của trường Ở một số thí nghiệm, do một số hóa chất khó bảo quản (dung dịch AgNO3, CaC2, dung dịch Br2…), một số dụng cụ thí nghiệm đắt tiền, dễ hỏng Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 7 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở (thiết bị điện phân nước, cân Robecvan…) nên giáo viên không làm/ cho học sinh làm thí nghiệm được mà phải dạy chay hoặc chiếu thí nghiệm ảo trên màn hình chiếu. Điều này đã làm giảm khả năng thuyết phục học sinh tin tưởng vào khoa học, làm giamt hứng thú học tập của các em Thứ tư: Do thời lượng của tiết học Vì thời lượng của một tiết học tương đối ít (bao gồm ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, sửa bài tập, dạy bài mới, củng cố, dặn dò, giải quyết một số tình huống sư phạm- nếu có) nên làm giáo viên ngại chuẩn bị thí nghiệm cho học sinh làm. Nếu để học sinh tự mình tiến hành thí nghiệm thì có thể giáo viên không dạy hết bài (vì học sinh làm thí nghiệm chậm). Thứ năm: Do giáo viên dạy bộ môn Hóa học Nguyên nhân chủ quan đến từ giáo viên: một số giáo viên chưa chịu khó đổi mới phương pháp dạy học, thường xuyên tránh các tiết học thực hành, chưa đầu tư nhiều vào bài dạy cũng như việc chuẩn bị thí nghiệm, làm thí nghiệm trên lớp làm giảm hứng thú học tập của học sinh và chất lượng dạy học, giáo dục. Một nguyên nhân nữa xuất phát từ giáo viên, đó là chưa thực sự quan tâm đến các em học sinh: chưa đi sâu, đi sát để tháo gỡ khó khăn cho các em; chưa kịp thời động viên, khích lệ sự cố gắng, tiến bộ dù là nhỏ nhất của các em; chưa chịu khó tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các em đối với bộ môn mình đang trực tiếp giảng dạy. Về các tiết học thực hành môn hóa học, thực tế giáo viên cũng chưa thực sự coi trọng vì đa số các tiết học này chỉ nhắc lại kiến thức đã biết. Nhiều khi học sinh không cần tiến hành thí nghiệm mà vẫn làm tốt bài tường trình. Ở các tiết học có sử dụng thí nghiệm, chủ yếu là giáo viên dùng thí nghiệm biểu diễn chứ không để học sinh tự làm vì sợ không đủ thời gian dạy hết kiến thức trong bài, học sinh ý thức chưa tốt nên không làm theo hướng dẫn của giáo viên, sợ học sinh làm vỡ dụng cụ thí nghiệm… Với yêu cầu hiện nay của ngành giáo dục đòi hỏi học phải đi đôi với hành - tức là, sau khi nghiên cứu về một vấn đề nào đó, các em phải liên hệ được với thực tế để có thể giải quyết các mâu thuẫn xảy ra trong cuộc sống. Đây là nhiệm vụ khó khăn cũng là quan trọng hàng đầu của giáo viên. Nhiều điều tra nghiên cứu về tình hình của học sinh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cho thấy: học sinh Việt Nam nói chung khá giỏi về lí thuyết nhưng chưa áp dụng được vào thực tế cuộc sống. Điều này đã làm cho tôi trăn trở, là động lực để bản thân tìm tòi, thay đổi phương pháp dạy học hướng đến mục tiêu lấy học sinh làm trung tâm, tăng khả năng áp dụng lí thuyết đã học vào cuộc sống. Trước đây, bản thân tôi đã cố gắng để học sinh được trực tiếp làm thí nghiệm trong các tiết học. Tuy nhiên, vì chưa tạo được điểm nhấn cho nên dù học sinh làm thí nghiệm nhưng mức độ nhớ kiến thức chưa được tốt, chưa có sự hào hứng, bị lôi cuốn vào bài dạy. Những học sinh nhớ kiến thức thì lại không Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 8 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở áp dụng được vào thực tế cuộc sống. Đây là điều làm bản thân tôi luôn trăn trở, tìm cách khắc phục. Do vậy, bản thân tôi đã mạnh dạn thay đổi phương pháp, tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng đề tài này vào việc dạy học ở trường. Việc thay thế, thêm bớt một số thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm vui, đẹp mắt, hấp dẫn sẽ làm cho các em háo hức chờ đợi đến tiết học môn hóa, hầu hết các em học sinh bị lôi cuốn vào bài giảng, tạo động lực để các em khám phá kiến thức mới. Mặt khác, nếu giáo viên thay thế một số hóa chất, dụng cụ ở các thí nghiệm trong sách bằng những hóa chất gần gũi với cuộc sống sẽ làm cho học sinh thấy được hóa học thật gần gũi với cuộc sống, thêm yêu mến môn hóa học và tăng khả năng vận dụng của bộ môn hóa học vào thực tế cuộc sống. Để làm được điều này đòi hỏi bản thân người giáo viên phải luôn chủ động tìm tòi qua sách vở, qua thực tế cuộc sống và không ngại khó để đưa các thí nghiệm đó vào bài dạy. Mặt khác, giáo viên đứng lớp luôn phải là người yêu nghề, trăn trở với chất lượng giáo dục, mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học và đặc biệt là phải gần gũi, quan tâm nhiều hơn đến các đối tượng học sinh. Để áp dụng đề tài này vào bài dạy đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian, công sức để chuẩn bị cho học sinh (vì giáo viên phải thay thế một số dụng cụ, hóa chất trong sách bằng các hóa chất, dụng cụ khác). Thực tế có nhiều giáo viên rất ngại làm thí nghiệm cũng như chuẩn bị thí nghiệm cho học sinh chứ chưa nói đến việc tự mình đi tìm kiếm thí nghiệm, dụng cụ, thiết bị để thay thế cho các thí nghiệm trong sách giáo khoa. Để khắc phục khó khăn nêu trên, chỉ cần đội ngũ nhà giáo có tâm huyết, tất cả vì học sinh thân yêu, niềm vui của học sinh là động lực phấn đấu của giáo viên thì chắc chắn sẽ đạt được kết quả như mong đợi. Thứ nữa là khi chuẩn bị các thí nghiệm cũng như đưa các thí nghiệm trên vào bài học nếu giáo viên không chuẩn bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi mở để các em học sinh khám phá kiến thức mới một cách chu đáo thì thí nghiệm làm cũng chỉ để các em xem cho vui mắt chứ không làm cho học sinh hiểu bài, nhớ bài và vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Việc áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm trên sẽ không mang lại hiệu quả nếu các em học sinh không mạnh dạn, học tập thụ động, lười hoạt động (không làm thí nghiệm mà chỉ ngồi xem cho vui, không suy nghĩ dựa trên các câu hỏi gợi mở của giáo viên). Mặt khác, nếu bản thân giáo viên dạy học rập khuôn theo phương pháp truyền thụ, không chịu khó đổi mới, tìm tòi, sáng tạo, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực thì chắc chắn sẽ rất khó đạt hiệu quả. Nhiều giáo viên chưa thực sự gần gũi, quan tâm đến các em học sinh, nhiều khi các em chưa hiểu bài nhưng giáo viên không tìm cách giúp đỡ, gợi mở sẽ khiến các em sợ sai, không chủ động tham gia vào bài học. Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 9 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở Về phía học sinh nói chung và học sinh trường Trung học cơ sở Dur Kmăn nói riêng, đa số các em chưa có sự đầu tư nhiều vào học tập, đặc biệt là môn hóa học nên giáo viên có tiến hành nhiều thí nghiệm vui mắt, hấp dẫn đến đâu mà ở học sinh không có sự ôn luyện các kiến thức cũ thì cũng không thể nhớ tốt các kiến thức đó được. Định hướng cho sự thay đổi đó là phải làm sao để các em hiểu bài, nhớ kiến thức và áp dụng được kiến thức trong đã học vào thực tế cuộc sống. Để làm được điều này, tôi đa đưa ra giải pháp là thêm, bớt, thay thế một số thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm tương đương về mặt kiến thức nhưng gần gũi với cuộc sống. Mặt khác, để tăng hiệu quả hoạt động của học sinh trong giờ học, các thí nghiệm hấp dẫn, đẹp mắt được tiến hành. Ngoài ra, để học sinh hiểu bài thì giáo viên phải xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với mức độ nhận thức của các em học sinh. Phải quan tâm sát sao đến từng đối tượng học sinh, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc của các em để các em mạnh dạn, tự tin trong học tập và cuộc sống. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a) Mục tiêu của giải pháp Nhằm tạo cho học sinh có bầu không khí học tập sôi nổi, hứng thú, tự tin tiếp thu và khám phá kiến thức một cách chủ động. Học sinh hiểu và ghi nhớ kiến thức tốt hơn. Từ đó, hình thành cho học sinh kĩ năng thực hành, nhận biết, phân tích, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, khoa học. b) Nội dung và cách thức thực hiện của giải pháp Giáo viên chủ động tìm tòi, thay thế một số thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm vui, hấp dẫn, tạo động lực khám phá kiến thức mới mà vẫn đảm bảo nội dung bài học. Tiếp đến là thay đổi cách tổ chức hoạt động học: học sinh sẽ hoạt động theo nhóm, tự làm thí nghiệm và rút ra kiến thức dưới sự điều khiển của giáo viên. + Thí nghiệm phải gắn với nội dung bài dạy, tốt nhất là chọn được các thí nghiệm giúp học sinh tiếp thu được các kiến thức cốt lõi, trọng tâm Các thí nghiệm hóa học dù là ở dạng nào thì cũng nhằm giúp học sinh tiếp thu tốt nội dung bài học và nắm vững hệ thống các kiến thức hóa học cần thiết trong chương trình phổ thông. Mặt khác, để việc tiếp thu kiến thức của học sinh có hiệu quả, không thể thí nghiệm một cách tràn lan mà phải có trọng tâm, trọng điểm. Khi lựa chọn các thí nghiệm để đưa vào bài dạy, tốt nhất nên chọn các thí nghiệm giúp học sinh tiếp thu các kiến thức cốt lõi, trọng tâm. Số lượng các thí nghiệm trong một bài cũng không nên quá nhiều, có thể từ 3 đến 5 thí nghiệm là hợp lí. + Thí nghiệm phải trực quan, hiện tượng rõ ràng, có tính thuyết phục Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 10 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở Sử dụng thí nghiệm trong dạy học chính là một hình thức dạy học theo phương pháp trực quan. Vì vậy, thí nghiệm phải dễ quan sát, hiện tượng rõ ràng, có tính thuyết phục. Chúng ta phải lựa chọn các phản ứng, các quá trình hóa học có kèm theo hiện tượng quan sát được dễ dàng bằng mắt thường. Đó là các phản ứng: - Có sự biến đổi màu sắc Có tạo chất kết tủa, chất khí bay lên khỏi dung dịch Có sự tỏa nhiệt hay thu nhiệt Có hiện tượng cháy, nổ hay phát quang... Ở bài 13: Phản ứng hóa học (hóa 8): Khi giáo viên dạy phần III (Khi nào có phản ứng hóa học xảy ra) để chứng minh cho học sinh biết có một số phản ứng chỉ xảy ra khi có mặt chất xúc tác thì giáo viên nên cho học sinh tiến hành thí nghiệm giữa nhôm với iot: Nghiền nhỏ iot tinh thể rồi trộn với bột nhôm theo tỉ lệ thể tích 1:3 (1 muỗng thủy tinh nhỏ iot với 3 muỗng nhỏ bột nhôm). Để yên thì phản ứng không xảy ra nhưng nếu nhỏ khoảng 2 giọt nước vào thì hỗn hợp dần dần bốc cháy có khói màu tím (của hơi iot), màu vàng (của AlI 3) và màu trắng của hơi nước. Thí nghiệm nhôm tác dụng với iot (phản ứng chỉ xảy ra khi có mặt chất xúc tác là nước) + Thí nghiệm phải hấp dẫn, kích thích hứng thú người dạy và người học Một trong những nguyên nhân chính làm cho học sinh chưa yêu thích bộ môn hóa học là do thí nghiệm không hấp dẫn, không tạo được ham muốn hoạt động. Do đó, thí nghiệm không những chỉ cần đem lại hứng thú cho học sinh mà còn phải mang lại hứng thú cho người làm thí nghiệm. Thông thường thì những thí nghiệm làm cho học sinh hứng thú cũng sẽ gây cho giáo viên hứng thú. Khi nhìn học sinh của mình chăm chú dõi theo các Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 11 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở hiện tượng phản ứng xảy ra, thấy các em hoan hỉ cũng đủ làm cho giáo viên vui rồi. Để xóa dạy chay, một trong những phương pháp quan trọng là phải tìm tòi, thay thế, lựa chọn các thí nghiệm hấp dẫn, gần gũi với cuộc sống để đưa vào bài dạy. Ví dụ: ở bài Nước (hóa 8), khi giáo viên làm cho học sinh xem thí nghiệm Na tác dụng với nước thì nên thiết kế để cho thí nghiệm hấp dẫn hơn bằng cách thay thế bằng thí nghiệm“ Đốt cháy tàu chiến địch” như sau: Dùng 1 tờ giấy A4 để gấp tàu, chọc 1 lỗ thủng dưới đáy, đặt một mẩu Na vào tàu rồi đậy bên trên bằng vài mảnh giấy dễ bắt lửa. Thả tàu vào chậu nước có sẵn vài giọt dd phenolphtalein. Khi Natri gặp nước, tàu sẽ bùng cháy, trên mặt nước xuất hiện vết máu giặc loang nhuộm hồng cả khúc sông. Có một lưu ý khi tiến hành thí nghiệm: Vì Natri được bảo quản trong dầu hóa nên phía ngoài sẽ được bao phủ một lớp vỏ cứng, nếu không gọt sạch lớp vỏ cứng này trước khi cho vào nước, viên Natri sẽ gây nổ, bắn ra mang theo dung dịch xút gây bỏng, cháy áo quần. Nếu giáo viên tiến hành được thí nghiệm như đề xuất ở trên vừa tạo sự hứng thú cho học sinh, vừa có tác dụng giáo dục lòng yêu nước thông qua bài học. Để học sinh dự đoán được trong sản phẩm sinh ra có khí H 2, giáo viên phải hướng cho học sinh sử dụng thính giác để cảm nhận về phản ứng (nếu lắng nghe, các em sẽ nghe thấy âm thanh phát ra từ phản ứng- tiếng xì xì). Giáo viên nên gợi mở để củng cố tư duy logic cho học sinh: kết quả là sau phản ứng viên Natri (nhẹ hơn nước) tan trong nước; sự khác nhau giữa một chất nhẹ hơn nước tan trong nước tạo ra âm thanh xì xì và một chất nhẹ hơn nước khi tan trong nước không tạo ra âm thanh là ở chỗ nào?Học sinh sẽ tự suy luận để rút ra: trong sản phẩm của phản ứng có khí. Phản ứng “đốt cháy tàu chiến địch”: Natri tác dụng với nước có chứa dung dịch phenolphtalein Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 12 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở Hoặc ở bài Tính chất hóa học của muối (Hóa 9) giáo viên nên cho học sinh tiến hành thí nghiệm nhiệt phân muối KNO 3 bằng cách châm tàn đóm vào tờ giấy A4 có hình vẽ bằng dd KNO 3 (đã phơi khô). Giấy sẽ bị cháy nhanh, mạnh theo những chỗ có KNO3. Trước khi cho học sinh tiến hành thí nghiệm này, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kĩ tờ giấy (các em sẽ phát hiện ra các hình vẽ bằng những nét từ một chất rắn có màu trắng). Khi tiến hành thí nghiệm và quan sát hiện tượng, giáo viên đặt câu hỏi: Tại sao ở các vết màu trắng trên tờ giấy lại cháy nhanh hơn những chỗ khác và cháy theo những nét đã vẽ? Học sinh có thể dự đoán được bí mật ẩn chứa là từ chất đã vẽ lên giấy. Giáo viên có thể gợi ý tiếp: Khi châm tàn đóm vào giấy ở vị trí có chất này, các em đang thực hiện phản ứng gì? Học sinh sẽ trả lời theo 2 hướng: Đốt chất này trong oxi không khí hoặc nhiệt phân chất này. Giáo viên thông báo: ở thí nghiệm này, các em đang nhiệt phân muối KNO3 . Như vậy, để giấy cháy nhanh và chỉ lan đến vị trí có nét vẽ thì trong sản phẩm phản ứng phải có một chất khí thúc đẩy cho phản ứng cháy mạnh hơn. Các em hãy dự đoán chất khí này (Dựa vào công thức muối đem nhiệt phân, học sinh có thể dự đoán khí sinh ra là oxi) Phản ứng “vết lửa màu nhiệm”:phân hủy muối KNO3 được viết lên tờ giấy A4 (đã phơi khô) Ở bài Cacbon (hóa 9), phản ứng cháy của Cacbon có lẽ học sinh cũng đã gặp nhiều trong cuộc sống nhưng để tạo hứng thú học tập, giáo viên thay thế thí nghiệm đốt cacbon trong bình kín chứa khí oxi bằng thí nghiệm “Súng phun lửa”: Trộn bột than gỗ nghiền nhỏ với KMnO4 theo tỉ lệ 1: 1. Lấy vài muỗng hỗn hợp trên cho vào ống nghiệm khô, đun ống nghiệm trên ngọn lửa đèn cồn. Một lúc sau trong ống nghiệm bắn ra những tia lửa sáng rực như súng phun lửa. Vì học sinh đã học bài: Điều chế oxi- Phản ứng phân hủy ở lớp 8 nên có thể dễ dàng giải thích hiện tượng này (Khi đun nóng ống nghiệm trên ngọn lửa đèn cồn, KMnO4 bị phân hủy sinh ra khí oxi. Cacbon cháy trong oxi ở điều kiện đun nóng sẽ phản ứng rất mạnh tạo thành các tia lửa sáng rực bắn lên trong ống nghiệm trông rất đẹp mắt như súng phun lửa). Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 13 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở Phản ứng “súng phun lửa”: Cacbon tác dụng với oxi (do phân hủy muối KMnO4) Ví dụ như để mở đầu bài Axetilen (hóa 9), giáo viên đặt vấn đề: Em hãy kể tên một số chất dùng làm nhiên liệu? (học sinh sẽ trả lời: than, củi, giấy, vải, gas, xăng dầu, cồn...). Giáo viên hỏi tiếp: Theo em cục nước đá có cháy không? (100% học sinh trả lời là không). Sau đó, giáo viên thực hiện thí nghiệm “Đốt cháy nước đá”: Cho vài cục đất đèn CaC2 bằng hạt ngô vào một chén sứ rồi cho một cục nước đá bằng ngón chân cái. Đưa que đóm đang cháy vào chén sứ, lập tức có lửa xanh bùng lên. Học sinh thấy hiện tượng lạ nên chắc chắn bị thu hút vào bài học. Từ đó, giáo viên dễ dàng điều khiển hoạt động học tập của các em theo tiến trình các bước đã xây dựng trong giáo án. Phản ứng “đốt cháy nước đá”: Đốt cháy axetilen (sinh ra do CaC2 tác dụng với nước) Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 14 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở Ở bài 18 (hóa 9): Khi dạy tính chất nhôm tác dụng với oxi, giáo viên có thể làm cho học sinh xem thí nghiệm đẹp mắt như sau: Trộn nửa muỗng thủy tinh nhỏ bột nhôm với 1 muỗng thủy tinh KMnO 4 (gói trong tờ giấy, đặt trong bát sứ). Dùng bật lửa hoặc diêm châm vào cho tờ giấy cháy. Đứng cách xa thí nghiệm khoảng 1 mét để hóa chất không bắn vào người. Ta sẽ quan sát thấy bột nhôm cháy trông như pháo hoa, rất đẹp mắt. Tôi tin rằng, nếu thấy được hiện tượng thí nghiệm hấp dẫn như trên, học sinh sẽ háo hức, bị lôi cuốn vào nội dung bài học. Sẽ có động lực, ý chí, mong muốn giải thích hiện tượng. Chắc chắn hiệu quả bài dạy sẽ được nâng cao, học sinh sẽ nhớ kiến thức rất lâu và liên hệ được những hiện tượng các em thấy trong cuộc sống “Pháo hoa” (trong thành phần pháo hoa có bột nhôm). Hiện tượng pháo hoa: Phản ứng của bột nhôm với oxi (oxi sinh ra do phân hủy KMnO4) Bên cạnh lựa chọn hệ thống các thí nghiệm đưa vào bài dạy để tạo hứng thú cho người học, giáo viên cũng nên chuẩn bị một hệ thống các câu hỏi để dẫn dắt học sinh giải thích hiện tượng xảy ra, rút ra được kiến thức bài học. + kiếm làm hóa Thí chất, Phải cho học sinh thấy được hóa môn khoa học gần gũi với sống, các hóa chất và dụng cụ thí nghiệm cũng có thể được tìm thấy ở các vật thể, các chất thực tế xung quanh các em. nghiệm đơn giản, dễ dễ học là cuộc Ở bài Tính chất hóa học của axit (Hóa 9), sau khi thử màu của quỳ tím trong dung dịch HCl hoặc H2SO4 và nêu ra được kết luận Dung dịch axit làm quỳ tím hóa đỏ; giáo viên có thể làm/ cho học sinh làm thí nghiệm xem xét sự thay đổi màu của quỳ tím trong nước cốt chanh như sau: Cắt 1 quả chanh thành nhiều miếng, phát cho mỗi nhóm 1 miếng, yêu cầu các em vắt nước cốt chanh vào chén sứ rồi nhúng mẩu giấy quỳ tím vào. Các em sẽ quan sát được hiện tượng nước cốt chanh làm quỳ tím hóa đỏ. Từ đó, giáo viên yêu cầu học sinh rút ra kết luận từ thí nghiệm này (Kết luận: Vậy, nước cốt chanh là một dung dịch Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 15 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở axit). Giáo viên có thể thông báo thêm: Nước cốt chanh là một dung dịch axit hữu cơ có tên gọi axit citric. Sự thay đổi màu của quỳ tím khi nhỏ nước cốt chanh (axit citric) lên Ở bài Tính chất hóa học của bazơ (Hóa 9), sau khi thử màu của quỳ tím trong dung dịch NaOH và nêu ra được kết luận Dung dịch bazơ làm quỳ tím hóa xanh; giáo viên có thể làm/ cho học sinh làm thí nghiệm thử màu của quỳ tím trong dung dịch bột giặt như sau: Giáo viên cho bột giặt vào chén sứ, thêm nước cất, khuấy đều, rót dung dịch bột giặt chia cho các nhóm; yêu cầu các nhóm nhúng mẩu giấy quỳ tím vào dung dịch trên, rút ra kết luận. Các em sẽ quan sát được hiện tượng dung dịch bột giặt làm quỳ tím hóa xanh. Từ đó, học sinh rút ra kết luận (Vậy, dung dịch bột giặt mang tính bazơ). Bằng những thí ngiệm về các chất gần gũi xung quanh các em (miếng chanh, bột giặt…)như trên, các em mới thấy sự lí thú của hóa học, hiểu hơn về các chất mình tiếp xúc, sử dụng hàng ngày, cảm nhận đúng hơn về vai trò của hóa học- Khoa học của cuộc sống! Sự thay đổi màu của quỳ tím khi nhỏ dung dịch bột giặt (dung dịch có tính kiềm) lên Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 16 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở Ví dụ: Khi cho học sinh làm thí nghiệm muối tác dụng với axit, giáo viên có thể dùng phấn viết bảng hay vỏ trứng (thành phần chính là CaCO 3) tác dụng với dung dịch axit.Trong phòng thí nghiệm ở trường Trung học cơ sở có hóa chất CaCO3 nhưng ở dạng bột. Nếu cho CaCO3 tác dụng dd axit thì khó để quan sát hiện tượng xảy ra. Bằng việc thay hóa chất CaCO3 bằng vỏ trứng hoặc viên phấn học sinh sẽ thấy hóa học thật gần gũi với cuộc sống và thêm hiểu biết về các chất xung quanh các em. Phản ứng của CaCO3 (thành phần chính trong vỏ trứng, phấn viết bảng) với dung dịch HCl Hoặc giáo viên có thể hướng dẫn để học sinh làm thiết bị điện phân dung dịch muối ăn NaCl đơn giản bằng nguồn điện là 3 pin 1,5V, hai điện cực làm bằng 2 ruột bút chì để học sinh thấy được quá trình điều chế ra dung dịch NaOH bằng phương pháp điện phân dung dịch muối NaCl bão hòa. Dụng cụ điện phân dd NaCl bão hòa (gồm 3 pin 1,5V; 2 đoạn bút chì; dây dẫn điện và băng keo) Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 17 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở Bộ thiết bị điện phân dung dịch muối ăn gồm: 3 pin 1,5V; 2 đoạn bút chì; dây dẫn và băng keo Sau khi được làm, quan sát thí nghiệm điện phân dd muối ăn bão hòa, các em sẽ biết thêm được: lõi bút chì dẫn được điện (kiến thức này sẽ được nhắc tới trong bài Cacbon). Do đó, mức độ khắc sâu kiến thức sẽ được nâng cao vì các em đã được tự bản thân làm ra thiết bị điện phân dd muối ăn. Ở bài Tính chất hóa học của muối (hóa 9), thay vì cho kim loại Cu tác dụng với dung dịch AgNO3 (hóa chất đắt tiền, khó để bảo quản), giáo viên nên thay thế bằng phản ứng của Fe tác dụng với dung dịch CuSO4 (hiện tượng rõ ràng, dễ quan sát Phản ứng điện phân dung dịch muối ăn NaCl bão hòa tạo ra NaOH mà hóa chất rẻ tiền hơn). Tuy nhiên khi tiến làmbị dung phtalein hóa hồng hành, giáo viên phải chuẩn mộtdịch ốngphenol nghiệm chứa dung dịch CuSO4 để đối chứng (thấy màu dung dịch CuSO4) nhạt dần như hình ảnh thí nghiệm ở bên. Bên cạnh đó, khi quan sát màu sắc dung dịch thì giáo viên cũng phải để ý phông quan sát. Những chất có màu thì dùng phông trắng, Phản ứng Fe tác dụng dd CuSO4 chất màu trắng dùng phông màu đen. Ví dụ ở bài Tinh bột và xenlulozơ (hóa 9), khi làm phản ứng màu của tinh bột với iot GV cắt một lát khoai lang (đã luộc chín) rồi nhỏ lên vài giọt cồn iot (dùng để sát trùng -mua ở tiệm thuốc tây). Các em sẽ quan sát thấy khi nhỏ cồn iot lên, miếng khoai đã luộc chín sẽ chuyển màu xanh đen Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 18 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở Phản ứng màu của hồ tinh bột (có trong khoai lang luộc) với iot (cồn iot) Ví dụ: ở bài Protein (Hóa học 9): Ở mục 3 phần III (tính chất), giáo viên có thể cho học sinh cùng làm thí nghiệm về sự đông tụ của protein như sau: Pha ½ cốc sữa (gồm sữa đặc có đường và nước đun sôi để nguội khoảng 700C theo tỉ lệ 1 thể tích sữa: 2 thể tích nước , khuấy đều) . Để cốc sữa nguội đến nhiệt độ phòng, lấy nước cốt của 1 quả chanh (đã bỏ hạt) cho từ từ vào cốc sữa trên. Sau đó, dùng đũa (muỗng) khuấy thật nhẹ để nước cốt chanh và sữa được trộn đều. Lưu ý: Không cho nước cốt chanh vào cốc sữa khi đang còn nóng vì sữa sẽ không đông tụ mà bị vón cục, không thành sữa chua. Sau vài phút, học sinh sẽ quan sát được sự đông tụ của protein (sữa) khi thêm hóa chất (axit citric trong nước cốt chanh). Thí nghiệm này tạo được không khí vui vẻ, hào hứng lại rất gần gũi, về nhà các em có thể thực hành nhiều lần. Học sinh sẽ có được sản phẩm là 1 cốc sữa chua tự tay mình làm nên các em sẽ ghi nhớ kiến thức tốt Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 19 SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở hơn, ứng dụng được kiến thức bài học vào thực tế cuộc sống. Vì để làm 1 cốc sữa chua cũng tốn khá nhiều thời gian (chờ sữa nguội) vì vậy giáo viên nên cho học sinh tiến hành trong tiết thực hành/ ngoại khóa môn hóa học. Sản phẩm sữa chua do học sinh trường Trung học cơ sở Dur Kmăn làm + Việc thực hiện thí nghiệm không được mất quá nhiều thời gian, làm ảnh hưởng đến nội dung bài dạy Vì thời gian dành cho một tiết lên lớp ở phổ thông rất ngắn (chỉ có 45 phút) lại có quá nhiều nhiệm vụ mà người giáo viên phải thực hiện nên các thí nghiệm trên lớp phải nhanh, gọn, không làm mất quá nhiều thời gian. Một số thí nghiệm xảy ra chậm, giáo viên phải cho học sinh tiến hành trước để không mất thời gian 0 liệu làm sữa cốcvới nước (đã 10-15 đun sôi), chanh, có đường chờNguyên đợi. Ví dụđểphản ứngchua: của 1sắt ddkhoảng CuSO70 phút để sữa thấyđặc màu của 4 (cần dung dịch nhạt dần). Ở một số bài dạy có nhiều thí nghiệm phải tiến hành, giáo viên nên cho học sinh thực hiện các thí nghiệm đó nối tiếp nhau, quanPhản sát ứng và nêu Fe táchiện dụngtượng dd CuSO4 thí nghiệm, rồi mới rút ra các tính chất của chất, sau đó viết các phương trình hóa học xảy ra. Ví dụ ở chương trình hóa học 9, bài 9: Tính chất hóa học của muối; nếu giáo viên tiến hành lần lượt từng thí nghiệm rút ra từng tính chất, viết phương trình hóa học cho mỗi tính chất rồi mới chuyển sang thí nghiệm khác thì chắc chắn sẽ không đảm bảo về mặt thời gian. Do đó, giáo viên nên tổ chức cho học sinh tiến hành đồng loạt các thí nghiệm, cho biết các hiện tượng xảy ra rồi viết vào bảng sau: Tên thí nghiệm 1) Muối Cách tiến hành Hiện tượng quan sát được tác Cho vài cây đinh sắt vào ống Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan