Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn một số giải pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi lớp hoa hồng tr...

Tài liệu Skkn một số giải pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi lớp hoa hồng trường mầm non trường thi a, thành phố thanh hoá

.DOC
19
19
139

Mô tả:

1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: “Một đứa bé không phải là một chiếc lọ hoa để đổ cho đầy mà là một ngọn lửa cần được thắp sáng”- Rabelais. Đúng như câu nói của nhà văn Pháp nổi tiếng, trẻ em giống như môt ngọn lửa, chúng ta cần thắp lên ngọn lửa ấy bằng tình yêu, sự chăm sóc và giáo dục đúng cách, để rồi mỗi trẻ em là một chủ nhân tương lai của đất nước. Muốn làm được điều đó thì cần có sự chung tay, góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội, đặc biệt là phương pháp giáo dục trẻ. Trong những năm gần đây, giáo dục luôn không ngừng đổi mới về hình thức, nội dung và phương pháp tổ chức dạy học cho trẻ. Giáo dục kỹ năng sống là nội dung được rất nhiều người quan tâm. Đặc biệt giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là một nội dung và nhiệm vụ quan trọng của cấp học mầm non. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, về đặc điểm tâm sinh lý trẻ em dưới 6 tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hóa. Thực tế kết quả của nhiều nhà nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học ở lứa tuổi mầm non chính là những kỹ năng sống như: Sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Giáo dục kỹ năng sống đang trở thành một nhiệm vụ vô cùng quan trọng không chỉ đối với mỗi cá nhân chúng ta mà là trách nhiệm giáo dục của toàn xã hội. Bởi vậy, dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non sẽ giúp trẻ làm chủ cuộc sống, sống an toàn, lành mạnh và có chất lượng hơn trong xã hội hiện đại với nền văn hoá đa dạng và kinh tế phát triển như hiện nay đang trở thành nhu cầu thiết yếu. Sự bùng nổ của thông tin với những suy thoái về đạo đức và với những mặt trái của công nghệ, và với những cạm bẫy thì việc giáo dục kỹ năng sống sẽ góp phần giúp những đứa trẻ chủ nhân tương lai của đất nước xác định đường đi đúng đắn, trang bị đầy đủ cả về đức – trí – thể - mĩ ngày một đi lên và phát triển. Chưa bao giờ giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo được nhà trường và các bậc cha mẹ quan tâm như hiện nay. Và chính trường mầm non và gia đình là môi trường rèn luyện tốt nhất các kỹ năng sống cho trẻ. Tuy nhiên, việc rèn cho trẻ kỹ năng sống thế nào cho đúng, mang lại hiệu quả cao thì đang là một vấn đề quan trọng cấp thiết cần được quan tâm trong nền giáo dục hiện nay. Hơn nữa, không phải phụ huynh nào cũng hiểu được tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống và tại sao lại phải rèn kỹ năng sống, bởi nó ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách trẻ sau này. Chính vì vậy, ngay từ giai đoạn mầm non trẻ cần được trang bị kỹ năng sống để định hướng phát triển cá nhân một cách tốt nhất. Bản thân tôi đang là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp mẫu giáo 4-5 tuổi, tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để giúp trẻ có những kỹ năng sống tốt nhất, hiệu quả nhất, từ đó nâng cao chất lượng về rèn kỹ năng sống cho trẻ tại ngôi trường Mầm non Trường Thi A mà tôi đang công tác. Với trái tim của một người mẹ thứ hai, tôi ý thức sâu sắc được tầm quan trọng của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ, tôi lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi lớp Hoa Hồng trường Mầm Non Trường Thi A”. 1 1.2. Mục đích nghiên cứu: Tìm ra các giải pháp hay để nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng sống cho trẻ giúp trẻ năng động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin khi tham gia các hoạt động trong ngày. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện của nhà trường. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi l ớp Hoa Hồng trêng MÇm Non Trường Thi A Thành Phố Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp lý luận: Nghiên cứu, tham khảo một số văn bản, tài liệu qua mạng, sách báo, trích dẫn một số nội dung liên quan tới đề tài. - Phương pháp quan sát: Quan sát trẻ khi tham gia hoạt động, quan sát về biểu hiện của nhu cầu, ý thức của trẻ. - Phương pháp thống kê: Sử dụng cách thống kê toán học để thu thập và xử lý thông tin. Phân tích tổng hợp kết quả khảo sát. 2. NỘI DUNG: 2.1 Cơ sở lí luận: Kỹ năng sống là một quá trình tác động sư phạm có mục đích có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực có liên qua tới kiến thức và thái độ giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp quan hệ xã hội, thực hiện công việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống hàng ngày (Theo Ismartkids – Phát triển tài năng trẻ em) Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là những hoạt động tích cực hướng vào những hoạt động cá nhân hoặc một nhóm trẻ với mục đích giúp trẻ có thể ứng phó hiệu quả với các tình huống thách thức trong cuộc sống hành ngày. Định hướng của giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với cộng đồng và xã hội, thích nghi, học tập hiệu quả, nâng cao sức khỏe tinh thần và thể chất, ứng phó tích cực trong các tình huống của cuộc sống. Ở lứa tuổi mẫu giáo, kỹ năng sống chiếm một vị trí hết sức quan trọng nó góp phần giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp trẻ học tập, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội để trẻ vận dụng trong cuộc sống sau này. Xã hội hiện nay, kiến thức của con người ngày càng phát triển và mở rộng, cá nhân mỗi người nếu không được bồi dưỡng và cập nhật thông tin kịp thời sẽ trở thành lạc hậu, hơn nữa, yêu cầu về chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng cao. Để hình thành và có được các kỹ năng trong cuộc sống hàng ngày, trước tiên giáo viên phải có kiến thức, kỹ năng về chăm sóc giáo dục trẻ, kiến thức để tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải nghiệm để trẻ được cuốn hút hứng thú vào các hoạt động đa dạng khác nhau cùng với các bạn trong lớp. Tạo ra nhiều cơ 2 hội để trẻ tương tác, giao tiếp với nhau trong lớp như: Thảo luận, trao đổi ý kiến, giải quyết xung đột, chia sẻ kinh nghiệm những vai trò khác nhau, tạo ra nhiều cơ hội để trẻ được tham gia và cảm thấy mình là một thành viên trong nhóm chơi và trẻ có cơ hội để phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin, góp phần thúc đẩy sự phát triển, tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ. 2.2. Thực trạng việc rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi lớp Hoa Hồng trường Mầm Non Trường Thi A: 2.2.1. Thực trạng: * Thuận lợi: Trong lớp được bố trí hai giáo viên, bản thân tôi đã tốt nghiệp Đại học sư phạm Mầm Non và có thời gian công tác lâu năm nên có nhiều kinh nghiệm cùng với một giáo viên trẻ nên có nhiều thuận lợi trong công tác giảng day. Trong lớp, hai cô luôn phối kết hợp thống nhất về cả phương pháp và biện pháp dạy trẻ, nắm được tâm sinh lý của trẻ về những thói quen của trẻ hàng ngày. Ngoài ra, tôi luôn được sự quan tâm chỉ sát sao của Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện kỹ năng sư phạm, tăng cường cơ sở vật chất, cung cấp đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi nhằm phục vụ tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Đa số các bậc phụ huynh luôn quan tâm tới các con và thường xuyên trao đổi thông tin với cô giáo. Phần lớn trẻ đi học chuyên cần, khỏe mạnh nhanh nhẹn, tích cực tham gia vào các hoạt động của lớp. * Khó khăn: Hầu hết các bậc phụ huynh có xuất phát từ nhiều ngành nghề khác nhau và chủ yếu là lao động tự do nên còn chưa coi trọng việc rèn kỹ năng cho trẻ, nếu có cũng rất phụ huynh ít hiểu đúng cách rèn kỹ luyện kỹ năng cho con em mình. Đôi lúc còn nóng vội trong việc dạy con, lo lắng thái quá đưa ra các yêu cầu mà trẻ phải làm khi chưa đến độ tuổi; nhưng đồng thời lại nuông chiều, làm giúp trẻ những công việc bản thân trẻ có thể tự làm được khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ bản thân hình thành ở trẻ thói quen ỷ lại vào người khác Trong lớp có một số trẻ các kỹ năng, nhận thức, tiếp thu bài chậm hơn so với các bạn cùng lứa tuổi, sống thu mình ít hoạt động cùng các bạn, sinh hoạt chưa có nề nếp, theo lối tự do hoặc đôi khi còn bỡ ngỡ và nhút nhát không tham gia vào hoạt động của lớp tổ chức. Sự phát triển về nhận thức và giao tiếp của trẻ không đồng đều, đa số trẻ rụt rè và chưa có kỹ năng, chưa nhanh nhẹn tham gia vào các hoạt động cũng như mạnh dạn trò chuyện với cô và các bạn. Do tác động của xã hội trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống hiện đại như: Internet, ti vi, điện thoại, các trò chơi điện tử... đang là vấn đề nghiêm trọng trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Phần lớn gia đình trẻ hiện nay ít con nên trẻ được sống trong môi trường đầy đủ quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh. 3 Cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều khó khăn, diện tích phòng nhóm lớp còn chật hẹp ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động và thực hành trải nghiệm của trẻ, gây khó khăn trong công tác chăm sóc giáo dục 2.2.2. Kết quả thực trạng Qua điều tra thực tế về vốn kỹ năng sống của trẻ trong lớp tôi, tôi nhận thấy kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài tại thời điểm tháng 9/2018 như sau: * Về phía trẻ: Tổng số trẻ được khảo sát: 40 trẻ Mức độ đạt Mức độ chưa đạt Nội dung khảo sát Sốố Tỷ lệ Sốố Tỷ lệ lượng lượng 1. Kỹỹ năng giao tếếp, chào hỏi 2. Kỹỹ năng tự lập, tự phục vụ 3. Kỹỹ năng hợp tác, hoạt động cùng nhóm 4. Trẻ mạnh dạn tự tn 5. Kỹỹ năng nhận thức 6. Kỹỹ năng vận động 7. Kỹỹ năng thích nghi 8. Kỹỹ năng vệ sinh 15/40 17/40 12/40 37,5% 42,5% 30% 25/40 23/40 28/40 62,5% 57,5% 70% 12/40 13/40 15/40 10/40 12/40 30% 32,5% 37,5% 25% 30% 28/40 27/40 25/40 30/40 28/40 70% 67,5% 62,5%5 75% 70% * Về phía giáo viên. Có đôi lúc giáo viên còn chưa chú trọng đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ dẫn đến kết quả trên trẻ chưa cao và làm cho công tác phối kết hợp với phụ huynh trong công tác rèn kỹ năng sống cho trẻ chưa chặt chẽ. Một số ít giáo viên mới ra trường, kinh nghiệm và kỹ năng sư phạm chưa nhiều, hoặc đang trong độ tuổi sinh đẻ và nuôi con nhỏ, chưa tự tin nêu cao vai trò trách nhiệm trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. * Về phía phụ huynh: Một số phụ huynh chưa có nhận thức đúng đắn trong việc giáo dục kỹ năng sống, chưa có hành vi đúng đắn và lời nói mẫu mực đối với trẻ. Chưa thường xuyên trao đổi phối hợp cùng với cô giáo, chưa biết vài trò trách nhiệm của cha mẹ có tầm quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng của trẻ sau này. Phụ huynh còn nuông chiều trẻ thường làm thay cho trẻ những công việc mà trẻ yêu cầu. Từ những tình hình và số liệu trên cho thấy kỹ năng sống và việc thực hiện kỹ năng sống của trẻ là rất thấp. Vì vậy mà tôi đã mạnh dạn lựa chọn những giải pháp giúp trẻ có thể trang bị đầy đủ các kiến thức về kỹ năng sống và đồng hành cùng với trẻ trong các hoạt đông của lớp thông qua đề tài: "Một số giải 4 pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi lớp Hoa Hồng trường Mầm Non Trường Thi A” 2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng sống cho trẻ 2.3.1. Trau dồi kiến thức, bồi dưỡng bản thân, chia sẻ với đồng nghiệp: Để có thể thực hiện tốt "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi" trước hết giáo viên mầm non không chỉ nghiên cứu nắm vững mục đích yêu cầu của hoạt động mà giáo viên còn cần phải nắm chắc được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không bị gò bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu và vận dụng những điều đã học vào thực tế hàng ngày của trẻ. Vì vậy, để giúp trẻ 4 - 5 tuổi lớp tôi có được những kỹ năng sống cơ bản đó thì sự nhiệt tình, sáng tạo và yêu nghề đòi hỏi tôi phải không ngừng đọc và nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non 4 - 5 tuổi. Tham gia tiếp thu học tập chuyên đề do trường tổ chức để kịp thời bổ sung lồng ghép vào trong các hoạt động của lớp Tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp chí mầm non: Sách hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ mầm non Sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non (nhà xuất bản Đại học Quốc gia) Sách bé thực hành các tình huống giáo dục kỹ năng sống dành cho trẻ mẫu giáo. Sách các hoạt động phát triển kỹ năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo. Sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống. Theo dõi chuyên mục trên các kênh truyền hình như: Giáo dục kỹ năng sống trên kênh Bibi của truyền hình cáp; hay chương trình kỹ năng sống của VTV3 Đài truyền hình Việt Nam phát sóng vào các thứ 7 và chủ nhật hàng tuần Trên thực tế hiện nay ở trường mầm non Trường Thi A chúng tôi, đội ngũ giáo viên còn chưa được đồng đều. Một số giáo viên trẻ mới ra trường kinh nghiệm kỹ năng nghề nghiệp còn hạn chế và chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Qua kiểm tra, đánh giá đầu năm có rất nhiều trẻ còn chưa biết chào cô, chào khách, chưa có kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự phục vụ... Trong các hoạt động hàng ngày việc dạy kỹ năng sống cho trẻ hiện nay chưa thực hiện tốt, chưa lồng ghép tích hợp vào các hoạt động, giáo viên chưa thực sự quan tâm và đi sâu vào hoạt động này, tôi nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng cần phải có những giải pháp tối ưu nhất để khắc phục tình trạng này vì nó quyết định đến nhân cách của trẻ sau này. Chính vì vậy qua việc tự bồi dưỡng bản thân, học hỏi qua truyền thông, báo đài, tài liệu cũng như xem các phương tiện thông tin hiện đại, tôi phần nhiều hiểu được vài trò trách nhiệm của mình đối với việc rèn kỹ năng cơ bản nhất cho trẻ, đưa ra các phương pháp để giúp trẻ lĩnh hội những kiến thức cũng như kỹ năng sống hàng ngày trẻ cần phải có. Nhận thấy đây là việc quan trọng và cần thiết đối với trẻ nên trong các buổi 5 họp sinh hoạt chuyên môn của khối tôi chia sẻ với đồng nghiệp về các biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ. Để dạy trẻ được những kỹ năng sống thì việc đầu tiên cô giáo phải là tầm gương để trẻ soi vào, để trẻ học làm người. Chính vì vậy, không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp "Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách". Những người dạy nội dung giá trị và kỹ năng sống càng cần là tấm gương mẫu mực về hành vi, lời ăn, tiếng nói, cách ứng sử, cách giải quyết vấn đề... Đây là những yêu cầu rất cao và đòi hỏi các cô giáo cũng luôn phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục trẻ hiệu quả hơn. Và tôi đưa ra những điều mà giáo viên nên và không nên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đó là: Không nói dài và nói nhiều; Không luôn đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tòi; Không vội vàng phê phán đúng, sai như một quan tòa nhưng kiên trì giúp trẻ tranh luận và kết luận. Ví dụ: Khi cô quan sát thấy có hai trẻ chơi với nhau và có một trẻ khóc. Cô đến gần không phải vội vã quát mắng trẻ kia mà cô nhẹ nhàng hỏi thăm nguyên nhân vì sao lại làm bạn khóc và giúp trẻ hiểu được bạn bè là phải biết yêu thương chia sẻ, không được gây gỗ tranh giành và nếu gặp khó khăn phải cùng nhau giải quyết Không mớm ý cho trẻ phát biểu ý kiến mà người lớn trông đợi. Ví dụ: Khi có hoạt động có Ban giám hiệu dự giờ không nên rèn luyện dạy trẻ quá nhiều trẻ rất dễ bị nhàm chán dẫn đến hiệu quả của tiết học không cao mà cô chỉ nên rèn cho trẻ về những hình thức tổ chức và cần chuẩn bị những câu hỏi mở để trẻ suy nghĩ phát huy khả năng hiểu biết ở mỗi trẻ. Không nên bắt trẻ hoạt động liên tục mà phải để dành thời gian và khoảng trống cho trẻ suy nghĩ. Và cô giáo có thể tổng kết, kết luận nhưng với thái độ thư giãn, thoải mái, gợi mở. Hay ví dụ như: "Hôm nay các con đã tự mình làm được nhiều việc mà không phụ thuộc vào người khác, các con là những em bé rất giỏi các con rất xứng đáng nhận được một tràng pháo tay". Điều này sẽ giúp cho trẻ tự tin hơn, dám tự tìm tòi và suy nghĩ, giám đưa ra ý kiến của mình. Quả thật việc thay đổi nếp cũ là rất khó, nhưng trong những buổi sinh hoạt tôi thường đưa những giá trị của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như: - Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ. - Kiên nhẫn và có kỹ năng lắng nghe tốt. - Ý thức về bản thân và sẵn sàng học những kỹ năng mới. - Có kinh nghiệm sống và biết soi xét. - Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình lên trẻ. - Thực hành tư duy sáng tạo và khai phá. - Biết sắp xếp phòng, nhóm lớp tạo bầu không khí hấp dẫn. - Biết chủ động phương pháp giáo dục. Tác động kịp thời khi nhóm bế tắc. - Biết tạo bầu không khí trò chuyện sôi nổi. 2.3.2. Xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh thân thiện cho trẻ Dạy trẻ mầm non kỹ năng giao tiếp là rất cần thiết nhưng ta cần xác định được nên dạy trẻ các kỹ năng giao tiếp nào cho trẻ. Trẻ đến trường, thì việc đầu 6 tiên là trẻ giao tiếp với cô, các bạn trong lớp học và mọi người xung quanh. Hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ không phải là dạy trẻ nói nhiều mà dạy cho trẻ cách giao tiếp, ứng xử thế nào cho đúng. Môi trường giao tiếp luôn an toàn, thân thiện sẽ tạo cho trẻ sự yên tâm, hưng phấn khi tham gia hoạt động. * Xây dựng môi trường trong lớp học, tạo điều kiện để trẻ được giao lưu tương tác với các bạn. Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là nơi đa văn hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích. Mô hình này tạo cơ hội cho giáo viên có thể dạy cho trẻ học cách chấp nhận và có cơ hội để trẻ được khám phá những sở thích, những mối quan tâm chung của nhau. Trong lớp việc xây dựng các góc chơi cũng rất quan trọng vì khi trẻ tham gia vào các góc chơi chính là lúc trẻ đang học cách giao tiếp với các bạn. Và việc đầu tiên tôi cần tạo môi trường thật tốt để trẻ có cảm giác thoải mái khi đến lớp và trẻ có nhu cầu giao tiếp bằng lời. Trong các các hoạt động hàng ngày của trẻ ở lớp tôi luôn dùng những trò chơi hay câu đối khích lệ trẻ tham gia, qua đó sẽ giúp trẻ tự tin và cởi mở hơn trong giao tiếp Ví dụ: Trong lớp tôi có cháu Bảo Trúc và cháu Linh Chi rất ít nói, ít tham gia vào các hoạt động của lớp do cháu nhút nhát. Với những trẻ nhút nhát, trẻ ít tham gia vào các hoạt động thì tôi thường xuyên gọi trẻ trả lời trong các hoạt động và cho trẻ nhập vào các nhóm chơi như: bán hàng, nấu ăn vì các góc chơi này yêu cầu trẻ phải giao tiếp nhiều hơn. Ngôn ngữ là cái riêng của mỗi cá nhân và nó nên được phát triển một cách tự nhiên, do đó sẽ có những lúc trẻ nói sai khi đó không nên la mắng trẻ mà tôi sẽ giúp trẻ nói lại cho đúng nếu chê bai trẻ sẽ càng tạo cho trẻ cảm giác không tự tin vào bản thân và như vậy càng khiến trẻ giao tiếp càng ngày càng ít đi. Không khí trong giờ học ảnh hưởng rất lớn đến sự giao tiếp của trẻ, cô phải luôn tạo cho trẻ cảm giác thật thoải mái để cho trẻ mạnh dạn giao tiếp. Trẻ con bất cứ lúc nào cũng muốn thể hiện mình một cách linh hoạt, rõ ràng nên khi trẻ gặp khó khăn trong việc giải thích một cái gì đó thì tôi luôn nhẹ nhàng, khuyến khích trẻ nói ra những điều trẻ đang nói, không ngắt lời hay tỏ ra không tôn trọng trẻ. Trong các hoạt động kỹ năng thì kỹ năng chơi đối với trẻ cũng là một kỹ năng góp phần hình thành nhân cách trong con người trẻ, tạo môi trường cho trẻ giao tiếp với nhau và tạo tình huống cho trẻ tự giải quyết. Và tôi đưa ra tiêu chí không tranh giành đồ chơi với bạn, trong tiêu chí mà tôi lên kế hoạch rèn cả lớp nói chung, cứ vào các buổi chiều bình bầu và nhận xét buổi chơi, tôi cho cả lớp nhận xét xem trong giờ chơi bạn nào còn tranh giành đồ chơi thì bạn đó sẽ không được cắm cờ, cuối tuần bạn nào có nhiều cờ sẽ được bé ngoan, ngoài ra trong các giờ chơi, giờ đón trả trẻ, trẻ nào có biểu hiện hành vi sai trái là tôi giải thích và sửa ngay cho trẻ, việc làm đó rất tốt đối với trẻ vì trẻ biết được điều gì nên làm và điều gì không nên làm và nhân cách sống của trẻ sẽ được phát triển toàn diện hơn. Ngoài ra tôi còn sưu tầm một số câu chuyện, bài thơ mang tính giáo dục. Giúp trẻ rút ra bài học cho mình thông qua các nhân vật trong câu chuyện, bài thơ khi giao tiếp với nhau như: 7 Bài thơ: Biết cảm ơn, xin lỗi" Cảm ơn xin lỗi Dù với ai cũng phải Ai giúp cho cái gì Xin lỗi cho đàng hoàng Nhớ cảm ơn ngay đi Muốn trở thành bé ngoan Lỡ làm điều sai trái Phải biết làm như vậy Ngoài ra tôi còn dạy trẻ “Giao tiếp” bằng mắt và nở một nụ cười thân thiện, tự nhiên. Dạy trẻ phải luôn giữ lời hứa khiến cho buổi nói chuyện trở nên thật thoải mái, thật chân thành khi tham gia hoạt động vui chơi ở lớp. * Xây dựng môi trường để trẻ được rèn luyện kỹ năng chào hỏi khi giao tiếp với cô giáo, các bạn và người lớn tuổi. Trong giáo dục kỹ năng sống thì kỹ năng giao tiếp là không thể thiếu. Khi trẻ mới bắt đầu đến trường, việc đầu tiên là trẻ sẽ có nhu cầu giao tiếp với các bạn và sau đó là cô giáo, mọi người lớn tuổi xung quanh trẻ. Phần lớn các cháu đều chưa có các kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng chào hỏi... bởi lí do phụ huynh chủ yếu là lao động tự do, ít có thời gian dành cho trẻ, họ chưa có khái niệm dạy kỹ năng cho trẻ, mà chủ yếu là nuông chiều với suy nghĩ đơn giản là trẻ nhỏ chưa biết gì, coi đó là vấn đề chưa quan trọng. Nhưng điều đó sẽ tạo nên những hành vi và nhận thức sai lệch của trẻ mà dần dần sẽ biến thành thói quen khó thay đổi. Ví du: Khi có khách của bố mẹ vào nhà thì việc đầu tiên là trẻ phải chào ông, bà hay cô chú… nhưng nếu vì nghĩ trẻ nhỏ không quan tâm, không hình thành kỹ năng khi gặp người lớn phải chào hỏi cho trẻ từ nhỏ thì lớn lên sẽ dần hình thành một đứa trẻ không ngoan, không lễ phép… Và đối với trẻ, người lớn việc cần thiết tập cho trẻ những lời nói lễ phép và tự nhiên và không quá màu mè và hình thức, cũng không được phép cộc lốc và xuồng xã. Điều này trẻ sẽ học được một cách hiệu quả thông qua cách giao tiếp và ứng xử của bố, mẹ, người thân trong gia đình, cô giáo và người khác. Nếu trong gia đình đôi khi chúng ta sẽ không kiểm soát được những lời nói chưa chuẩn mực hay không có hành vi lịch sự tối thiểu, điều đó sẽ tác động ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ. Trong xã hội hiện nay, với công nghệ tiên tiến, phát triển không ngừng về mọi mặt thì những kỹ năng giao tiếp, chào hỏi tối thiểu lại mất dần đi. Và tôi đưa kỹ năng chào hỏi và kỹ năng giao tiếp vào những giờ đón, trả trẻ đã thực sự nhận thấy hiệu quả rõ rệt Ví dụ: Khi trẻ có thói quen nói không đủ câu. Để lâu dần sẽ tạo thành thói quen không tốt như: Trẻ muốn giành một món đồ gì đó trẻ nói: “Đưa đây” hay “trả đây”? Nếu chúng ta kịp thời giúp trẻ chỉnh sửa lại cho đúng thì trẻ sẽ làm được và sẽ thay đổi thành những lời nói lễ phép: “Anh trả lại cho em đi?”. Nhưng nếu ta coi việc đó là bình thường thì chắc rằng đó là mối nguy hiểm ảnh hưởng đến nhân cách trẻ sau này. Với trẻ chưa có kỹ năng giao tiếp nhiều với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi trẻ hơn, trò chuyện với trẻ nhiều hơn về những người thân của trẻ, về thế giới xung quanh từ đó trẻ sẽ mạnh dạn hơn khi tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn bè và người khác. Ngoài ra, tôi còn sưu tầm những bài thơ, câu chuyện, bài hát có nội dung giáo dục về lễ phép đưa vào trong chương trình với nội dung cụ thể như: 8 Bài thơ: Che mưa cho bạn, Phải là hai tay, Cảm ơn xin lỗi, và phô tô gửi cho phụ huynh để phụ huynh nắm được và giúp trẻ học thuộc các bài thơ đó. Qua đó giúp trẻ có những hành vi và kỹ năng tốt qua các bài thơ, câu chuyện "Bà ốm, yêu bà, Thương ông, bó hoa tặng cô, bé mai đến trường... Tôi cũng tự sáng tác được một số bài thơ giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như bài thơ "Bé ngoan" Bé thật là ngoan Chào các bạn yêu Mỗi khi đến lớp Đến lớp thật vui Bé khoanh tay chào Học bao nhiêu điều Chào cô chào mẹ Thích ơi là thích Thông qua những giờ học, tôi lồng ghép những nội dung giáo dục, cách giao tiếp với người lớn tuổi và cho trẻ tham gia trò chơi đóng vai để trải nghiệm những kỹ năng trong giao tiếp và diễn đạt nhu cầu mong muốn của mình Tạo tình huống cụ thể để giúp trẻ giải quyết và chọn cách giao tiếp với người lớn cho phù hợp. 2.3.3 Tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động có chủ định và hoạt động vui chơi. Trong trường mầm non không có hoạt động chủ đích giáo dục kỹ năng sống riêng biệt mà thông qua sử dụng các tính huống tích hợp lồng ghép các nội dung qua các giờ hoạt động như: Văn học; khám phá khoa học; Âm nhạc; tạo hình; thể dục... Chính vì vậy, lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động có nhiều ưu thế nhằm hình thành kỹ năng sống tự tin, hợp tác, giao tiếp, tự phục vụ bản thân… * Giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động học có chủ định. Thông qua hoạt động làm quen văn học: Với tiết kể chuyện "Hai chú gấu tham ăn", tiết "Mèo đi câu cá". Tôi kể cho trẻ nghe, đặt câu hỏi đàm thoại để trả lời, cho trẻ nhập vào vai các nhân vật trong câu chuyện, giáo dục trẻ làm việc theo nhóm, không tham lam ích kỷ, biết lắng nghe ý kiến của người khác, tôn trọng hợp tác với bạn bè, với những người xung quanh. Thông qua hoạt động nghệ thuật: Như nhảy múa, ca hát, vẽ tranh... Tôi sẽ kích thích trẻ bộc lộ những suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, khả năng tưởng tượng và sáng tạo của mình. Ví dụ: Trong tiết vận động múa minh họa cho bài hát "Gia đình nhỏ hạnh phúc to": Trẻ nói: Cô ơi con không biết múa. Cô: Thế con có yêu quý gia đình của mình không nào? Nếu con yêu quý gia đình của mình, vậy thì chúng ta sẽ cùng nhau để thể hiện tình cảm về gia đình của mình nhé. Từ những lời động viên khích lệ đó sẽ có hứng thú và tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong hoạt động để từ đó trẻ sẽ mạnh dạn, chủ động, tự tin trong những giờ hoạt động khác... Thông qua hoạt động khám phá khoa học: Qua bài: “Trò chuyện với trẻ về lợi ích của nước”. Trẻ biết được nước đóng vai trò quan trọng đối với sự sống: con người, động vật và thực vật. Vai trò của nước với con người như thế nào? Nước đối với động thực vật thế nào? Cô xây dựng những câu hỏi mở để buộc trẻ phải suy nghĩ và nhiều trẻ tham gia trả lời như: Trong cuộc sống hàng 9 ngày con người chúng ta sử dụng nước để làm gì? Nếu thiếu nước con người, động thực vật sẽ ra sao? Cứ như vậy trong một tiết học với hàng loạt câu hỏi cô đưa ra thì trẻ nào cũng được tham gia, với trẻ ít nói cô gọi nhiều và thường xuyên hơn. Thông qua hoạt động thể dục: Tôi tổ chức cho trẻ các vận động như: Bò qua chướng ngại vật, đi trên ghế thể dục, chuyền bóng, bật qua vật cản, nhảy từ độ cao 35cm, ném trúng đích thẳng đứng, bật liên tiếp qua 5 vòng,...qua đó rèn cho trẻ các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin, khéo léo khi tham gia vận động, biết bảo vệ sức khỏe. Thông qua hoạt động "làm quen với toán" đề tài "So sánh, thêm bớt để tạo sự bằng nhau trong phạm vi 4, tôi sử dụng trò chơi thêm bớt các phương tiện giao thông để tạo thành nhóm có số lượng là 4, đội nào nhanh làm chính xác đội đó sẽ chiến thắng. Như vậy buộc trẻ phải thảo luận với nhau, hợp tác mới hoàn thành bài tập và trong giờ học nào tôi cũng sưu tầm những đồ dùng sáng tạo. Thông qua chủ đề gia đình tôi cho trẻ chia sẻ những thông tin về gia đình, cho trẻ kể về những thành viên trong gia đình mình, những việc mà trẻ thường làm ở nhà, qua đó giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, lắng nghe người khác nói, nói rõ ràng để bạn hiểu. * Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động vui chơi. Với trẻ mầm non hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động của trẻ ở trường, thông qua giờ chơi trẻ được đóng các vai khác nhau trong xã hội, trẻ đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ nhì thấy trong cuộc sống. Tất cả những kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có được trẻ sẽ thể hiện qua hoạt động vui chơi. Vui chơi là hoạt động tạo cho trẻ nhiều hứng thú và cũng là cơ hội cho trẻ vận dụng được nhiều kiến thức. Trẻ được thử nghiệm nhiều vai trò khác nhau qua các vai chơi, được phát huy trí tưởng tượng sáng tạo, học hỏi và hợp tác với các bạn cùng chơi. Chính vì vậy tôi luôn chú trọng đến việc tái tạo các tình huống khi trẻ trẻ đóng vai để trẻ tìm cách giải quyết cũng như quan sát những điều trẻ thể hiện được những kiến thức mà trẻ đã có. Ví dụ: Qua góc phân vai ở chủ đề gia đình. Khi tôi đóng vai một người người lạ đến gõ cửa khi trẻ ở nhà một mình thì trẻ sẽ biết nhắc nhau: “Đừng mở cửa, phải đợi bố mẹ về”. Hoặc khi tôi đưa ra tình huống khi đi siêu thị: “Con bị lạc bố mẹ ở siêu thị” thì trẻ biết cách xử lí tình huống bằng cách nhờ người lớn tuổi xung quanh gọi điện cho bố mẹ. Hay với góc chơi "bán hàng" thông qua trò chơi này ngoài việc trẻ hiểu được công việc của người bán hàng và mua hàng trẻ còn phải biết thưa gửi lễ phép. Giai đoạn đầu trẻ còn chưa mạnh dạn trong khi chơi, tôi nhập vai làm người bán hàng khi cháu mua hàng tôi chủ động hỏi trẻ "Bác ơi bác mua thứ gì nào? Trẻ nói mua rau- trả tiền này. Tôi phải sửa ngay cho trẻ. Khi mua hàng con phải hỏi bác ơi bao nhiêu tiền một mớ rau, bán cho tôi một mớ ạ, nếu trẻ đã biết thưa gửi lễ phép tôi sẽ gắn cho trẻ một bông hoa vào áo và cuối ngày nhận xét trước lớp. Con người sinh ra và lớn lên không ai chỉ có một mình. Trong cuộc sống chúng ta có gia đình, có bạn bè, đồng nghiệp, các mối quan hệ xã hội. Cuộc sống hiện đại việc biết cách hòa đồng, biết làm việc theo nhóm, tận dụng sức mạnh ưu thế của tập thể để đạt được kết quả tốt nhất là một trong kỹ năng quan 10 trọng. Bởi vậy, trong quá trình trẻ được chơi, sẽ giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Từ đó sẽ giúp trẻ kỹ năng hợp tác biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn biết hoạt động theo nhóm, trẻ hiểu được khi tham gia chơi với nhau là cần phải biết phối hợp cùng các bạn sẽ đem lại hứng thú hơn trong quá trình chơi, trẻ được rèn luyện kỹ năng làm việc sẽ là yếu tố quan trọng trong cuộc sống hiện tại của trẻ và tương lai sau này. Ví dụ: Ở trò chơi đóng vai. Với góc chơi xây dựng trong chủ đề "Giao thông" trong khi xây dựng thì tất cả trẻ trong nhóm phải cùng nhau thảo luận, phân công công việc cho nhau và cùng làm công việc được giao, cuối cùng trẻ hoàn thành công trình đã xây dựng. Đó là một cách hợp tác cùng làm việc. Ví dụ: Trong góc chơi học tập: Mỗi trẻ sẽ được phân công theo nhóm để nhận nhiệm vụ: bạn nào đố hình, bạn nào xếp chữ số bằng hột hạt, bạn nào học thẻ số,... Từ đó trẻ sẽ học và làm việc cùng nhau theo nhóm và biết tuân thủ theo mệnh lệnh của nhóm trưởng. Với hoạt động này tôi thường xuyên tổ chức cho trẻ các trò chơi như: Cô giáo, bác sỹ, xây dựng doanh trại, xây dựng ngã tư đường phố... Các trò chơi đóng kịch, Cây tre trăm đốt, hai anh em, quả bầu tiên... Thông qua đó để giáo dục những kỹ năng sống cho trẻ, bời trong các trò chơi xã hội này trẻ sẽ được hình thành và phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo. Hay thông qua góc chơi trọng tâm là tạo hình: Tôi thường xuyên sưu tầm những đồ dùng, những phế liệu, những lá cây khô, dây trang kim, nhũ màu, màu nước... Để trẻ tự tạo nên những bức tranh, những con vật. Từ đó trẻ có những kỹ năng cầm kéo và cắt khéo léo, kỹ năng tô màu, kỹ năng vẽ, kỹ năng phân công công việc cho bạn trong nhóm mình.Ví dụ: Trong tiết tạo hình chiếc lá, tôi sẽ sưu tầm tận dụng những chiếc lá khô trong vườn trường với nhiều hình dạng khác nhau để in tạo hình chiếc lá ... * Giáo dục kỹ năng sống qua góc thực hành kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ nhỏ vốn luôn hiếu động, hiếu kỳ muốn khám phá những điều mới lạ. Trong cuộc sống ngày nay, khi xã hội ngày càng hiện đại, phát triển thì những mối nguy hiểm cho con trẻ ngày nhiều. Những nguy hiểm có thể xảy ra với trẻ tiềm ẩn không chỉ ở gia đình, trường học mà còn ở bất kỳ đâu trong cuộc sống. Bởi vậy, để trẻ có thể tự bảo vệ mình trước những nguy hiểm cần hình thành cho trẻ những kỹ năng và thói quen cần thiết. Ví dụ: Khi trẻ gặp người lạ, trẻ sẽ biết hạn chế ít giao tiếp với họ, nếu người lạ cố ý tiếp cận thì trẻ sẽ biết cách tìm người lớn xung quanh có thể tin tưởng giúp đỡ để người lạ không thực hiện ý đồ của họ. Ngoài ra, tôi lựa chọn những câu chuyện, những tấm gương tốt, những tình huống xử lý kể cho trẻ nghe để trẻ học tập và rút ra bài học cho mình. Bên cạnh đó, những kỹ năng đơn giản phục vụ bản thân hàng ngày cũng là những kỹ năng không thể thiếu đối với trẻ, tôi cho trẻ thường xuyên chơi để rèn các kỹ năng như: Cách đóng mở cửa, lấy và uống nước, cách gắp bằng các loại kẹp, quét rác trên sân, cách rót nước bằng cách tự tết tóc cho mình, cách gấp quần áo ngọn gàng ngăn nắp, đây là cơ hội tốt nhất để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy, tôi đã thường xuyên tổ chức cho trẻ các trò chơi mang tính lành mạnh để trẻ được tham gia học tập và vui chơi. 2.3.4. Giáo dục trẻ kỹ năng sống thông qua các chế độ sinh hoạt hàng ngày. 11 Ngoài hoạt động học có chủ định, hoạt động vui chơi ra tôi còn hướng dẫn dạy trẻ kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác như: Trong giờ đón trả trẻ: Tôi cùng các giáo viên khác trò chuyện với trẻ, giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giày dép, ba lô dúng nơi quy định, ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơn, không nói leo khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác...Trong giờ thể dục buổi sáng: tôi kết hợp cho trẻ kỹ năng xếp hàng lối theo quy đinh, kỹ năng tập các động tác nhằm giúp cho cơ thể phát triển khỏe mạnh. Bên cạnh đó, tôi còn thường xuyên hướng dẫn trẻ các kỹ năng vệ sinh cá nhân, và cho trẻ thực hành trải nghiệm tạo thói quen tốt cho trẻ. Các nội dung vệ sinh cá nhân bao gồm các thói quen rửa mặt, rửa tay, đánh chải răng, chải tóc, gội đầu, tắm rửa, mặc quần áo sạch sẽ, dội mũ nón, đi giầy dép, thói quen đi vệ sinh đúng nơi quy định, thói quen khạc nhổ và vứt rác đúng nơi quy định. Cụ thể: Rèn cho trẻ kỹ năng rửa mặt: tôi giáo dục trẻ tại sao cần phải rửa mặt (rửa mặt sạch, mặt đẹp, xinh đẹp, đáng yêu và không bị bệnh..); giáo dục trẻ lúc nào cần phải rửa mặt ( khi ngủ dậy, khi đi ra ngoài về bụi bẩn...). Đối với trẻ mẫu giáo, cô dạy trẻ từ động tác mô phỏng theo mẫu, sau khi trẻ quen thì chuyển sang cho trẻ tự rửa. sau khi rửa mặt xong cần giặt khăn vắt khô, giũ phẳng, phơi lên giá dưới ánh nắng mặt trời, giúp diệt vi khuẩn. Rèn cho trẻ kỹ năng rửa tay: Trong các hoạt động hàng ngày tôi luôn lồng ghép giảng giải cho trẻ hiểu tại sao phải rửa tay sạch (tay sờ mó, cầm nắm nhiều đồ dùng, vật dụng có chứa nhiều bụi bẩn và vi khuẩn, nếu không rửa tay sạch vi khuẩn sẽ xâm nhập vào thức ăn, nước uống qua tay bẩn sẽ gây bệnh cho cơ thể...); giáo dục trẻ khi nào cần phải rửa tay (khi tay bẩn, trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, sau khi chơi...) Rèn trẻ kỹ năng chải răng: Hàng ngày, trong các giờ vệ sinh tôi cho trẻ hiểu ích lợi của việc đánh chải răng là nhằm bảo vệ răng không bị thức ăn bám cặn làm hỏng men răng gây sâu răng, nhiễm trùng lợi và tránh được nhiều bệnh cho cơ thể. Giáo dục trẻ khi nào cần phải đánh chải răng ( ngay sau các bữa ăn, trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy). Rèn kỹ năng chải tóc, gội đầu: Giải thích cho trẻ biết tại sao phải chải tóc( giúp tóc suôn, mượt, sạch sẽ, vệ sinh, lịch sự); Khi nào cần chải tóc ( khi ngủ dậy, trước khi đi chơi, ra đưởng...). Khi đầu bẩn hoặc khi tắm rửa hàng ngày, cần gội đầu cho sạch mồ hôi và bụi bẩn. Rèn thói quen tắm rửa hàng ngày cho trẻ: Đây là một thói quen vệ sinh tốt cần được rèn cho trẻ ngay từ bé. Chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên giảng giải cho trẻ hiểu tắm rửa giúp cho cơ thể sạch sẽ, da sạch giúp cho cơ thể sảng khoái dễ chịu, người không bị mồ hôi gây mùi khó chịu. Tắm cho trẻ hàng ngày vào buổi sáng hoặc buổi chiều tùy thói quen của trẻ. Với trẻ lớn cần tắm vào buổi chiều khi bé chơi, mồ hôi ra nhiều, còn đối với trẻ bé có thể tắm buổi sáng sau một đêm dài bé ngủ, bú nhiều, đi tiểu nhiều, cần tắm thay quần áo, tạo cho trẻ một ngày mới thoải mái, dễ chịu. 12 Rèn trẻ kỹ năng mặc quần áo sạch sẽ: Hướng dẫn giải thích cho trẻ hàng ngày cần phải thay, mặc quần áo sạch để cơ thể sạch sẽ, thơm tho, thay quần áo sạch sau khi tắm, khi quần áo bẩn, bị ướt... Rèn trẻ kỹ năn đội mũ, nón: Đây là một thói quen tốt để giữ gìn sức khỏe cho trẻ, cần giảng giải cho trẻ là việc đội mũ nón giúp trẻ tránh được nắng, mưa, không làm cho đầu và cơ thể bị ảnh hưởng của nắng mưa dễ bị bệnh. Vì vậy cần phải đội mũ, nón khi ra ngoài trời nắng, mưa. Mũ nón của trẻ cần treo vào nơi quy định dễ thấy, dễ lấy. Khi trẻ ra ngoài, có phản xạ đội mũ nón và tự động lấy mũ nón đội. Khi về nhắc trẻ treo mũ nón vào nơi quy định. Rèn kỹ năng đi giầy dép: Cần cho trẻ đi giầy dép để bảo vệ đôi chân, giáo dục trẻ trong bụi đất có rất nhiều trứng giun, sán và ấu trùng giun sán. Khi có điều kiện thuận lợi nó sẽ chui qua lỗ chân lông của da để vào cơ thể. Mặt khác đi giầy dếp tránh không bị trầy xước khi giẫm phải mảnh chai, gai nhọn, sỏi đá... Rèn cho trẻ kỹ năng đi vệ sinh và vứt rác đúng nơi quy định: Cần rèn cho trẻ thói quen vệ sinh đúng nền nếp, thời gian đầu cần nhắc trẻ đến giờ cần đi vệ sinh, sau quen dần trẻ sẽ tự đi, nhắc trẻ sau khi đi vệ sinh cần xả nước cho trôi phân và nước tiểu. Để trẻ hiểu việc khạc nhổ bừa bãi là nguyên nhân gieo rắc vi trùng vào không khí làm lây bệnh cho người khác, giấy rác bẩn phải vứt vào thùng rác đúng nơi quy định nhằm tránh lây lan bệnh tật. Để tạo thói quen cho trẻ, tôi chỉ đạo hướng dẫn giáo viên phải nhắc nhở khạc nhổ vào nhà vệ sinh rồi xả nước dội sạch, đối với rác thì bỏ vào thùng có nắp đậy. Trong giờ ăn cũng vậy tôi cùng các giáo viên khác dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ những kỹ năng tự lao động phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự đi lấy bát, thìa theo số lượng của tổ mình và biết được lần lượt ngày trực nhật của mình theo tổ, khi ăn, biết ăn uống lịch sự, không nói chuyện trong khi ăn và chỉ ăn uống tại bàn ăn của mình, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, biết ăn hết xuất, không làm rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất bát thìa đúng nơi quy định. Biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn không làm ảnh hưởng đến người khác... Ngoài ra trước những giờ ăn tôi thường lồng ghép các bài hát, bài thơ "Giờ ăn", và bài thơ "Bé ơi nhớ nhé" do tôi tự sáng tác: Dạy lồng ghép kỹ năng vệ sinh và giờ ăn cho trẻ: Bé ơi nhớ nhé Có hạt cơm rơi Hễ đến giờ ăn Bé nhặt vào đĩa Rửa tay cho sạch Rồi lau vào khăn Nếu mà tay bẩn Bạn nào ăn nhanh Không vệ sinh đâu Được cô khen đấy Bé nhớ ăn rau Khi mà đứng dậy Cho người khỏe mạnh Kê ghế sát tường Ăn thịt, ăn cá Là một bé ngoan 13 Bé lớn nhanh hơn Bé ơi nhớ nhé Khi ngồi xúc cơm Cầm thìa tay phải Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ tôi dạy trẻ biết tự mình lấy và cất gối đúng nơi quy định, biết để dép vào giá ngay ngắn, đi nhẹ nói khẽ không làm ồn khi bạn đang ngủ Trong giờ hoạt động ngoài trời: Tôi đưa kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. Ví dụ: Cô tổ chức cho 2 đội chơi trò chơi "Kéo co" ở trò chơi này cháu thực hiện đúng luật chơi. Mỗi đội luôn tự tin mình sẽ chiến thắng và tìm mọi cách động viên khích lệ trong nhóm cố gắng có ý chí vươn lên. 2.3.5. Rèn kỹ năng đơn giản cho trẻ chậm phát triển. Đầu năm 2018- 2019 khi nhà trường giao lớp với sĩ số là 40 trẻ, trong đó có 2 cháu chậm phát triển, khi nhận cháu vào lớp cháu hoàn toàn không biết gì về nhận thức, giao tiếp, ngôn ngữ... Đó quả là một khó khăn của lớp và qua sự quan tâm chăm sóc cháu một thời gian, đầu năm học, tôi và các đồng chí giáo viên trong lớp đã dần hiểu được những thói quen, ăn, ngủ, vệ sinh... Từ đó tôi đã quyết định đưa ra rèn một số kỹ năng và thói quen đơn giản cho cháu. - Thứ nhất: Tôi làm một cử chỉ, một tình huống nhiều lần, ví dụ hướng dẫn trẻ đi lấy ghế tôi chỉ đây là ghế con bê ghế vào bàn và ngồi ăn cơm đồng thời đưa tay trẻ đặt vào ghế để trẻ bê và dẫn trẻ vào bàn ăn, bằng hình thức đó tôi thường xuyên hướng dẫn trẻ cách bê ghế được lặp đi lặp lại nhiều lần trong mọi hoạt động khác nhau, dần trẻ đã hiểu được mệnh lệnh khi tôi sai trẻ đi kê ghế ngồi vào bàn và cất ghế. - Thứ hai: Khi ở nhà trẻ không tự xúc cơm ăn và đến lớp cũng vậy. Tôi dạy trẻ kỹ năng cầm thìa, đầu tiên trẻ không biết cách cầm thìa và không thể cầm thìa và xúc được tôi cầm mấy đầu ngón tay của trẻ nắm vào thìa, lúc đầu tôi cứ buông tay rà là trẻ lại rơi thìa nhưng với tình yêu và lòng kiên trì của tôi và những giáo viên cùng lớp dần dần trẻ đã biết cách cầm thìa và đã biết tự xúc cơm ăn. - Thứ ba: Tôi dạy trẻ bằng các cử chỉ vào các công việc hàng ngày. Ví dụ: Gật đầu khi bạn nói lại đây dần dần sử dụng các cử chỉ này vào các thời điểm khác nhau, vị trí khác nhau và từng lần một theo cách trên. - Thứ tư: Tôi và các giáo viên khác thường chơi với trẻ và trò chơi tôi thấy hiệu quả nhất đó là trò chơi tung bóng cho cháu tung lại, lúc đầu khi tung bóng cho cháu mắt cháu nhíu lại sợ và tránh bóng và tôi đã cầm tay cháu rồi tung lại cho cô giáo, cứ như vậy chơi đi chơi lại nhiều lần trẻ đã biệt tự tung lại cho cô và từ đó tôi lại đổi vị trí cho bạn khác tung lúc đầu cháu không tung lại cho bạn nhưng dưới sự chỉ dẫn nhẹ nhành của cô giáo cứ như vậy trẻ đã có phản hồi lại cho bạn của mình. 14 - Thứ năm: Hướng dẫn trẻ đi vệ sinh đúng nơi quy định. Như thói quen ở nhà cháu và qua một thời gian tìm hiểu quan sát tôi thấy cháu cứ bậy ra bất cứ chỗ nào và ở nơi đâu mà cháu thích, nhất là những chỗ có xô, chậu là cháu bậy ra luôn... Nhận thấy những thói quen khi cháu đi vệ sinh. Ví dụ: Lúc cháu chuẩn bị đi vệ sinh là cháu kêu gào, khóc lóc và chạy quanh khắp lớp, cứ mỗi lần như vậy tôi hiểu thói quen của trẻ và dẫn trẻ đi vệ inh đúng vào nơi quy định, nhiều lần như vậy cháu đã biết tự đi vệ sinh và không còn đi bậy nữa. Ngoài những hình thức đó tôi dạy kỹ năng cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi khi thể dục buổi sáng tôi cho trẻ cùng khênh rổ bóng, gậy thể dục khi đi xuống sân trường và đi lên lớp. Vì vậy, cháu đã có những tiến bộ rõ rệt cháu không còn kêu khóc khi các bạn học hát, hay nói to trong khi chơi nữa. Cháu đã hiểu được một số mệnh lệnh đơn giản của cô giáo khi yêu cầu cháu làm một việc gì đó. 2.3.6. Tuyên truyền, phối kết hợp với các bậc phụ huynh cùng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. * Việc dạy trẻ những kỹ năng đó phải là một quá trình. Hiểu rõ được vai trò của các bậc phụ huynh cũng góp phần không nhỏ trong việc giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm khi tổ chức họp phụ huynh tôi đã đưa sáng kiến và ý tưởng về ý nghĩa giáo dục kỹ năng sống của mình áp dụng vào trẻ. Và thống nhất với các phụ huynh về những biện pháp giáo dục ở nhà và khi họp phụ huynh tôi đã nêu tiêu chí nào trẻ đã thực hiện được và làm được hay chưa làm được, còn những tiêu chí nào chưa làm được tôi nêu ra cuộc họp để cùng bàn luận và cùng uốn nắn trẻ ngay và kịp thời. Tuyên truyền để các bậc phụ huynh hiểu rằng dạy kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ nâng cao năng lực tự lựa chọn những giải pháp cho mình, quyết định phải xuất phát từ trẻ. Nội dung giáo dục phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ. Trẻ cần có điều kiện để cọ sát các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, thực hành và áp dụng. Để làm được điều này đặc biệt đối với những phụ huynh ít quan tâm đến con cái, tôi tìm cách để gặp và trao đổi về thành tích học tập của cháu ở lớp và đồng thời hỏi thăm về nề nếp sinh hoạt, sở thích… của cháu ở nhà. Với việc làm kiên trì đó tôi đã tác động việc học của cháu ở lớp cũng như việc rèn nề nếp ở nhà. Vì tôi thấy rằng một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn trong nhóm lớp lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết mới trong môi trường gia đình của trẻ. Chính vì vậy cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc bằng cách tạo các mối liên kết bạn bè tại gia đình, cha mẹ không nên bực bội khi trẻ đi chơi với bạn khác và tham gia các buổi. Ví dụ: Một số kỹ năng phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ kỹ năng cất dép, kỹ năng cất quần áo. Vậy muốn trẻ làm tốt được những kỹ năng này tôi phối hợp với phụ huynh hướng dẫn và quan sát trẻ khi con ở nhà. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu bẩm sinh của trẻ, bên cạnh đó cha mẹ cần dạy trẻ từ từ để trẻ hiểu và cha mẹ chính là tấm gương sáng để trẻ noi theo. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt kết quả tốt thì phải biết kết hợp hài hòa các biện pháp trên và không thể thiếu một trong những biện pháp đó. Bên cạnh đó là ý thức trách nhiệm và tình yêu thương của cô giáo đối với trẻ. 15 3.4. Hiệu quả của các giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng sống cho trẻ đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. * Kết quả: Như vậy, qua một năm đi sâu và thực hiện nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả và tiến hành đề tài một số giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi, tôi đã tìm ra những biện pháp tích cực, phù hợp để nâng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và điều đó đã cho được những kết quả sau: * Về phía giáo viên: Giáo viên có những định hướng cơ bản, phương pháp truyền đạt đến trẻ thể hiện nhẹ nhàng mà không mang tính áp đặt hay hình thức và cá nhân tôi cũng nhận thấy rõ được hiệu quả của việc thực hiện qua các giải pháp, giáo viên biết lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp đã phát huy được tính chủ động sáng tạo của trẻ. Các hoạt động luôn được chú trọng rèn về mặt kỹ năng cho trẻ. Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, cập nhật thông tin hai chiều, tạo uy tín niềm tin đối với phụ huynh và với trẻ, được phụ huynh tín nhiệm. Luôn mạnh dạn dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi khó khăn để giúp trẻ có được những kỹ năng ngay từ khi còn nhỏ. * Đối với phụ huynh: Phụ huynh thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông tin dành cho phụ huynh, bảng đánh giá trẻ ở lớp. Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái đã được gần gũi, thường xuyên chia sẻ với con hơn, hạn chế la mắng trẻ, phân việc cho trẻ tự làm những công việc phục vụ phù hợp với khả năng và sức khỏe của trẻ như: để trẻ tự cất ba lô khi đi đến trường và khi về nhà, trẻ vào lớp, tự xúc cơm ăn… và cha mẹ cảm thấy hài lòng với kết quả của con mình đạ được và đã có sự quân tâm bằng việc ủng hộ giáo viên những nguyên vật liệu để cô cùng trẻ làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ ở lớp. * Về phía trẻ: Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập, nhận thức, kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ. Trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng về cảm xúc giao tiếp chung, sống hòa bình và tuyệt đối không xảy ra xúc phạm và bạo hành trẻ em, được chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn phòng bệnh, được theo dõi cân đo, có kỹ năng lao động tự phục vụ: sắp xếp ghế vào bàn ăn; lấy và cất chiếu gối khi đi ngủ, khi ngủ dậy; tự vệ sinh cá nhân trước sau khi ăn. Cụ thể qua bảng kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi tiêu chí như sau: Tổng số trẻ được khảo sát là 40 trẻ: TT Nội dung Mức độ thời Mức độ thời Tăng tỷ Giảm tỷ điểm T9/2018 điểm T3/2019 lệ trẻ lệ trẻ đạt (%) chưa Đạt CĐ Đạt CĐ đạt (%) 16 1 2 3 4 5 6 7 8 Kỹỹ năng giao tếếp, chào hỏi Kỹỹ năng tự lập, tự phục vụ Kỹỹ năng hợp tác, hoạt động cùng nhóm Trẻ mạnh dạn tự tn Kỹỹ năng nhận thức Kỹỹ năng vận động Kỹỹ năng thích nghi Kỹỹ năng vệ sinh 15/40 = 25/40 = 38/40 = 95% 37,5% 62,5% 17/40 = 23/40 = 37/40 = 42,5% 57,5% 92,5% 2/40 = 5% 57,5% 57,5% 3/40 = 7,5% 50% 50% 12/40 = 28/40 = 37/40 = 30% 70% 92,5% 3/40 = 7,5% 62% 62,5% 12/40 = 30% 13/40 = 32,5% 15/40 = 37,5% 10/40 = 25% 12/40 = 30% 3/40 = 7,5% 3/40 = 7,5% 2/40 = 5% 3/40 = 7,5% 2/40 = 5% 62% 62,5% 60% 60% 57,5% 57,5% 67,5% 76,5% 65% 65% 28/40 = 70% 27/40 = 67,5% 25/40 = 62,5% 30/40 = 75% 28/40 = 70% 37/40 = 92,5% 37/40 = 92,5% 38/40 = 95% 37/40 = 92,5% 38/40 = 95% 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: 3.1. Kết luận: Giáo dục kỹ năng sống không chỉ giúp trẻ nhanh chóng hoà nhập và khẳng định vị trí của mình trong tập thể, mà xa hơn là một cộng đồng, xã hội. Do đó, cho dù trẻ có tài giỏi, thông minh đến đâu nhưng thiếu kỹ năng sống, trẻ cũng không thể tiếp cận với môi trường xung quanh, hòa nhập cũng như khẳng định mình. Chính vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không chỉ là nhiệm vụ của nhà trường mà còn ở bố mẹ, người thân. Làm sao để trẻ lớn lên thành người tự lập tự chủ trong mọi tình huống, đó là cái đích mà chúng ta hướng tới. Qua đề tài tôi rút ra được bài học kinh nghiệm sau: Bản thân người giáo viên luôn có tinh thần học hỏi, tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là nắm vững các kiến thức, nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, đưa các nội dung vào việc thực hiện lồng ghép hiệu quả trong các thời điểm trong ngày của trẻ. Xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh thân thiện cho trẻ. Phải thường xuyên tạo cho trẻ cơ hội để trẻ được tham gia hoạt động trải nghiệm qua đó sẽ phát sinh được các tình huống giúp trẻ phải đưa ra hành động cụ thể giải quyết tình huống đó một cách tốt nhất. Để kỹ năng sống của trẻ tốt thì cần phải có sự kết hợp giáo dục chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội. Việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học 17 tập và sinh hoạt là yếu tố quyết định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của trẻ. Trong thời buổi trẻ tiếp xúc với xã hội sớm như ngày nay, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thực sự rất cần thiết. Việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt không chỉ mang lại lợi ích về mặt sức khoẻ mà còn giúp các em sớm có ý thức để làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như xã hội. Đối với trẻ có hoàn cảnh đặc biệt cô giáo cần quan tâm hơn để giúp trẻ tự tin, mạnh dạn hơn trong cuộc sống. Được giảng dạy tại Trường Mầm non Trường Thi A với tôi là một niềm tự hào. Tôi luôn trăn trở, nghiên cứu để có được những phương pháp dạy trẻ tốt nhất, không chỉ về kiến thức mà còn là cả kỹ năng sống. Với đề tài: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi lớp Hoa Hồng trường Mầm Non Trường Thi A” đã mang lại hiệu quả hình thành phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Hy vọng những thông tin nghiên cứu trong sáng kiến kinh nghiệm này sẽ giúp các bậc phụ huynh có cái nhìn đúng đắn và toàn diện về kỹ năng sống cho trẻ để giúp các em phát triển một cách tốt nhất cũng như giúp cho cá nhân tôi đang giảng dạy trong bậc mầm non có thêm những phương pháp giúp trẻ rèn luyện tốt hơn kỹ năng sống của mình, nâng cao chất lượng chuyên môn trong công tác. 2. Kiến nghị: - Nhà trường tham mưu với các cấp lãnh đạo xây dựng trường mầm non Trường Thi A đạt chuẩn đáp ứng với yêu cầu nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ trong giai đoạn hiện nay. Tăng cường đầu tư thêm các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị...tạo điều kiện cho giáo viên trong tổ chức các hoạt động cho trẻ mọi lúc, mọi nơi để khắc sâu thêm kiến thức. - Để nâng cao kiến thức cũng như khả năng tự lập, tự tin của trẻ trong trường Mầm non thì Ban Giám hiệu và Nhà trường cần xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động dã ngoại một tháng 1 lần để tạo sân chơi bổ ích cho các con được học tập, vui chơi, được trải nghiệm cuộc sống… Tạo cho trẻ sự tự lập, tự tin khi giao tiếp với thế giới xung quanh. Trên đây là bài học kinh nghiệm của tôi trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và tích lũy kiến thức cho bản thân về chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là trong công tác rèn kỹ năng sống cho trẻ. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và chị em đồng nghiệp để cho sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. Tôi xin cảm ơn tập thể Chi bộ, Ban giám hiệu, đồng nghiệp tại Trường mầm non Trường Thi A đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi để tôi tham gia và hoàn sáng kiến kinh nghiệm này. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Trường Thi A, ngày 8 tháng 4 năm 2019 Tôi xin cam đoan SKNN do tôi viếết, không sao chép. Nếếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Người viếết 18 Bùi Thị Phương 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan