Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn một số giải pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 24 36 tháng tuổi phát triển ng...

Tài liệu Skkn một số giải pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 24 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường mầm non thành sơn

.DOC
21
6
68

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC Mục lục STT Nội dung SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Trang 1 1. Phần mở đầu 1 2 1.1. Lý do chọn đề tài 1 3 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 4 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO TRẺ 5 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 6 25-362.THÁNG Nội dungTUỔI PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ THÔNG QUA ĐỘNG NON 7 HOẠT 2.1.Cơ sở lýNHẬN luận: BIẾT TẬP NÓI Ở TRƯỜNG MẦM 2 THÀNH SƠN, HUYỆN BÁ THƯỚC 8 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN 3 9 2.3. Các giải pháp và biện pháp thực hiện 5->17 10 2.4. Hiệu quả sau khi áp dụng một số biện pháp 17 11 3. Kết luận, kiến nghị 18 12 3.1. Kết luận Người thực hiện: Nguyễn Thị Thường 18 13 3.2. Kiến nghị 18 Chức vụ: Giáo viên 14 Xác nhận của thủ trưởng đơn vị 19 Đơn vị: Trường Mầm non Thành Sơn 15 Tài liệu tham khảo 20 SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên Môn THANH HÓA NĂM 2019 Mục lục STT 1 1.1 1.2 1.3 1.4 2 2.1 2.2 2.3 2.3.1. 2.3.2 Nội dung Mở đầu Lý do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Nội dung sáng kiến kinh nghiệm Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Rèn luyện nề nếp thói quen sử dụng ngôn ngữ tích cực cho trẻ ngay từ đầu năm học Xây dựng nội dung hoạt động phù hợp với chủ đề để phát triển ngôn ngữ. Trang 2 2 3 3 3 3 3 4 6 6 7 Lấy trẻ làm trung tâm của các hoạt động dạy và học 9 Luyện phát âm cho trẻ. 10 Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp. 11 Cho trẻ nhận biết tập nói ở một số hoạt động trong ngày. 12 2.3.7 Tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương làm đồ dùng, đồ chơi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 14 2.3.8 Xây dựng góc tuyên truyền và phối hợp vơí phụ huynh trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ. 16 2.4 Hiệu quả kiểm nghiệm. 17 3 3.1 3.2 Kết luận và kiến nghị. Kết luận: Kiến nghị: 18 18 19 2.3.3 2.3.4 2.3.5 2.3.6 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài. 1 Bác Hồ của chúng ta đã dạy “ Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn và bảo vệ nó” Trong công tác giáo dục trẻ mầm non, chúng ta thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngôn ngữ góp phần đào tạo các cháu trở thành những con người phát triển toàn diện. Hiện nay việc thực hiện đổi mới trong giáo dục mầm non đã và đang thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu nói chung, các cán bộ quản lý cũng như hầu hết giáo viên trong nghành học mầm non nói riêng. Chương trình giáo dục Mầm non đã triển khai thực hiện có hiệu quả việc đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới hình thức tổ chức nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ Mầm non. Tuy nhiên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là việc đổi mới phương pháp giảng dạy chưa hiệu qủa, sự lồng ghép tích hợp các hoạt động và các chuyên đề giáo dục cho trẻ còn nhiều hạn chế, nội dung còn đơn điệu, rườm rà, lúng túng chưa phù hợp với nội dung yêu cầu của chương trình. Giáo dục Mầm non có tác dụng cực kì quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang chuyển mình vươn lên đỉnh cao của thời đại Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Vì vậy để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển đi lên của xã hội thì việc cải tiến phương pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng, khả năng nhận biết cho trẻ là một vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên, mỗi đơn vị trường Mầm non. Để đảm bảo mục tiêu giáo dục thì trong trường Mầm non phải kết hợp song song việc chăm sóc thể lực và giáo dục trí tuệ cho trẻ. Làm tốt được điều đó thì các hoạt động trong trường Mầm non cũng đóng một vai trò then chốt, trong đó không thể thiếu được hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nó là một trong những hoạt động chính, giữ vị trí quan trọng trong giáo dục phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một thành viên của xã hội. Ở trẻ nhỏ nhu cầu giao tiếp của trẻ là rất lớn. Ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ nguyện vọng của mình để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển và giáo dục trẻ. Ngôn ngữ là một điều kiện rất quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân cách. Sự phát triển chậm về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Cho nên các nhà giáo dục cần phải đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp phát triển ngôn ngữ trẻ đúng lúc và phù hợp với lứa tuổi. Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi vốn từ còn ít, mức độ hiểu nghĩa còn hạn chế, cách sử dụng từ chưa chính xác, trẻ còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn. Do đó việc phát triển làm giàu vốn từ cho trẻ, dạy trẻ nói năng lưu loát, phát âm đúng có kĩ năng trả lời một số câu hỏi, hiểu được yêu cầu đơn giản bằng lời nói là một điều rất quan trọng. Chính vì vậy người lớn cần phải chỉnh sửa uốn nắn kịp thời nhất là cô giáo. Ngày xưa ông cha ta có câu: “Trẻ lên ba cả nhà tập nói”. [1] Là giáo viên mầm non, nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ, qua quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tôi có những suy nghĩ, trăn trở làm sao để dạy các cháu phát âm chuẩn, chính xác tiếng việt. Xuất phát từ những yêu cầu trên tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động 2 nhận biết tập nói ở trường Mầm non Thành Sơn. ” làm đề tài nghiên cứu của mình. 1.2. Mục đích nghiên cứu. - Tìm ra một số giải pháp hay, hiệu quả để áp dụng vào thực tế khi giúp trẻ 34 - 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ một cách nhanh nhất. Từ đó thông qua “Lĩnh vực phát trển ngôn ngữ ” giúp trẻ: - Tăng thêm vốn từ cho trẻ. - Giúp trẻ mở rộng tầm hiểu biết về thế giới xung quanh. - Luyện cho trẻ phát âm chuẩn, chính xác tiếng việt, nói được câu trọn vẹn đúng nghĩa. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. - Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường Mầm non Thành Sơn. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Nhằm giúp có kiến thức một cách hệ thống về qui trình điều tra khảo sát trong thực tế. - Nhóm phương pháp xây sựng cơ sở lý thuyết. - Phương pháp thực nghiệm: Đưa ra một số yêu cầu khảo sát trên trẻ - Nhóm phương pháp trực quan (Xem vật thật, quan sát tranh ảnh, tham quan, xem phim) - Nhóm phương pháp dùng lời (Trò chuyện, đàm thoại, giảng giải, đọc thơ, kể chuyện) - Nhóm phương pháp thực hành (Trò chơi học tập, lao động) - Phương pháp thống kê tổng kết rút kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm giáo dục là quá trình mô tả, phân tích so sánh, phân loại tổng hợp những kinh nghiệm giáo dục. 2. Nội dung. 2.1. Cơ sở lý luận. Nhân cách con người phải được đặt nền móng ngay từ buổi đầu tiên chập chững bước vào đời. Ngày nay, chúng ta coi trọng Giáo dục mầm non, vì giáo dục mầm non là nền tảng của giáo dục, đó là những năm đầu cuộc đời của trẻ, nó có tầm quan trọng đặc biệt, vì thời kỳ này sự tăng trưởng và phát triển nhanh của cơ thể trẻ cũng như về trí tuệ, tình cảm, nhân cách được bắt đầu hình thành. Phát triển tốt hay không là phụ thuộc vào người lớn xung quanh trẻ, đặc biệt là giáo viên mầm non, là người mẹ hiền thứ hai của trẻ. Giáo dục trẻ một cách toàn diện là một công việc vô cùng khó khăn, nó phải là cả một quá trình, đây là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng một tòa lâu đài trí tuệ. Chính vì vậy mà BGD&ĐT đã đề ra mục tiêu của giáo dục Mầm non là phải trang bị cho trẻ những gì tốt nhất kể cả về vật chất và tinh thần nhằm phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ.[2] - Theo điều 23 luật giáo dục Mầm non ban hành số 38/2005QH11 ngày 14/06/2005 yêu cầu về nội dung và phương pháp GDMN đã ghi: Phương pháp GDMN chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động để giúp trẻ phát triển toàn diện. [3] 3 - Theo chương trình giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo TT số 17/2009/TT- BGDDT ngày 25/07/2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cũng đã nêu rõ: Mục tiêu của DGMN là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố dầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1, hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỷ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đạt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.[4] - Học thuyết Mác Lê-nin đã chỉ ra rằng: “Ngôn ngữ bắt đầu từ lao động, bắt nguồn từ nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người trong lao động và trong cuộc sống”. Ở đứa trẻ ngôn ngữ phát triển trong nhu cầu giao tiếp giữa trẻ với thế giới xung quanh. Trẻ bắt chước mọi người và được mọi người dạy nói. Vì thế Trường Mầm non phải là nơi để phát triển lời nói chuẩn mực cho trẻ và cô giáo là tấm gương phản chiếu rõ nhất, ngôn ngữ phải rõ ràng, chính xác, mạch lạc, cô giáo và người lớn phải sử dụng những từ có văn hóa, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Để hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả chúng ta phải dựa vào đặc điểm phát triển tâm sinh lí trẻ: + Đặc điểm phát triển sinh lí: Như chúng ta đã biết quá trình phát triển về ngôn ngữ của trẻ thì đây là giai đoạn ngôn ngữ chủ động của trẻ bắt đầu xuất hiện. Chính vì thế trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ còn mắc một số hạn chế sau: Giai đoạn này tư duy trực quan là chủ yếu, lời nói luôn luôn gắn liền với mọi hành động đồ vật cụ thể thì trẻ mới hiểu được. Khi trẻ nói chủ yếu trẻ dựa vào những đặc điểm bên ngoài để nói. Trẻ phát âm chưa chính xác, trẻ còn hay nói ngọng, nói lắp + Đặc điểm phát triển tâm lý Ở giai đoạn này trẻ rất thích bắt chước người lớn. Trẻ thích được người lớn khen, động viên kịp thời và thích những màu sắc sặc sỡ.Trẻ thường hay đặt ra những câu hỏi để người lớn trả lời như: Vì sao? Tại sao ? Làm thế nào ?[5] Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài và đã giúp tôi căn cứ vào đó để tìm ra những giải pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp đối với hoạt động này. 2.2. Thực trạng nâng cao chất lượng cho trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường Mầm non Thanh Sơn. Trong quá trình chăm sóc trẻ 24-36 tháng tuổi, tôi nhận thấy cơ thể của trẻ còn yếu, trẻ chưa nói rõ, vốn từ của trẻ còn ít, khả năng nhận thức còn hạn chế. Phần đa các cháu đang sống trong môi trường chăm sóc, âu yếm, chiều chuộng trong vòng tay của bà, của mẹ và của những người thân yêu trong gia đình. Trẻ chưa thể hoà nhập với bạn, chưa quen với cô, chưa quen với nề nếp sinh hoạt tập thể, chưa có thói quen vệ sinh tự phục vụ. Muốn làm được điều đó người giáo viên phải có ý thức trau dồi ngôn ngữ, tự học, tự rèn luyện cho mình cách nói rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện với trẻ đúng đắn, thân ái, lịch 4 sự. Vì vậy trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ tôi gặp những thuận lợi và khó khăn như sau: 2.2.1. Thuận lợi. Nhà trường trong năm học qua được các cấp lãnh đạo quan tâm chỉ đạo, được các bậc phụ huynh tin tưởng. Ban giám hiệu Nhà trường luôn sát sao quản lý, chỉ đạo và điều hành mọi công việc trong nhà trường tốt. - Trong năm học này tôi được nhà trường phân công dạy nhóm trẻ 25-36 tại khu trung. Với tổng số trẻ là: 12 Trong Nam :7, Nữ:5 - Với đội ngũ cán bộ giáo viên luôn tâm huyết với nghề, đa số đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, luôn giúp đỡ lẫn nhau, trẻ khỏe nhiệt tình, tạo điều kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm. - Bản thân là một giáo viên có tuổi nghề lâu năm, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy, không ngừng học hỏi, tham khảo tài liệu, dự giờ đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm cho bản thân, - Bản thân tôi là người dân tộc kinh nói đúng tiếng phổ thông, phát âm chuẩn. Tôi công tác lâu năm ở vùng dân tộc thiểu số. Nên biết tiếng địa phương ( Tiếng thái) của trẻ nói để phiên dịch sang tiếng phổ thông và uốn nắn kịp thời. - Trẻ khỏe mạnh, tích cực học tập và hứng thú hoạt động. Một lớp có chung một độ tuổi nên nhận thức của trẻ tương đối đồng đều, 2.2.2. Khó khăn. Là xã có địa bàn rộng, nhiều thôn cách xa trường, giao thông đi lại khó khăn, nên vào những ngày mưa mù, giá rét số trẻ đến trường còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học của cô và trẻ. Trẻ đến lớp học còn nói tiếng địa phương, phát âm sai lệch ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu bài, ngôn ngữ mạnh lạc của trẻ còn hạn chế (nói chưa đủ câu, nói trống không, nói lắp, nói ngọng, nói tiếng địa phương) nên ảnh hưởng rất lớn đến việc giao tiếp và dạy trẻ trên lớp. Cơ sở vật chất phòng học chật hẹp, đồ dùng đồ chơi được đầu tư, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục hiện nay. Một số phụ huynh đi làm ăn xa để con ở nhà với ông bà dẫn đến việc quan tâm đến trẻ còn hạn chế, chưa nhiệt tình ủng hộ trong việc thu gom các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm đồ dùng dạy học và hoạt động vui chơi cho các cháu. Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ dễ nhớ nhưng lại rất chóng quên. Do điều kiện đặc thù của địa phương đa số là người dân tộc thái nên có một số phụ huynh phát âm chưa chuẩn tiếng phổ thông làm cho trẻ học theo. Đa số trẻ chưa qua nhóm trẻ 18-24 tháng tuổi nên lần đầu tiên đến trường quyấy khóc nhiều, nhút nhát, nói nhỏ, phát âm toàn bộ tiếng địa phương. Qua khảo sát đầu năm tôi thấy khả năng phát triển ngôn ngữ của các cháu trong lớp tôi như sau: * Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng tháng 9 năm 2018 Nội dung Tổn Kết quả thực trạng đánh giá g số Đạt Chưa đạt trẻ Tốt Khá TB Yếu Kém 5 Khả năng nghe hiểu của trẻ Khả năng phát âm đúng từ Khả năng diễn đạt ngôn ngữ giao tiếp, nói mạch lạc S L T L % S L T L % S L T L % S L T L % 12 3 25 3 25 5 42 1 8,0 12 2 17 4 33 4 33 2 17 2 17 5 42 4 33 1 8,0 12 S L TL % Nhìn vào bảng kết quả khảo sát thực trạng trên cho ta thấy tình hình thực tế về chất lượng của hoạt động nhận biết tập nói chưa cao, cháu yếu vẫn còn, tỷ lệ cháu trung bình rất cao. * Nguyên nhân: - Các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho giảng dạy còn hạn chế, đồ dùng chưa đẹp, chưa sinh động sáng tạo vì vậy chưa thu hút được trẻ tham gia hoạt động. - Việc tạo môi trường (nhất là môi trường mở) cho trẻ hoạt động có nhiều hạn chế, hình thức chưa thu hút được nhiều trẻ tham gia hoạt động. - Trẻ còn sử dụng tiếng địa phương nhiều, một số trẻ chưa nói rõ từ hoặc đa số còn nói ngọng, nói chưa rõ lời. Do đó việc trẻ nói đủ câu, từ rõ ràng mạch lạc còn gặp nhiều khó khăn. - Còn hạn chế trong việc phát triển vốn từ cho trẻ, chưa phát huy được tính tích cực của trẻ trong các hoạt động - Do điều kiện đặc thù của địa phương có một số phụ huynh phát âm chưa chuẩn tiếng phổ thông làm cho trẻ học theo. - Nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ còn đơn điệu, chưa có một hệ thống logíc nhất định. 2.3. Các giải pháp thực hiện. 2.3.1. Rèn luyện nền nếp thói quen sử dụng ngôn ngữ tích cực cho trẻ ngay từ đầu năm học. Nền nếp thói quen là tính tất yếu chi phối đến việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ, xã hội càng văn minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hóa trong giao tiếp càng trở nên quan trọng. Nền nếp học tập là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến thành công của tiết học, vì vậy ngay từ lứa tuổi mầm non, người lớn, đặc biệt là giáo viên mầm non, tôi luôn chú trọng rèn luyện các nền nếp thói quen, hành vi lễ giáo cho trẻ, uốn nắn trẻ mạnh dạn, tự nhiên khi giao tiếp với người khác, không rụt rè, e sợ, âm lượng phát ra đủ nghe, không la hét, nói tục, chửi bậy, biết dùng ngôn ngữ nhẹ nhàng tình cảm để thể hiện tình cảm yêu thương đối với bạn bè, cô giáo và người thân. Vì vậy trong công tác giáo dục, cô giáo và người lớn phải thực sự gương mẫu về lời ăn tiếng nói, nghiêm khắc và uốn nắn kịp thời khi trẻ nói sai, nói trống không, nói thiếu chủ ngữ, vị ngữ, nói ngược vị trí câu. 6 Ví dụ: Khi trẻ muốn lấy quả bóng của bạn trẻ sẽ nói: “Đưa đây” tôi sẽ sửa cho cháu nói lại “Bạn cho tôi mượn quả bóng”….Giáo dục các cháu biết cảm ơn, xin lỗi, không nói dối, lễ phép với người lớn khi giao tiếp, biết chào hỏi cô khi đến lớp, chào hỏi ông bà, bố mẹ và người lớn. Trong sinh hoạt hằng ngày tôi chú ý rèn luyện cho các cháu có thói quen vệ sinh cá nhân, vệ sinh công cộng, tập cho trẻ có thói quen tự phục vụ như : Tự đi dép, đội mũ. + Giờ đón trẻ, khi trẻ đến lớp tôi dạy trẻ chào cô, chào bố, mẹ rồi vào lớp. + Dạy trẻ cất đồ dùng cá nhân đúng nơi qui định. + Giờ học, vào bài cô kể cho trẻ nghe một đoạn truyện, đọc cho trẻ nghe một bài thơ, câu đố hay là tổ chức tiết học dưới hình thức trò chơi, chương trình của bé ( tùy vào nội dung) để gây sự hứng thú khi vào bài. + Giờ chơi, giáo dục trẻ khi chơi xong cất đồ chơi ngăn nắp gọn gàng, vừa cất đồ chơi vừa đọc đoạn thơ: “ Giờ chơi hết giờ rồi, nhanh tay cất đồ chơi, nhẹ tay thôi bạn ơi ” + Giờ ăn, tôi giáo dục trẻ trước khi ăn phải rửa tay, cho trẻ đọc bài thơ “giờ ăn” sau đó mời cô giáo, mời các bạn rồi mới ăn. Khi ăn không nói chuyện, không làm cơm rơi, cơm vãi. Ăn xong lau miệng, uống nước, rửa tay. + Giờ ngủ trưa cô cho trẻ đọc bài thơ: “ Giờ đi ngủ ” trẻ lên giường nằm ngủ không nói chuyện. Trong tiết học tôi chú ý rèn cho các cháu ngồi học ngay ngắn, không nằm ra chiếu, không được chạy lung tung trong khi học, biết lắng nghe và trả lời các câu hỏi của cô. Qua quá trình thực hiện các biện pháp trên, tôi đã đưa trẻ vào nề nếp và thói quen hằng ngày của trẻ, sau một thời gian trẻ thực hiện rất tốt. Từ đó tôi nhận thấy trẻ tự tin, thoải mái và thích đến trường được học, được chơi, được giao lưu với bạn. Sau một thời gian áp dụng biện pháp, tôi thấy hiệu quả của giờ học được nâng lên rõ rệt. Nề nếp các cháu đã đi vào ổn định và được BGH Nhà trường đánh giá rất tốt. Trẻ rất hứng thú trong mọi hoạt động. 2.3.2. Xây dựng nội dung hoạt động phù hợp với chủ đề để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Giáo viên cần xác định chủ đề và nội dung của chủ đề được thực hiện trong thời gian đó. - Trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề - Lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngôn ngữ phù hợp với chủ đề đó - Xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề - Chuẩn bị các phương tiện học liệu theo chủ đề - Lên lịch hoạt động theo tuần, ngày và tích hợp nội dung PTNN với các hoạt động của các lĩnh vực khác. Ví dụ: + Với chủ đề “Phương tiện giao thông đường bộ” tôi lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngôn ngữ như sau: 7 + Trò chuyện: Tôi và trẻ cùng trò chuyên về các phương tiện giao thông như : Ô tô, Xe đạp, Xe máy,...(Hàng ngày ai đưa con đi học? Bố (Mẹ) chở con đi học bằng xe gì? Đi đường con thấy những xe gì? Tiếng kêu của xe đó như thế nào? - Đọc thơ, ca dao, đồng dao, tục ngữ. + Đọc bài thơ: “ Bé và mẹ ” Tan học mẹ đón về Dắt tay em qua phố Mẹ luôn luôn nhắc nhở Đi bộ trên vỉa hè Đường rất nhiều loại xe Nếu sang ngang phải đợi Đèn xanh mới được đi Bé ngoan ngoãn thầm thì “Con nhớ rồi mẹ ạ !”. (Lương Thị Xiêm) “ Đèn đỏ đèn xanh” Dung dăng dung dẻ Vui vẻ đi chơi Đèn đỏ báo rồi Bạn chờ tí nhé! Dung dăng dung dẻ Vui vẻ đi chơi Đèn xanh báo rồi Bạn ơi ! Đi nhé. ( Định Hải ) + Các bài ca dao - Đồng dao: “Bà còng đi chợ trời mưa” Bà còng đi chợ trời mưa Cái tôm cái tếp đi đưa bà còng Đưa bà đến quãng đường cong Đưa bà vào tận ngõ trong nhà bà Tiền bà trong túi rơi ra Tép tôm nhặt được trả bà mua rau. “ Đi cầu đi quán” Đi cầu đi quán Mua một đàn gà Đi bán lợn con Về cho ăn thóc Đi mua cái xoong Mua lược chải tóc Đem về đun nấu Mua cặp gài đầu Mua quả dưa hấu Đi mau về mau Về biếu ông bà Kẻo trời sắp tối. + Kể chuyện “Ô tô con học bài”... + Trò chơi phát triển ngôn ngữ: Chơi “Ô tô chim sẻ, Chơi đèn tín hiệu…” + Làm sách tranh truyện về các phương tiện giao thông đường bộ 8 - Tôi xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề nhánh “Phương tiện giao thông đường bộ”: Ví dụ: + Ở góc hoạt động với đồ vật tôi cho trẻ xếp “Ga ra ô tô” + Ở góc phân vai: Cho trẻ chơi bán hàng, nấu cho em ăn + Ở góc nghệ thuật : Hát các bài hát về phương tiện giao thông, Tô màu xe máy, ô tô… + Ở góc đóng vai tôi cho trẻ chơi trò chơi đóng vai chú cảnh sát - Với chủ đề này, tôi chuẩn bị đồ dùng trực quan phục vụ cho các tiết học là các phương tiện do nhà trường mua sắm, các đồ chơi do chính tay các cô tự taọ bằng các phế liệu dễ sử dụng và an toàn cho trẻ. Sử dụng máy tính, băng đĩa có hình ảnh các phương tiện giao thông,cho trẻ quan sát và đàm thoại. - Tôi trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề: Trang trí nhóm lớp bằng tranh ảnh các phương tiện có liên quan đến chủ đề “Bé thích đi bằng phương tiện gì ” ở các góc trong nhóm lớp sao cho trẻ dễ quan sát và đàm thoại. - Lên lịch cho các hoạt động theo tuần: Mỗi tuần tôi lên kế hoạch cung cấp kiến thức cho trẻ về 2-3 phương tiện giao thông. 2.3.3. Giáo dục Lấy trẻ làm trung tâm trong các hoạt động. Thực tế hiện nay quan điểm “Giáo viên làm trung tâm cho mọi hoạt động giáo dục” Đã chuyển sang quan điểm “Lấy trẻ làm trung tâm”. Trẻ phải được coi là trung tâm của mọi hoạt động giáo dục. Giáo viên cần phải dựa vào đặc điểm tâm sinh lý và đặc điểm nhận thức của từng trẻ, từ đó lập kế hoạch giáo dục phù hợp. Bên cạnh đó giáo viên Mầm non cần hiểu rằng việc đặt câu hỏi “Trẻ học gì?” chỉ là hình thức bề ngoài của một vấn đề. Mà cần phải đặt câu hỏi “Trẻ học như thế nào?” đó mới là điều cốt lõi của quá trình giáo dục trẻ. Như chúng ta đã biết, phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm là phương pháp phát huy được tối đa tính tích cực, khả năng tiếp thu và trí tưởng tượng của trẻ. Vì vậy khi sử dụng phương pháp này trong quá trình dạy trẻ cô chỉ nên gợi mở, kích thích sự sáng tạo của trẻ, hướng dẫn trẻ để trẻ được chủ động tư duy từng chi tiết các nhân vật qua các câu truyện, không sử dụng câu hỏi đóng mà sử dụng câu hỏi mở. Ví dụ: Thơ “Yêu mẹ” Tôi đưa ra câu hỏi + Bài thơ nói về ai? + Trong bài thơ mẹ của bé đã vất vả như thế nào ? + Mẹ dậy sớm để làm gì? + Ai đã kề vào má của mẹ? + Em bé yêu mẹ như thế nào? + Còn các con thì sao được mẹ yêu thì các con phải ntn? Hay: Truyện “ Thỏ con không vâng lời” + Mẹ dặn Thỏ con như thế nào? + Thỏ con có nghe lời mẹ không? + Vì sao Thỏ con lại bị lạc đường? + Ai đã đưa Thỏ về nhà? 9 Từ những câu hỏi cô đưa ra kích thích được sự tư duy của trẻ giúp trẻ nhớ lại, khắc sâu hơn nội dung truyện một cách chính xác và sâu sắc. 2.3.4. Luyện phát âm cho trẻ. * Rèn luyện thính giác ngôn ngữ cho trẻ. Rèn luyện thính giác ngôn ngữ là rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ, giúp trẻ phân biệt được âm thanh nói chung. Ví dụ: Âm thanh của từ “Hoa” khác âm thanh của từ “Lá” Muốn trẻ rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ được tốt cần đặt trẻ vào trong môi trường âm thanh( Bao gồm âm thanh nói chung và âm thanh ngôn ngữ nói riêng). Trẻ càng thu nhận được tín hiệu ngôn ngữ bao nhiêu thì sự phát triển lời nói càng nhanh chóng bấy nhiêu vì vậy chúng ta cần phải lặp đi lặp lại nhiều lần giúp trẻ phát âm đúng. Ví dụ: Khi dạy bài thơ “ Hoa nở ” khi trẻ đọc đến từ “xinh xinh” một số trẻ sẽ phát âm sai, vì vậy cô giáo cần chú ý kiên trì sửa sai cho trẻ bằng cách (không lặp lại lỗi mắc sai của trẻ), không cáu gắt làm trẻ mất hứng thú mà cô sẽ phát âm lại chậm, rõ và cho trẻ phát âm theo cô nhiều lần. * Luyện cơ quan phát âm cho trẻ. - Cơ quan phát âm đóng vai trò quan trọng trong quá trình trẻ nói, nó điều khiển bộ máy phát âm của trẻ. Quá trình giáo dục sẽ tác động đến bộ máy phát âm của trẻ. Vì vậy chúng ta cần luyện cơ quan phát âm cho trẻ theo 2 nội dung sau: Luyện vận động tự do nhằm giúp các bộ phận môi, răng, lưỡi chuyển động nhịp nhàng, linh hoạt. Đối với trẻ Mầm non Trẻ "Học bằng chơi, chơi mà học” vì vậy giáo viên cần vận dụng khéo léo và kinh hoạt các phương pháp, biện pháp phù hợp để lôi cuốn trẻ. Tôi đã suy nghĩ và lựa chon phương pháp sử dụng trò chơi để luyện bộ máy phát âm cho trẻ. Ví dụ: Cô nói: Trời sắp tối rồi các con hãy “Gọi gà” để cho gà ăn nào! cô hướng dẫn cho trẻ bặm 2 môi vào nhau thật chặt và phát âm( Bập..Bập...Bập) Như thế tôi đã luyện tập cho trẻ biết điều khiển hoạt động của môi và hàm. Hoặc cho trẻ làm đông tác “ Nhai kẹo cao su”, hay cho trẻ “Chậc lưỡi”…tôi đã luyện tập cho trẻ biết điều khiển hàm theo 2 hướng… * Luyện thở ngôn ngữ cho trẻ. - Qua quá trình quan sát và tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy đặc điểm của trẻ là chưa biết điều khiển nhịp thở của mình khi nói cho phù hợp, có nhiều trẻ nói rất nhanh vừa nói vừa thở. Hoặc ngược lại có những trẻ nói rất chậm ê..a..vừa nói vừa thở. Vì vậy điều khiển sự thở là không thể thiếu được trong quá trình rèn luyện phát âm cho trẻ. Trò chơi được sử dụng rất nhiều, đa dạng phong phú trong quá trình giáo dục ngôn ngữ cho trẻ. Ví dụ: Để luyện thở ngôn ngữ cho trẻ, trong khi cho trẻ tập thể dục tôi có thể cho trẻ khởi động bằng các trò chơi như: Thổi nơ bay cao, xa; thổi chong chóng; gà gáy…Thông qua các trò chơi này giúp cho trẻ hít thở được đều đặn dần dần trẻ sẽ biết cách lấy hơi khi nói. * Luyện giọng. - Giọng nói giúp trẻ thể hiện thái độ, tình cảm của mình trong từng lời nói như: âu yếm, thủ thỉ, to, nhỏ… 10 Ví dụ: Khi cho trẻ đọc bài thơ: “Yêu mẹ” - Giáo viên cần đọc mẫu bài thơ cho trẻ nghe 2-3 lần, cô đọc chậm và rõ thể hiện sắc thái tình cảm của mình trong bài thơ, sau đó cho trẻ đọc theo cô. Trong khi trẻ đọc cô sẽ giúp trẻ điều chỉnh giọng đọc để thể hiện tình cảm của mình đối với mẹ. 2.3.5. Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. - Để phát triển tư duy sáng tạo của trẻ.Trong quá trình trò chuyện, đàm thoại, chúng ta nên sử dụng các loại câu hỏi khác nhau. Câu hỏi kích thích trẻ nhận biết phân biệt sự vật hiện tượng, tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri giác, gợi ý trẻ đến hoạt động: - Ở mỗi hoạt động học tôi đã bám sát vào mục đích yêu cầu về kiến thức, kĩ năng cần đạt của hoạt động đó để tôi đưa ra một hệ thống câu hỏi phù hợp với nhận thức của lứa tuổi . Câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, là những câu hỏi mở để phát triển tư duy sáng tạo cho trẻ. Ví dụ 1: Với tiết nhận biết phân biệt: “To - nhỏ” tôi đưa ra những câu hỏi khi cho trẻ phân biệt quả cam to - quả táo nhỏ. Trong rổ có những quả gì? Quả cam có màu gì? Quả táo có màu gì? Quả nào to - quả nào nhỏ? Sau đó tôi sẽ gọi nhiều trẻ trả lời để trẻ ôn lại màu sắc cũng như biết cách phân biệt to - nhỏ, khắc sâu các biểu tượng về độ lớn cho trẻ đồng thời phát triển ngôn ngữ, tăng thêm vốn từ cho trẻ. Sau mỗi lần trẻ trả lời tôi thường động viên khen trẻ kịp thời. Ví dụ 2: Với tiết kể chuyện: “Đôi bạn nhỏ” Tôi đã sử dụng hệ thống câu hỏi để đàm thoại với trẻ hiểu nội dung câu chuyện, nhớ tên chuyện. Cô kể câu chuyện gì? Trong câu chuyện có những ai? Ai đã đuổi bắt gà con? Gà con kêu như thế nào? Ai đã cứu gà con? Thông qua các câu hỏi trẻ hiểu nội dung, tình tiết của câu chuyện, nhớ tên chuyện, các nhân vật trong câu chuyện qua đó rèn thêm ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, trẻ phát âm chính xác hơn các từ. Ví dụ 3: Khi tôi cho trẻ “Xếp đường đi”, tôi đưa ra câu hỏi. Con đang xếp gì đấy? Con xếp các khối gỗ như thế nào? Qua một thời gian áp dụng biện pháp sử dụng đa dạng các loại câu hỏi với trẻ, tôi thấy vốn từ của trẻ tăng, trẻ nói rõ ràng, mạch lạc. Trẻ tiến triển về nhận thức, ngôn ngữ và tình cảm.Trẻ giao tiếp dễ dàng hơn. 2.3.6. Cho trẻ nhận biết tập nói ở một số hoạt động trong ngày. Muốn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả, tôi đã dạy trẻ ở các hoạt động có chủ định như: Âm nhạc, kể truyện, đọc thơ và dạy trẻ ở mọi 11 lúc mọi nơi. Ngoài ra tôi còn áp dụng lồng hoạt động học này để tích hợp cho hoạt động học khác cho tiết học thêm sinh động kích thích sự hứng thú của trẻ. * Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ đón trẻ. Tôi đón trẻ với cử chỉ yêu thương và gần gũi và hỏi trẻ. Con đã chào cô và các bạn chưa? Con chào mẹ rồi vào lớp với cô, chiều mẹ đến đón. Hôm nay ai đưa con đi học? Mẹ đưa con đi học bằng phương tiện gì? Sáng nay con được mẹ cho ăn gì? Trước khi đi học con chào ai ở nhà nữa nhỉ? Sau khi đón trẻ xong tôi cho trẻ về các góc chơi mà trẻ thích , trẻ được chơi tự do. Trẻ có thể quan sát các bức tranh xung quanh lớp theo chủ đề đang học và tự mình khám phá. Trẻ có thể trò chuyện cùng cô và các bạn về bức tranh mà trẻ thấy.(tôi chú ý quan sát để nắm được tâm tư nguyện vọng của trẻ sau đó nhằm thỏa mãn nhu cầu tò mò ham học hỏi chủ trẻ). Từ đó trẻ sẽ được nói nhiều và ngôn ngữ cũng sẽ phát triển theo hướng tích cực. * Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động góc. Thông qua trò chơi, các biểu tượng mà trẻ thu nhận được trước đây được chính xác hóa bằng ngôn ngữ. Qua trò chơi trẻ còn tập trung vận dụng các tri thức đã thu nhận được. Trò chơi đã giúp trẻ nhớ ngôn ngữ. Đồng thời tạo ra các tình huống để trẻ sử dụng vốn ngôn ngữ đã tích lũy được. Ví dụ: - Thông qua trò chơi “Khám bệnh” cô là người gợi ý cho trẻ + Khi khám bệnh Bác sỹ phải đeo gì ? (ống nghe) + Thái độ của Bác sỹ đối với bệnh nhân phải như thế nào? - Thông qua trò chơi “Người bán hàng, em tập làm cô giáo...” , trò chơi dân gian như: “Nu na nu nống”,” Tập tầm vông”…trẻ được tự mình nói và đóng vai các nhân vật. * Phát triển ngôn ngữ thông qua dạo chơi tham quan. Dạo chơi thăm quan cũng là một hình thức bổ sung và cung cấp cho trẻ mở rộng thêm vốn từ mới, một số khái niệm mới cho trẻ. Đối với trẻ 24-36 tháng, vốn từ của trẻ còn rất ít, nhiều khi trẻ muốn nói ra một sự việc nào đấy nhưng trẻ lại không biết dùng từ ngữ gì để diễn đạt, nên cháu thường e..a hay đang nói giữa chừng lại không nói nữa vì không có từ để diễn đạt. Vì vậy giáo viên cần bổ sung và làm giàu thêm vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát cây nhãn, tôi sử dụng các câu hỏi đàm thoại với trẻ về tên gọi, đặc điểm, tác dụng của cây…để trẻ trả lời, cô lắng nghe bổ sung và tập nói cho trẻ. Ngoài ra tôi còn khéo kéo linh hoạt lồng nghép tích hợp các chuyên đề vào trong các hoạt động. Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát các loại cây ăn quả tôi hỏi trẻ: Con có biết vì sao “ lá xanh lại ở trên cây, lá vàng lại rơi xống đất” không? tôi sẽ giải thích cho trẻ hiểu vì lá vàng đã già rồi nên rụng xuống cho lá non mọc ra. Đồng thời tôi còn giải thích cho trẻ hiểu khi lá rụng xuống đất nếu không được con người quét dọn, nhiều lá rơi xuống sẽ gây ô nhiễm môi trường bẩn sân trường sẽ không đẹp, cô sẽ hưỡng dẫn tổ chức cho trẻ nhặt lá rụng bỏ vào thùng rác. 12 Hoặc khi đang chơi khi nghe tiếng sấm trẻ sẽ nói đó là tiếng pháo nổ, tôi sẽ tranh thủ giải thích cho cháu hiểu đó là tiếng sấm báo hiệu trời chuẩn bị có mưa to đấy các con ạ! Như vậy các cháu đã có thêm từ mới, khái niệm mới về sự vật, hiện tượng trong tự nhiên… Khi cho trẻ đi tham quan trẻ biết thêm một số các khái niệm về các Địa danh. Hoặc trong khi cháu chơi tôi đến gần quan sát trẻ chơi, gần gũi cháu để tập trung nói cho cháu nghe khi cháu chơi với các đồ chơi ô tô, máy bay. Tôi lại gần gợi ý để cháu ôn lại một số bộ phận của ô tô, máy bay mà các cháu đã học, thông qua đó để giúp cháu nắm vững hơn các vấn đề đã được học và đồng thời phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tốt hơn. * Phát triển ngôn ngữ trước giờ ăn và giờ đi ngủ. Ngoài các giờ hoạt động có chủ đích, giờ hoạt động chơi, giờ hoạt động lao động… Trẻ còn có giờ ăn, giờ ngủ . Ở những giờ này tôi đã dạy nói thêm cho trẻ . Trong khi giúp trẻ tiến hành các công việc hàng ngày. Tôi lựa chọn những nội dung thích hợp và nói tên các công việc đó cho trẻ biết. Ví dụ: Ở giờ ăn trước khi trẻ ăn tôi hỏi trẻ tư thế ngồi, ăn uống như thế nào là vệ sinh và cho trẻ đọc bài thơ “Giờ ăn”. Đến giờ ăn cơm Vào bàn bạn nhé Nào thìa bát, đĩa Xúc cho gọn gàng Chớ có vội vàng Cơm rơi cơm vãi. Ở giờ ngủ: Tôi cho trẻ đọc bài thơ “Giờ đi ngủ” Giờ đi ngủ Em lên giường Nằm im lặng Hai mắt nhắm Ngủ cho ngoan. * Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động lao động. Trẻ ở lứa tuổi mầm non chưa phải lao động để tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội, nhưng chúng ta phải giáo dục trẻ ý thức lao động, cho trẻ tham gia váo các công việc lao động nhẹ nhàng, lao động tự phục vụ mình. Khi trẻ được tham gia vào các hoạt động lao dộng , trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, với đồ dùng lao động, đồ dùng sinh hoạt… Như vậy trẻ có điều kiện hình thành các biểu tượng chưa có và khắc sâu các biểu tượng đã có. Từ đó trẻ sẽ biết sử dụng ngôn ngữ trong các hoạt động lao động. Vốn ngôn ngữ của trẻ sẽ tăng lên. Ví dụ: Trẻ biết nói: Đi dép, Đội mũ, Cởi áo. * Dạy trẻ nói ở mọi lúc mọi nơi. Hưởng ứng cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” Trong lớp, tôi luôn xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với cô giáo, từ đó tạo được niềm tin ở trẻ, trẻ yêu quý cô, thích nghe cô nói, mong muốn được đến lớp, từ đó cô giáo thực hiện công tác giảng dạy được tốt hơn. Để giúp cháu nói được tốt hơn, tôi còn dùng các hình thức trò chuyện với trẻ trong tất cả các hoạt động, từ khi đón trẻ cho đến lúc trả trẻ. Cô có thể trò 13 chuyện với trẻ như: Hôm nay ai đưa con đi học? Nhà con có những ai?... Qua đó cháu sẽ biểu lộ được những suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ đơn giản nói được câu nhiều từ hơn. Xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với trẻ, trẻ biết quan tâm đến nhau như khi 1 trẻ vắng không đi học thì trẻ khác sẽ hỏi ví dụ như: Bạn Hà đâu? Cô sẽ trả lời: Hôm nay bạn Hà ốm không đi học được. Hay khi trẻ chơi, cô quan sát trẻ chơi và dạy trẻ biết nhừơng nhịn đồ dùng, đồ chơi, không tranh đồ chơi của bạn..v.v.. hay khi trẻ có những hành vi sai như đánh bạn, cô sẽ giải thích cho trẻ hiểu đánh bạn là sai, là không tốt con hãy xin lỗi bạn đi..v.v.. Như vậy trẻ sẽ có những hành vi, những thái độ đúng từ đó trẻ sẽ nói được những từ ngữ biểu lộ những tình cảm tốt đẹp trẻ biết nói lời hay làm việc tốt Việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng tuổi là một nhiệm vụ cơ bản, thực hiện tốt được nhiệm vụ đó thì những người làm công tác giáo dục trẻ ở mọi lứa tuổi mầm non phải biết tận dụng mọi hình thức dạy nói cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoạt động. 2.3.7. Tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương làm đồ dùng, đồ chơi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Vì đặc điểm tư duy của của trẻ là tư duy trực quan hành động, cho nên việc tiếp thu của trẻ phụ thuộc nhiều vào các hành động, qua đó trẻ sẽ nhớ, sẽ lưu giữ lại những hình ảnh mà trẻ được quan sát. Việc sử dụng đồ dùng trực quan khoa học, linh hoạt, sáng tạo là thành công lớn trong việc dạy trẻ. Do đó yêu cầu đồ dùng phải đẹp, chính xác, xong tùy vào từng bài thơ mà cô giáo làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng sao cho phù hợp với nội dung bài học. Cách sử dụng: Ví dụ: Khi cho trẻ học bài thơ “Con tàu”, Chủ đề: Bé đi khắp nơi bằng phương tiện giao thông. Tôi chuẩn bị mô hình con tàu cho trẻ quan sát, Bằng các vỏ hộp sữa tôi xúc sạch sẽ sau đó tôi gắn các hộp sữa lại với nhau để tạo thành các toa tàu, để làm bánh con tàu tôi dùng các miếng xốp cắt giống bánh xe và gắn vào các toa tàu, Sau đó tôi dùng miếng bìa cứng vẽ đường ray cho tàu chạy, khi tàu chạy tôi giả làm tiếng còi tàu kêu tu tu, xình xịch làm như vậy trẻ sẽ hình dung ra được hình ảnh đoàn tàu, các toa tàu và khi tàu chuyển động có tiếng kê tu tu, xình xịch…Hoặc tôi có thể làm đoàn tàu bằng các miếng gỗ vụn cắt ra làm các toa tàu, các toa tàu được nối với đầu dây, khi tàu chuyển động tôi chỉ cần kéo nhẹ đầu dây… Sau đó tôi đàm thoại với trẻ kĩ hơn về đoàn tàu: Đầu tàu để làm gì? Các toa tàu để làm gì? Tàu hỏa chạy ở đâu? Tàu hỏa là phương tiện giao thông đường gì? Còi tàu kêu như thế nào? Để biết được tiếng kêu của con tàu như thế nào, các con hãy lắng nghe cô đọc bài thơ: “Con tàu” của nhà thơ Định Hải. Cô đọc diễn cảm bài thơ cho trẻ nghe, giảng nội dung và đàm thoại bài thơ. Giáo dục trẻ biết bảo vệ con tàu, khi ngồi trên tàu không được ghé đầu, đưa tay ra ngoài sẽ xảy ra tai nạn. Kết thúc tôi cho trẻ hát bài: “Một đoàn tàu”. 14 Ảnh minh họa: Làm đoàn tàu bằng các miếng gỗ và các hình khối. Ví dụ: Dạy trẻ bài thơ: “Hoa nở” Chủ đề “Những bông hoa tươi đẹp”. Tôi dựa vào nội dung bài thơ để chuẩn bị đồ dùng, như mô hình các loài hoa, chuẩn bị lời giới thiệu sao cho hấp dẫn, đưa đồ dùng ra sao cho phù hợp, tạo được sự bất ngờ đối với trẻ và tôi dẫn dắt vào bài. Tôi chuẩn bị mô hình công viên, có nhiều loài hoa đang đua nhau khoe sắc. Các loài hoa, cây cỏ, được tôi cắt bằng xốp mềm, vải von,…Khi dẫn trẻ đến thăm quan mô hình công viên tôi dùng lời giới thiệu hấp dẫn để thu hút sự chú ý của trẻ vào giờ học. + Trong vườn có những loài hoa nào? ( hoa hồng, hoa cúc...) + Cô chỉ vào từng loại hoa cho trẻ quan sát, gọi tên, màu sắc của hoa. + Các loại hoa có những vẻ đẹp khác nhau, nhưng đều có ích lợi làm đẹp cảnh quan môi trường. Vì thế mọi người phải biết trồng hoa, chăm sóc hoa, đó là việc làm bảo vệ môi trường. Cô có bài thơ nói về các loài hoa đang đua nhau cùng nở rất hay đấy. Các con lắng nghe xem trong bài thơ có những loài hoa gì nhé. Sau đó cô đọc diễn cảm bài thơ cho trẻ nghe. Khi đọc lần 2 tôi cho trẻ xem tranh, khi đọc lần 3 tôi sử dụng mô hình chiếc nón kì diệu để đọc thơ cho trẻ nghe. Chiếc nón kì diệu được tôi làm từ tấm bìa cứng to ở phía dưới, sau đó tôi dùng các miếng xốp ngăn thành từng ô. Ở mỗi ô, tôi gắn hình ảnh của từng nội dung một, và khi đọc đến đâu tôi quay hình ảnh đến đó. Ở ô thứ nhất là hình ảnh của cây hoa cà nở, ô thứ 2 là hình ảnh của cây hoa huệ… 15 Ví dụ: Dạy trẻ bài thơ: “Cây bắp cải” - Chủ đề “Những loại rau quả bé thích”. Để thu hút trẻ vào bài một cách hứng thú, tôi đó sử dụng bằng vật thật để giới thiệu. Hôm nay cô có món quà tặng cho các con, các con hãy đoán xem đó là gì nhé ? Cô đưa cây bắp cải ra và hỏi: Đây là cây rau gì? (Rau Bắp cải), Loại rau này có trong bài thơ gì? Sau đó cô giới thiệu vào bài học. Như vậy việc sử dụng đồ dùng trực quan vô cùng quan trọng trong việc giúp trẻ lĩnh hội, tiếp thu kiến thức của bài học một cách nhanh nhất, vì vậy mà trong mỗi bài học cần linh hoạt trong việc sử dụng đồ dùng dạy học để giúp trẻ hứng thú tham gia giờ học, để giờ học đạt kết quả cao. 2.3.8. Xây dựng góc tuyên truyền và phối hợp vơí phụ huynh trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ. Gia đình là nơi gần gũi và quan trọng nhất đối với trẻ. Trẻ em là một tờ giấy trắng thì gia đình và nhà giáo dục là những cây bút màu vẽ lên những tác phẩm đầy màu sắc cho trẻ, vì thế công tác giáo dục phối hợp giữa gia đình và Nhà trường là một biện pháp quan trọng, góp phần nâng cao hoạt động phát 16 triển ở trẻ đặc biệt là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Vì vậy song song với việc dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, tôi luôn chú trọng đến việc phối kết hợp chặt chẽ với gia đình để trao đổi mọi hoạt động của trẻ cụ thể bằng các hình thức sau: Ở cửa lớp tôi xây dựng góc tuyên truyền “ Những điều phụ huynh cần biết” để phụ huynh dễ quan sát. Tôi lên kế hoạch lịch dạy trẻ một tuần học để cha mẹ cần biết được rằng hôm nay trẻ sẽ học gì? Ngày mai con mình sẽ được học gì? Như vậy sẽ tiễn cho phụ huynh biết để dạy trẻ ở nhà. Và tôi thấy đây là biện pháp rất hữu ích. Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu mở: Thùng giấy, sách báo cũ, dụng cụ hóa trang, vỏ chai, lon bia sạch… Trao đổi thêm với phụ huynh có cháu cá biệt: Nói ngọng, ít nói, để phụ huynh phối kết hợp cùng tôi trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn. Muốn dạy trẻ mầm non nói đúng ngữ pháp, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi 24-36 tháng tuổi cô giáo phải tuyên truyền tới các bậc phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của việc nói đúng ngữ pháp và tác hại của việc nói lắp, nói ngọng. Ở độ tuổi này trẻ hay bắt chước người lớn, nên người lớn không nói xuyên tạc theo ý thích của mình khi giao tiếp với trẻ, không nên nói bậy, nói lóng, nói thiếu văn hoá trước mặt trẻ, không nói những lời không phù hợp với lứa tuổi ấu nhi làm trẻ khó hiểu, đặc biệt câu nói phải rõ ràng mạch lạc, biểu cảm, các từ ngữ đầy đủ, cụm từ gần gũi với trẻ để trẻ nghe rõ, hiểu nghĩa của từ. Sau khi phối kết hợp với phụ huynh một thời gian tôi thấy vốn từ của trẻ được phát triển khá rõ, đặc biệt là việc nói ngọng cũng giảm đi đáng kể, trẻ phát âm chuẩn, nói rõ ràng trẻ hoạt động một cách sôi nổi tự tin, giao tiếp trước mọi người không còn rụt rè e sợ. Thực hiện biện pháp này mang lại hiệu quả rất cao. 2.4. Hiệu quả kiểm nghiệm. Những kết quả đạt được khi áp dụng biện pháp như sau: * Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng tháng 9 năm 2018 Kết quả thực trạng Đạt Chưa đạt Tổn Nội dung Tốt Khá TB Yếu Kém g số đánh giá S T S T S T S T S TL trẻ L L L L L L L L L % % % % % Khả năng nghe 12 3 25 3 25 5 42 1 8,0 hiểu của trẻ Khả năng phát âm 2 17 4 33 4 33 2 17 12 đúng từ Khả năng diễn đạt 2 17 5 42 4 33 1 8,0 ngôn ngữ giao 12 tiếp, nói mạch lạc * Bảng 2: Kết quả khi áp dụng biện pháp của lớp tôi áp dụng khảo sát tháng 03 nămm 2019: 17 Nội dung đánh giá Tổng số trẻ Tốt SL TL % Kết quả thực trạng Đạt Chưa đạt Khá TB Yếu Kém SL TL SL TL SL TL SL TL % % % % Khả năng nghe 12 5 42 6 50 1 8.0 hiểu của trẻ Khả năng phát âm 12 6 50 5 42 1 8,0 đúng từ Khả năng diễn đạt 12 5 42 4 33 3 25 ngôn ngữ giao tiếp So sánh kết quả khảo sát của bảng 1 và bảng 2 ta thấy số trẻ hiểu và tiếp thu bài tốt, khá được tăng lên rõ rệt. Số cháu trung bình giảm, cháu yếu không còn. - Trẻ phát âm đúng tiếng việt, nói rõ ràng mạch lạc hơn, hứng thú say mê trong học tập. Trẻ hoạt động không bị áp đặt, gò bó, phát huy được khả năng, năng lực của bản thân, giúp trẻ trở nên năng động sáng tạo.: - Trẻ mạnh dạn tự tin và hăng hái tham gia vào các hoạt động. - Nhận biết của trẻ được mở rộng, ngôn ngữ phát triển đúng đắn, vốn từ của trẻ phong phú. Trẻ nói được nhiều câu có nhiều từ, trẻ nói ngọng và tiếng địa phương chiếm tỉ lệ thấp. 3. Kết luận, kiến nghị. 3.1. Kết luận. - Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi 24 - 36 tháng rất quan trọng nó được thể hiện rõ ở các hoạt động trong ngày của trẻ ở trường mầm non, giúp trẻ hoàn thiện về nhân cách. Qua thời gian tìm tòi và thực hiện các biện pháp trên, kết quả khảo sát đầu năm so với kết quả cuối năm học của trẻ được tăng lên rõ rệt. Từ những kết quả trên tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm khi dạy trẻ phát triển ngôn ngữ. - Cô giáo phải yêu nghề mến trẻ, tận tụy với công việc, luôn tìm tòi nghiên cứu các hình thức, biện pháp dạy trẻ phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. - Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ - Cô giáo cần nắm vững tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ của cô phải mẫu mực chính xác đúng tiếng việt, không nói ngọng, nói lắp, không nói tiếng địa phương. - Để có được một tiết dạy tốt giáo viên phải chuẩn bị các cụm từ để tăng cường tiếng việt cho trẻ. Phải có đồ dùng trực quan đầy đủ, bền đẹp, đảm bảo tính thẩm mỹ và khoa học thu hút trẻ vào tiết học đạt kết quả cao. - Là người giáo viên cần làm rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tự rèn luyên ngôn ngữ cho mình để phát âm chuẩn tiếng phổ thông. Xây dựng môi trường học tập phong phú thuận lợi, tạo cảm xúc để kích thích trẻ đến với môi trường học tập. 18 - Chú ý lắng nghe trẻ nói, giúp đỡ, khích lệ động viên, thu hút trẻ trò chuyện với trẻ, với các bạn và với những người khác . - Phát hiện sớm những trẻ có khó khăn về ngôn ngữ, từ đó có biện pháp thích hợp để giúp đỡ trẻ Giáo viên cần phối kết hợp với phụ huynh về các biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mà cô đã thử nghiệm đạt kết qủa trên lớp và tuyên truyền cho phụ huynh về tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ, tăng cường tiếng việt cho trẻ. 3.2. Kiến nghị. - Đối với nhà trường: Đề nghị Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với các cấp, các ngành, làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục bổ xung thêm phòng học, mua sắm thêm trang thiết bị như: Ti vi, máy chiếu, đồ dùng đồ chơi để phục vụ các hoạt động học được tốt hơn. Xây dựng khuôn viên trường bổ sung thêm đồ chơi ngoài trời cho trẻ để giúp trẻ hoạt động đạt kết quả cao hơn. - Đối với phòng giáo dục: Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên tiếp thu học hỏi. Tổ chức các tiết học về chương trình nhà trẻ về tất cả các môn học, về cách sử dụng các phương tiện nghe nhìn tiên tiến: Cách sử dụng máy chiếu hình, ghi hình…Cung cấp bổ sung thêm các tài liệu, tập san cho các Nhà trường để giáo viên tham khảo phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học đối với hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi. Rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp để tôi tiếp tục làm tốt hơn nữa việc chăm sóc giáo dục trẻ 24 - 36 tháng tuổi cũng như các độ tuổi khác trong trường Mầm non Thành Sơn. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ. Bá Thước, ngày 24 tháng 03 năm 2019 Tôi xin cam đoan đây là SKKN Của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết sáng kiến. Nguyễn Thị Thường TÀI LIỆU THAM KHẢO STT TÊN TÀI LIỆU NHÀ XUẤT BẢN NĂM XUẤT BẢN 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan