Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn một số giải pháp can thiệp hiệu quả giúp trẻ tự kỷ tại trường mầm non đông ...

Tài liệu Skkn một số giải pháp can thiệp hiệu quả giúp trẻ tự kỷ tại trường mầm non đông hải sớm hòa nhập xã hội

.DOC
21
45
91

Mô tả:

MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài 1.2. Mục đích nghiên cứu 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.3. Một số giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 3. Kết luận và kiến nghị 3.1. Kết luận 3.2. Kiến nghị Tài liệu tham khảo 1 1 2 2 2 3 3 3 5 16 17 17 17 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Ngày 2/4, đã được Liên hợp quốc chọn là "Ngày Thế giới nhận thức về tự kỷ", với mục đích khuyến cáo các quốc gia tăng cường sự quan tâm đến hội chứng này. Theo chuyên gia của Liên hợp quốc về tự kỷ, tự kỷ là một loại khuyết tật phát triển suốt đời được phát hiện trong vòng 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ và có thể xảy ra ở bất kỳ cá nhân nào không phân biệt giới tính, chủng tộc, giàu nghèo hay địa vị xã hội. Tự kỷ được biểu hiện ra ngoài bằng những khiếm khuyết về tương tác xã hội, khó khăn về giao tiếp ngôn ngữ, phi ngôn ngữ và hành vi, sở thích mang tính hạn hẹp, lặp đi lặp lại nhiều lần. Đủ tuổi thì đến trường, đi học - chuyện tưởng như đương nhiên với mọi đứa trẻ nhưng lại không đơn giản đối với những trẻ tự kỷ. Có nên cho con đi học? Có ngôi trường nào chấp nhận cho con vào học?... Đó là những câu hỏi không dễ tìm lời giải đáp của những ông bố, bà mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ. Cũng trong tháng 4, Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam phối hợp Hiệp hội Vì giáo dục cho mọi người Việt Nam tổ chức tọa đàm “Chính sách giáo dục hòa nhập cho trẻ rối loạn phát triển”. Tại tọa đàm, các chuyên gia, phụ huynh và giáo viên đã chia sẻ những khó khăn của trẻ tự kỷ khi tham gia học hòa nhập tại các trường học. Đồng thời, các đại biểu cũng thảo luận và phân tích những bất cập, thiếu hụt trong luật pháp, chính sách liên quan đến trẻ tự kỷ, từ đó đề xuất chính sách nhằm quan tâm, bảo vệ quyền của trẻ tự kỷ. Theo Giám đốc Trung tâm Hướng nghiệp và tiếp sức trẻ học hòa nhập Lê Đình Tuấn, điều khó khăn đối với các trẻ tự kỷ là tại Việt Nam chưa công nhận đây là trẻ khuyết tật. Vì vậy, các em rất thiệt thòi khi không được hưởng những chính sách ưu tiên, đặc biệt là ưu tiên trong học tập. Trẻ tự kỷ đang gặp nhiều khó khăn trong môi trường học hòa nhập như thiếu kỹ năng giao tiếp, trao đổi thông tin và phản hồi với thầy cô giáo, các bạn. Các em luôn là đối tượng bị cô lập, kỳ thị hoặc bị bắt nạt… Bác sĩ Hoàng Cẩm Tú, nguyên Trưởng khoa Tâm thần, Bệnh viên Nhi Trung ương, cũng cho biết thực tế hiện nay việc chẩn đoán về trẻ tự kỷ còn chưa thực sự chính xác. Quan niệm trẻ tự kỷ không thể học hòa nhập là một sai lầm, vì rất nhiều trẻ tự kỷ khi được học hòa nhập đã cải thiện rõ rệt. Tại buổi tọa đàm, một phụ huynh đã chia sẻ, khi phát hiện con có sự chậm phát triển về trí tuệ, chị đã đưa con đi kiểm tra và được bác sĩ Bệnh viện Nhi 1 Trung ương đánh giá là “rối loạn tâm trí phổ tự kỷ”, “không thể đi học hòa nhập được”. Đó thực sự là một cú sốc với gia đình chị tại thời điểm đó. Tuy nhiên, gia đình vẫn quyết tâm cho con đi học. Đến nay, cháu đã gần 10 tuổi, học lớp 4. Để có được “kỳ tích” như vậy, cháu đã được can thiệp sớm ngay từ lúc 28 tháng tuổi của các thầy cô từ Trung tâm Hướng nghiệp và tiếp sức trẻ học hòa nhập, cũng như các giáo viên ở nơi con đang theo học, đã tạo điều kiện cho việc học hòa nhập của con. Tại buổi tọa đàm, nhiều đại biểu khuyến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nên xây dựng tiêu chí đánh giá cho học sinh có xác nhận rối loạn phổ tự kỷ của cơ quan y tế. Các cơ sở giáo dục tạo điều kiện cho trẻ được miễn những môn học phụ mà trẻ không thực hiện được; đồng thời, tạo điều kiện cho trẻ sử dụng các công cụ hỗ trợ như máy vi tính. Bên cạnh đó, gia đình phải cam kết phối hợp chặt chẽ với cơ sở giáo dục trong quá trình trẻ học hòa nhập. Đặc biệt, Việt Nam cần sớm hoàn thiện chính sách bảo đảm quyền phát triển của trẻ tự kỷ… Qua những thông tin trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp can thiệp hiệu quả giúp trẻ tự kỷ sớm hòa nhập xã hội tại trường mầm non Đông Hải”. Tôi cho rằng đây là vấn đề rất cần thiết, nhằm đưa ra được một chương trình can thiệp có hiệu quả để giúp đỡ trẻ tự kỷ theo học phương pháp giáo dục hòa nhập tại bất cứ trường mầm non trên địa bàn mà không cần phải học trường học chuyên biệt. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Đánh giá thực trạng khả năng phát triển của trẻ tự kỷ tại trường mầm non Đông Hải. Thông qua đó, phát huy những mặt tích cực đã có được và khắc phục những hạn chế trong việc giáo dục và phát triển của trẻ tự kỷ để từ đó tìm ra giải pháp can thiệp phù hợp và hiệu quả cao dành cho giáo viên mầm non nhằm giúp đỡ trẻ tự kỷ sớm hòa nhập môi trường xã hội. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu một số vấn đề về dấu hiệu của trẻ tự kỷ tại trường mầm non Đông Hải. Từ đó đề xuất các giải pháp can thiệp hiệu quả giúp trẻ tự kỷ trong nhà trường sớm hòa nhập xã hội. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp phân tích tổng hợp + Phương pháp điều tra + Phương pháp thống kê + Phương pháp tuyên truyền + Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm 2 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm: Tự kỷ là một chứng rối loạn phát triển đặc trưng bởi khiếm khuyết về mặt quan hệ nhân sinh, giao tiếp ngôn ngữ, giao tiếp phi ngôn ngữ, hành vi sở thích hạn chế và lặp đi lặp lại. Cha mẹ thường nhận thấy những dấu hiệu của bệnh này trong những năm đầu đời của con mình. Những dấu hiệu này thường phát triển dần dần, mặc dù một vài trẻ mắc chứng tự kỷ vẫn đạt mốc phát triển với tốc độ bình thường và sau đó giảm dần. Tiêu chuẩn chuẩn đoán yêu cầu những triệu chứng trở nên rõ rệt trong thời thơ ấu, thường là trước khi ba tuổi. Tự kỷ có thể xảy ra ở bất kỳ cá nhân nào, độ tuổi nào không phân biê ̣t giới tính, chủng tô ̣c, giàu nghèo hay địa vị trong xã hội. Tự kỷ được đặc trưng bởi sự phát triển bất thường hoặc suy giảm biểu hiện trước 3 tuổi với một rối loạn điển hình về hoạt động trong các lĩnh vực: - Tương tác quan hệ về mặt xã hội (Giao lưu không có tình cảm); - Giao tiếp; - Định hình (Hành vi có tính chất thu hẹp, lặp đi lặp lại) Trong những năm gần đây, tự kỷ là vấn đề được nhiều người quan tâm, được thông tin rộng rãi trên các kênh truyền thông. Trên thế giới, những nghiên cứu năm 2013, của Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch Hoa Kỳ 1 cho biết cứ 88 người Mỹ thì có 1 người mắc tự kỷ, trong đó cứ 54 trẻ em nam thì có 1em mắc tự kỷ. Đến năm 2014, con số này tăng lên là 1/68 trẻ. Các Trung tâm và kiểm dịch bệnh ở Mỹ đã gọi chứng tự kỷ là một cuộc khủng hoảng y tế của quốc gia ở nhiều nước trên thế giới như: Anh, Mỹ, Úc. Ngày 19/04/2018, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Uỷ ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đã kết hợp tổ chức buổi tọa đàm "Vấn đề trẻ em tự kỷ ở Việt Nam". Phát biểu tại chương trình, Thứ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà nhấn mạnh: "Rối loạn phổ tự kỷ ngày càng phổ biến với tỷ lê ̣ chẩn đoán ở trẻ tăng lên qua từng năm ở tất cả các nước và khu vực trên thế giới. Việt Nam chưa có con số nghiên cứu chính thức về số lượng trẻ mắc chứng tự kỷ, nhưng theo thống kê sơ bộ của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, nước ta có khoảng 200 nghìn người mắc chứng tự kỷ. Và thực tế, số lượng trẻ được chẩn đoán và điều trị ngày càng tăng từ năm 2000 đến nay" (Theo báo điện tử Nhân Dân, 2018). 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm * Thuận lợi: - Nhà trường có cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu chăm sóc và giáo dục trẻ. - 100% cán bộ, giáo viên, nhân viên trình độ đạt chuẩn, trong đó trên chuẩn đạt 70% 3 - Đa số cán bộ, giáo viên, nhân viên tuổi đời còn trẻ được tiếp cận nguồn tri thức mới, phương pháp mới, đáp ứng được yêu cầu: Nhiệt tình trong công tác, rất tâm huyết với nghề, chịu khó tìm tòi, học hỏi trau rồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. * Khó khăn: - Dù đã được tập huấn kiến thức giáo dục hòa nhập trẻ tự kỷ, xong việc vận dụng kiến thức vào thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn, nhất là giai đoạn đầu khi bắt đầu tiếp xúc với trẻ tự kỷ trong lớp học. Bởi không phải trẻ tự kỷ nào cũng giống nhau, và giống những trường hợp trên lý thuyết để chỉ việc áp dụng là hoàn thành, mà mỗi trẻ mỗi tính cách, giáo viên cần huy động 100% sức lực tinh thần của bản thân để có thể tiếp nhận trẻ và dạy dỗ trẻ. - Nhà trường chưa có giáo viên chuyên biệt về tự kỷ mà hầu hết giáo viên ở trường là những người được cử đi học, đi tập huấn kiến thức nên việc xây dựng kế hoạch giáo dục trẻ tự kỷ về kiến thức, kỹ năng một cách bài bản và chuyên sâu thì chưa có. - Do phụ huynh thường dấu bệnh của con em mình hay thậm chí là không hề nhận biết được con mình đang có những dấu hiệu của trẻ tự kỷ mà chỉ nghĩ con đang bị chậm phát triển hơn so với các bạn, không chia sẻ với cô giáo, với mọi người xung quanh dẫn đến hệ quả xấu là khi phát hiện ra thì bệnh tình đã trở nên trầm trọng hơn. - Là chương trình giáo dục hòa nhập nên việc sắp xếp chương trình học cho cả trẻ tự kỷ và trẻ không tự kỷ cần phải có rất nhiều thời gian, công sức hơn. * Kết quả, khảo sát thực trạng như sau:  Khảo sát lớp Chích Bông 3-4 tuổi với tổng số là 42 trẻ như sau: Tổng số trẻ Trẻ phát triển bình thường 42 trẻ 39/42=92,9% Trẻ tự kỷ 3/42=7,1%  Khảo sát về mức độ của 3 trẻ tự kỷ: Các nội dung Tương tác quan hệ về mặt xã hội Giao tiếp với người xung quanh Định hình hành vi Mức độ chưa biết Mức độ biết ít Mức độ đã biết. 2/3=66,7% 1/3=33,3% 0/3=0 2/3=66,7% 1/3=33,3% 0/3=0 1/3=33,3% 2/3=66,7% 0/3=0 4 Trước thực trạng trên tôi nhận thấy cần phải có những giải pháp để giúp trẻ tự kỷ phát triển các kỹ năng giao tiếp, vận động, tương tác xã hội... nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức cho trẻ. 2.3. Một số giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền tới phụ huynh về công tác can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ. Việc can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ là một vấn đề hết sức quan trọng. Nó là tiền đề giúp trẻ phát triển được các kỹ năng cơ bản và sớm cải thiện được các hành vi của bản thân. Nhưng hầu hết bố mẹ của trẻ tự kỷ đều rất ngại ngần khi đưa con đến trường vì khả năng hòa nhập và giao tiếp của chúng kém hơn các bạn. Có những phụ huynh khó chấp nhận khi con mình tự kỷ. Nếu ai nói rằng con họ bị tự kỷ thì phụ huynh cảm thấy rất bực mình. Cô giáo cần phải đưa ra các ví dụ như có những trẻ tự kỷ tăng động, la hét, đập phá cả ngày. Khi không đồng ý việc gì đấy trẻ tức giận giậm chân, hoặc đánh lại bố, mẹ. Hoặc có những trẻ thì trầm ít nói không muốn giao tiếp với mọi người xung quanh, trẻ không có các phản ứng bình thường như những đứa trẻ khác đồng trang lứa, đôi khi còn trở nên vô cảm, mất luôn phản ứng. Một số trường hợp, trẻ có thể thực hiện nhiều hành vi bột phát không tự kiểm soát được, gây hại cho bản thân, tự làm tổn thương thân thể mình. Khi cô giáo bảo trẻ có dấu hiệu tự kỷ thì phụ huynh lại cho rằng đó là do tính khí của trẻ như vậy, họ khó có thể chấp nhận được điều đó. Cô giáo cần phải nhẹ nhàng khuyên bảo phụ huynh nên cho trẻ đi kiểm tra xem kết quả như thế nào. Nếu chỉ là tính khí của trẻ thì phụ huynh cũng phải kết hợp với cô giáo có giải pháp chăm sóc, dạy bảo trẻ. Nếu trẻ tự kỷ cô cần giải thích để phụ huynh biết rằng : Nguy cơ lớn nhất của tự kỷ xảy ra ở tuổi tiền học đường là nó có thể dẫn đến sự ngưng trệ quá trình phát triển bình thường, trở ngại gây ra đối với khả năng thích nghi của trẻ bị hạn chế trầm trọng . Đa số trẻ tự kỷ có khả năng thích nghi hoặc có thể được phục hồi nếu được phát hiện sớm và có biện pháp can thiệp phù hợp. Còn các phụ huynh của những trẻ phát triển bình thường khi thấy trong lớp có trẻ tự kỷ thì lại lo lắng rằng khi con của mình học cùng trẻ tự kỷ, thì sẽ ảnh hưởng đến con của mình, lo lắng các cô sẽ dành nhiều thời gian cho trẻ tự kỷ mà không quan tâm đến con của mình. Tuy nhiên việc trẻ tự kỷ được đến trường lại có tác dụng tích cực giúp cho trẻ tiến bộ. Khi sinh hoạt ở lớp giúp cho trẻ hiểu biết về luật lệ, hiểu sự cần thiết phải giao tiếp dù khả năng của chúng không bằng các bạn khác. Và quan trọng là ở lớp trẻ sẽ học được rất nhiều kỹ năng sinh hoạt hàng ngày, điều mà bố mẹ trẻ rất khó làm với trẻ khi ở nhà. Nên giáo viên cần giải thích cho phụ huynh 5 hiểu rằng tự kỷ không phải là bệnh, đó là một dạng rối loạn cần được giúp đỡ để thay đổi, và sẽ có xu hướng tích cực nếu được can thiệp, giúp đỡ kịp thời. Là những người đang làm cha làm mẹ, và cũng có con đang tuổi đến trường, phụ huynh nên đặt mình vào vị trí của phụ huynh có con là trẻ tự kỷ. Nếu con của mình cũng bị bạn bè xa lánh, kì thị thì những bậc làm cha mẹ sẽ buồn như thế nào? Một lời nói kì thị, một hành động phân biệt cũng góp phần làm tước đi cơ hội được phát triển của trẻ tự kỷ. Giáo viên cần đảm bảo rằng chương trình giáo dục hòa nhập này 100% không ảnh hưởng đến trẻ không tự kỷ, nhưng nó đã góp phần đưa lại cơ hội phát triển cho trẻ tự kỷ. Vì vậy giáo viên cần tổ chức những buổi gặp gỡ giao lưu giữa các bậc phụ huynh có con tự kỷ, tâm sự với phụ huynh, hướng dẫn giúp phụ huynh cách tiếp xúc với trẻ sao cho phù hợp, tạo cho trẻ môi trường thuận lợi để trẻ có cơ hội hoạt động vui chơi, giao tiếp nhiều hơn với các thành viên trong gia đình nhằm giúp trẻ và gia đình giải tỏa những căng thẳng dồn nén trong quá khứ, hệ thống lại cấu trúc nhân cách của trẻ. Từ đó giúp cải thiện bầu không khí gia đình, giúp mọi người thấu hiểu thực tại và chấp nhận thực tại tốt hơn, mọi người sẽ vui vẻ hơn trong giao tiếp và chăm sóc trẻ. Điều này giúp trẻ tự kỷ cải thiện tình huống giao tiếp và hình thành sự tiếp xúc qua lại. Khuyến khích trẻ hợp tác trong mọi hoạt động sinh hoạt của gia đình, xã hội; Giáo viên cần có các biện pháp tuyên truyền như: trực tiếp trao đổi với phụ huynh, thông qua loa đài, áp phích, hoặc có thể dán tranh ảnh có các dấu hiệu tự kỷ lên bảng tin của nhà trường để cha mẹ học sinh chú ý đến các dấu hiệu, hành vi của trẻ tự kỷ. Giáo viên có thể tổ chức các buổi gặp gỡ giao lưu, trao đổi kinh nghiệm để các ông bố, bà mẹ đang có những đứa con có thể nhận biết xem con mình có những dấu hiệu của tự kỷ hay không? Nhiều cha mẹ không chú ý đến sự khác thường của con trẻ hoặc có biết thì lại cho là bình thường, nên hầu hết trẻ khi phát hiện bệnh đã ở giai đoạn muộn. Trẻ tự kỷ cần được điều trị sớm ngay từ khi phát hiện bệnh, cần được đánh giá, hướng dẫn tập luyện bởi đội ngũ nhiều chuyên gia như bác sĩ nhi khoa hoặc bác sĩ tâm thần nhi, nhà tâm lý, cán bộ phục hồi chức năng, nhà trị liệu ngôn ngữ và giáo viên. Bên cạnh đó là sự chia sẻ giữa cô giáo với các bậc làm cha mẹ với nhau, để những phụ huynh có con không tự kỷ có thể thấu hiểu và tích cực giúp đỡ ủng hộ tinh thần, còn cha mẹ có con tự kỷ có thể có thêm sức mạnh niềm tin hơn về tương lai của các con mình. Đó cũng là một nhiệm vụ rất quan trọng của cô giáo là phải tuyên tuyền thế nào để phụ huynh sớm nhận biết được dấu hiệu của con mình để có các biện pháp can thiệp kịp thời. Từ đó, giúp tình trạng tự kỷ của trẻ được cải thiện dần dần. 2.3.2. Giáo dục cho trẻ tự kỷ thông qua các hoạt động hàng ngày. 6 Do điều kiện bệnh lý của trẻ sẽ nảy sinh ra nhiều tình huống mà cô giáo phải biết cách xử lý sao cho phù hợp để khuyến khích trẻ cộng tác. Cần chiếm lĩnh được lòng tin của trẻ, xóa đi mọi ranh giới về mặc cảm, trẻ chỉ nhận thấy khi cô yêu thương mình thực sự, sẽ xóa đi những rào cản trong quan hệ giao tiếp, sẽ phát hiện được điểm mạnh điểm yếu của trẻ để phát huy và khắc phục. Nếu cô để trẻ mặc cảm, không thích tiếp xúc, không cộng tác, xa lánh sẽ rất khó khăn trong giáo dục. Những hoạt động chung như vui chơi, học tập, ăn uống của trẻ đòi hỏi cô phải có sự quan tâm hơn đến trẻ tự kỷ. Cô cần theo dõi hành vi của trẻ tự kỷ trong một thời gian dài để lập ra một kế hoạch sinh hoạt riêng cho từng trẻ tự kỷ, và hướng dẫn trẻ làm theo. Hãy để những trẻ không tự kỷ có thái độ vui vẻ, hòa đồng luôn thích giúp đỡ các bạn và để trẻ đó vui chơi cùng trẻ tự kỷ, ngồi ăn cùng hay ngủ gần nhau. Nói với trẻ đó rằng bạn đang gặp một chút vấn đề khiến cho bạn trở nên chậm chạp hơn, và nói rằng bạn rất cần sự hỗ trợ của con. Cô giáo giao cho trẻ một nhiệm vụ nào đó, trẻ sẽ có trách nhiệm cao hơn, trẻ sẽ cố gắng làm tốt, và có thể bảo vệ trẻ tự kỷ trong vài trường hợp khi bạn bè khác trêu trọc. Khi trẻ thấy bạn có những hành vi khác là trẻ có thể giúp bạn theo sự hướng dẫn của cô. Ví dụ: Bạn Anh Thư là một trẻ có các hành vi khi đến lớp trẻ không quan tâm đến bất kể một người nào đó trong lớp. Trẻ chỉ chơi một mình một các vô thức. Cô giáo có ôm ấp trẻ cũng không có một sự giao lưu nào giữa cô và trẻ cả. Khi chơi trẻ có các hành vi như xé hết tất cả các hình ảnh mà cô dán trên tường. Hoặc khi đưa cho trẻ một lá cờ bằng giấy trẻ xé bằng hết giấy dính trên cán cờ mới thôi. Bạn Trà My nhìn thấy những hành động của bạn như thế sẽ thưa với cô, cô giáo sẽ đưa ra phương án như: Cô dành ra 4 buổi sắp xếp Anh Thư sinh hoạt cùng bạn Trà My, để hai bạn ngồi gần nhau trong các hoạt động. Việc này nhằm thu hút sự chú ý của Trà My, khơi gợi được tinh thần vui vẻ, luôn muốn giúp đỡ bạn bè của Trà My. Trà My đã có những câu hỏi với giáo viên rằng “Tại sao bạn Anh Thư lại không nói chuyện với con?”, “Có phải bạn không nói được không cô?”,… Cô giáo đã giải thích một cách dễ hiểu nhất, và giao cho Trà My một nhiệm vụ giúp đỡ Anh Thư, và khi Anh Thư có hành động gì kì lạ, không đúng thì hãy báo ngay với cô. Kết quả thu được: Anh Thư đã biết nói những từ đơn như "Đi", "Cho"... Trà My đã biết giải thích với bạn bè mỗi khi bạn nào định trêu trọc Anh Thư. Anh Thư đã không còn tự ý làm những hành động không kiểm soát mà em đã biết nhìn theo Trà My để làm. Cô giáo luôn kịp thời khích lệ. 7 Hoặc khi trẻ có những hành vi tốt, cô sẽ động viên, khen thưởng ngay. Điều này cho trẻ biết rằng, điều trẻ đang làm là đúng và được người lớn chấp nhận. Nó còn giúp trẻ củng cố hành vi của trẻ ở những lần sau đó. Trẻ sẽ học được cách sử dụng một hành vi đúng trong giao tiếp với mọi người. Việc can thiệp hành vi này thực hiện trên một kế hoạch được xây dựng và cố gắng hoàn thành kế hoạch trong một khoảng thời gian. Kế hoạch sẽ lập ra để can thiệp vào các hành vi có thể gây trở ngại đến việc học của trẻ như hay la hét, quậy phá, chạy nhảy trong giờ học; hành vi làm tổn thương đến trẻ hay người khác như cắn bạn, đập đầu vào tường, nằm lăn ra đất, đánh người lớn. Ví dụ: Bạn Phương Anh ngày đầu đi học đến lớp suốt ngày nói từ cá, cá. Và liên tục lại nằm lăn ra đất. Cả ngày Phương Anh không giao tiếp với bất cứ ai. Nếu ai lấy đồ chơi của Phương Anh đang cầm trên tay thì Phương Anh sẽ khóc thét lên và nằm lăn xuống đất. Cô giáo cần phải tìm hiểu nguyên nhân hành vi xảy ra. Vì sao trẻ có hành vi đó? Ai làm ra điều đó? Khi tìm hiểu được nguyên nhân cô sẽ nhẹ nhàng giúp trẻ đưa cho trẻ món đồ chơi khác và chơi cùng trẻ để trẻ có thể quên đi những gì xảy ra trước đó nhằm giảm bớt sự giận hờn của trẻ. Sự việc có thể lặp đi lặp lại nhiều lần từ đó hình thành cho trẻ thói quen bớt giận hờn, cáu gắt khi gặp các trường hợp như vậy. Đến nay Phương Anh đã không còn hiện tượng lăn ra đất và nói từ cá, cá nữa. Phương Anh đã có sự giao lưu với mọi người, nhưng đôi lúc thích thì nói một mình và nói những từ cô không hiểu. Hoặc Phương Anh lấy đồ vật nào đó đưa cho các bạn nhưng không nhìn vào bạn mà nhìn ra một hướng khác, chưa có sự giao lưu. Những lúc như vậy cô giúp Phương Anh cầm đồ vật đó cùng với Phương Anh đưa cho bạn và nói từ như: Bạn cầm lấy đi hoặc đồ chơi đẹp lắm bạn thích không? Ví dụ: Thông qua hoạt động học cô cho trẻ ngồi vào bàn để vẽ theo ý thích. Nhưng đối với trẻ tự kỷ trẻ chỉ ngồi một tí là trẻ đứng dậy không chịu ngồi, trẻ lấy giấy xé vụn. Cô phải tập cho trẻ dần dần mỗi ngày ngồi lâu thêm vài phút. Cứ như thế trẻ đã có thể kiên trì và ngồi được lâu hơn. Sau đấy cô cầm tay trẻ để giúp trẻ tập vẽ và tô màu. Cô động viên khuyến khích trẻ kịp thời để tạo cho trẻ cảm giác thoải mái tinh thần. Cô không gò bó ép buộc trẻ, tất cả việc làm của cô đều là rất nhẹ nhàng và tình cảm. Từ đó tạo cho trẻ cảm giác yêu thích hoạt động vẽ, cô dặn trẻ là không được xé vụn giấy nữa nếu con xé giấy thì lần sau sẽ không có giấy để vẽ nữa. Từ đó trẻ không có các hành vi xé vụn giấy nữa. Ví dụ: Thông qua giờ ngủ trẻ tự kỷ rất khó ngủ, trẻ không chịu nằm yên mà quay bên nọ bên kia, đứng lên ngồi xuống theo ý thích của trẻ. Nên cô đã 8 phải cho tất cả các bạn ngủ. Sau đấy cô ôm ấp trẻ hát ru, vỗ về cho trẻ ngủ, cô làm nhiều lần để tạo cho trẻ thói quen đến giờ là phải nằm xuống và im lặng để cho các bạn khác ngủ. Thông qua các hoạt động hàng ngày cô dần dần nắm bắt được các nhu cầu, hành vi của trẻ. Cô lên kế hoạch cho từng trẻ, đưa ra các giải pháp khác nhau nhằm giúp trẻ ngày càng hoàn thiện hơn. 2.3.3. Tạo ra một môi trường giao tiếp cho trẻ tự kỷ với mọi người xung quanh. Để tạo được một môi trường giao tiếp thuận lợi cho trẻ tự kỷ là một vấn đề rất quan trọng đối với các cô giáo. Vì trẻ tự kỷ rất ít giao tiếp với mọi người xung quanh. Trẻ luôn nhút nhát và không muốn giao tiếp với bất kể ai. Chính vì vậy cô giáo phải là nhịp cầu nối giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với gia đình trẻ. * Môi trường giao tiếp giữa trẻ với cô giáo: Việc tạo môi trường giao tiếp cho trẻ tự kỷ là một vấn đề hết sức quan trọng của mỗi giáo viên. Bởi vì mỗi đứa trẻ tự kỷ là một thế giới riêng đầy bí ẩn. Để tiếp xúc tạo môi trường giao tiếp cho trẻ và dạy trẻ làm theo ý mình là cả một quá trình khó khăn. Mỗi trẻ lại có một triệu chứng khác nhau nên đòi hỏi giáo viên phải có những giải pháp riêng biệt, có lúc mềm mỏng nhưng có thời điểm phải nghiêm khắc. Tất cả phụ thuộc vào độ nhạy bén, linh hoạt của người dạy. Và quan trọng nhất giáo viên phải luôn kiên trì nhẫn nại và thực sự yêu thương, gần gũi với trẻ bởi dạy trẻ mầm non đã khó song trẻ mầm non đang bị rối loạn tự kỷ còn khó hơn vài phần. Khi tiếp xúc với trẻ sẽ nảy sinh ra nhiều tình huống mà cô giáo phải biết cách xử lý sao cho phù hợp để khuyến khích trẻ cộng tác. Cần chiếm lĩnh được lòng tin của trẻ, xóa đi mọi ranh giới về mặc cảm, trẻ chỉ nhận thấy khi cô giáo gần gũi yêu thương mình thực sự, thì sẽ xóa đi những rào cản trong quan hệ giao tiếp. Cô luôn quan tâm hỏi han chăm sóc trẻ, động viên khích lệ tinh thần trẻ. Tạo cho trẻ được giao tiếp cùng cô để từ đó trẻ được phát triển tối đa khả năng ngôn ngữ của mình. Trẻ tự kỷ có đặc điểm là ít quan tâm tới những thứ mà người khác quan tâm. Ít khi chúng cùng nhìn vào một vật mà người khác quan tâm. Bởi vậy, đây là nguyên nhân khiến việc dạy dỗ trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, điều quan trọng là cô giáo phải tìm ra được thứ mà trẻ quan tâm, những nhu cầu không thể thiếu đối với chúng. Trẻ chỉ giao tiếp khi có nhu cầu. Cô là người tạo nhu cầu giao tiếp cho trẻ để giúp trẻ có cơ hội giao tiếp và sử dụng lời nói. Và khi giao tiếp với trẻ, cô cần tiến hành nhẹ nhàng, thoải mái và tự nhiên, sử dụng ngôn từ đơn giản ngắn gọn, rõ ràng truyền tải đầy đủ nội dung. Ngôn ngữ hay hành động 9 của cô cần phù hợp với khả năng phát triển ngôn ngữ và nhận thức hiện có của trẻ. Ví dụ: Tập cho trẻ biết trả lời các câu hỏi khi giao tiếp như: Đâu?, con gì?, cái gì?, ai đây?, làm gì? Với những trẻ không tự kỷ, cô giáo có thể hỏi: “Hôm nay, bạn Lan muốn ăn gì để cô lấy cho con nào?” Nhưng với trẻ tự kỷ, cô không thể hỏi như vậy vì câu hỏi quá dài, trẻ không thể nắm bắt nội dung chính nằm ở đâu, gây ra sự hoang mang, và khó chịu ở trẻ. Cô nên tối giản câu hỏi chỉ để lại thông tin cần thiết cho trẻ như: “Lan muốn ăn gì?” Trẻ sẽ dễ dàng hiểu và dễ trả lời hơn ví dụ như: “Trứng”. Ở trẻ tự kỷ, cô không thể đòi hỏi ngay lập tức trẻ trả lời đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ và một cách ngoan ngoãn. Trẻ đang học dần về sự phát triển ngôn ngữ từ từ đơn sang từ ghép, rồi thành một câu hoàn chỉnh. Cô cần kiên nhẫn với trẻ và hướng dẫn trẻ chuyển sang cách trả lời tích cực hơn khi trẻ đã quen thuộc với cách trả lời trước đó. Trẻ tự kỷ rất kém về kỹ năng quan sát, nếu trẻ không có kỹ năng quan sát thì rất khó để chúng giao tiếp. Vậy việc tăng cường khả năng quan sát, đặc biệt là khả năng giao tiếp bằng mắt của trẻ đồng nghĩa với việc làm tăng nhu cầu của trẻ. Trẻ tự kỷ phải bắt đầu tiến hành cách giao tiếp bằng mắt. Trước tiên cô cần phải tạo cơ hội cho chúng nhìn thẳng vào người đối diện, đặt chúng ở tư thế ngang hàng để có thể dễ dàng nhìn thấy mặt của người đối diện. Trong sinh hoạt hàng ngày phải luôn tận dụng mọi cơ hội để tăng cường khả năng giao tiếp bằng mắt của trẻ. Ví dụ: Khi trẻ đang ham thích một hoạt động nào đó, yêu cầu trẻ nhìn vào mắt chúng ta nếu muốn tiếp tục trò chơi. Nếu trẻ thích thú với trò chơi thì chúng sẽ nhìn vào mắt nhiều hơn. Cô cần tăng cường kỹ năng tập trung cho trẻ vì trẻ không thể quan sát được khi mất tập trung. Trẻ tự kỷ ít khi chơi được lâu nếu đó không phải là những thứ mà trẻ quan tâm. Những thứ mà trẻ quan tâm thường chỉ tập trung vào một vài hành động và đồ vật ít ỏi đặc biệt nào đó. Khi trẻ tập trung vào những thứ đó thì không còn quan tâm đến những việc diễn ra xung quanh. Chính vì vậy nên khi tiến hành các hoạt động vui chơi với mục đích để tăng cường sự tương tác với người khác thì chúng ta phải hạn chế những đồ chơi mà trẻ ưa thích để tạo cơ hội để trẻ chú ý xung quanh. Để tạo được môi trường tích cực giúp trẻ phát triển khả năng vận động, phát triển mối quan hệ thì cô cần sử dụng nhiều đồ dùng, đồ chơi có các khả năng phát ra những âm thanh, những vận động như chạy, nhảy tung hứng lạ mắt, để cho trẻ có cơ hội quan sát từ đó giúp trẻ nhận biết được về thế giới xung quanh và hình thành ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ một cách tích cực. 10 Ví dụ: Muốn trẻ tập trung vào một việc nào đó thì cô đưa ra một số đồ vật khác đẹp mắt và có các màu sắc rõ ràng như búp bê và có phát ra những tiếng cười, tiếng khóc để cho trẻ tập trung vào đồ vật mà cô đưa ra. Sau đấy cô hướng dẫn trẻ tập nói các từ như: Búp bê, màu đỏ, có mắt, mũi… Từ những việc làm đó cô sẽ giúp trẻ quên đi những đồ vật mà trẻ đang quan tâm. Khó khăn khi làm điều đó là trẻ sẽ không cảm thấy hứng thú với đồ chơi khác. Vì vậy việc thay đổi, hay lựa chọn các trò chơi có tính hoạt động như phát ra tiếng, chạy nhảy, đu đưa, tung người sẽ dễ hấp dẫn trẻ hơn. Những trẻ tự kỷ tăng động chỉ có thể tập trung khi ngồi một chỗ. Nếu không ngồi một chỗ, những trẻ này khó có thể học được bất cứ thứ gì. Việc huấn luyện trẻ ngồi tiến hành trong cả một quá trình. Đầu tiên trẻ sẽ ngồi trong vài phút, sau đó tăng dần lên cho đến khi có thể ngồi chơi với người khác trong một thời gian dài. Hầu hết khi trẻ mới bắt đầu làm quen với việc ngồi một chỗ sẽ chống đối rất quyết liệt, nếu chúng ta kiểm soát được thì vẫn có thể dạy trẻ vào nề nếp. Điều cần lưu ý là trẻ tự kỷ có khả năng tập trung rất cao với những gì mà trẻ thích thú, bởi vậy thay đổi cách chơi, hướng trẻ vào những hoạt động chơi với nhiều người không phải là việc làm dễ dàng nhưng rất cần thiết. Ví dụ: Bạn Thanh là một trường hợp rất nghịch và hay chạy linh tinh trong lớp, không chịu ngồi yên một chỗ. Khi cô giáo nói bạn ấy không hiểu gì hết, khi tức giận hoặc không đồng ý điều gì bạn ấy có thể đập đầu xuống đất hoặc lao vào bờ tường. Nhưng bạn ấy lại rất thích học môn thể dục. Bất kể giờ thể dục nào bạn ấy học rất hăng say và tích cực. Vì vậy cô tăng cường cho bạn ấy hoạt động nhiều hơn trong các hoạt động thể dục động viên khuyến khích trẻ giao tiếp thông qua hoạt động này bằng cách: Cô đưa ra một số đồ dùng, đồ chơi để trò chuyện cùng trẻ như: Đây là cái gì? Cái này có màu gì?... trẻ sẽ trả lời câu hỏi của cô dần dần cô sẽ tạo cho trẻ được thói quen trò chuyện giao tiếp thông qua hoạt động học mà trẻ yêu thích. Vậy việc tạo môi trường giao tiếp giữa cô với trẻ tự kỷ là một trong những hoạt động quan trọng, cần được thực hiện khi phát hiện chứng tự kỷ của trẻ, đó cơ sở giúp trẻ nâng cao khả năng nhận thức, phát triển kỹ năng giao tiếp giữa trẻ với cô giáo ngày càng tốt hơn. Bởi khi cô tạo được một môi trường an toàn và lành mạnh, thân thiện thì trẻ tự kỷ sẽ cảm thấy an toàn trong đó, và có thể phát huy hết khả năng của mình. Còn nếu môi trường không an toàn với trẻ, trẻ sẽ thu mình lại, cô sẽ khó khăn hơn trong việc giao tiếp với trẻ. *Môi trường giao tiếp giữa trẻ với trẻ: Thông thường trẻ học từ các trẻ khác nhanh hơn là học từ người lớn. Khi chơi với nhau, trẻ có thể học được nhiều kỹ năng khác nhau. Bởi vậy môi trường mầm non là môi trường rất tốt để trẻ phát triển đồng đều các kỹ năng. Có thể nói 11 đây là một môi trường phát triển ngôn ngữ tốt nhất, bởi lẽ phương ngôn có câu “Học thầy không tầy học bạn”, sự giao tiếp giữa trẻ với trẻ, trẻ học hỏi được nhiều hơn, nhập tâm nhanh hơn. Cần tạo ra những nhóm bạn để trẻ sinh hoạt học hỏi. Trong quá trình sinh hoạt nên tạo ra những hoạt động dưới nhiểu hình thức khác nhau, thật đa dạng, như ca hát, đọc thơ, kể chuyện, sắm vai trong các tiểu phẩm. Cần động viên trẻ và khuyến khích, tránh mọi sự phê phán vì trẻ dễ mặc cảm. Ví dụ: Thông qua giờ vận động âm nhạc cô tổ chức cho trẻ vận động theo nhóm để các bạn có thể hỗ trẻ tự kỷ vận động theo. Cô cần động viên khuyến khích trẻ kịp thời. Trẻ tự kỷ được ghép đôi với các trẻ không tự kỷ trong các hoạt động vui chơi sinh hoạt để thuận lợi tạo ra một môi trường tương tác tích cực. Ví dụ1: Thông qua hoạt động học, cô tổ chức một số trò chơi như: “Tìm bạn thân”, cô yêu cầu trẻ tìm những bạn có chiếc vòng đeo trên tay của mình có màu giống chiếc vòng trên tay của bạn. Cho trẻ thực hiện trò chơi nhiều lần để giúp trẻ tạo mối liên hệ mật thiết với bạn hơn. Trường hợp như bạn Anh Thư mới chỉ có tương tác tích cực với bạn Trà My nên cô đã giúp bạn Anh Thư ngày càng mạnh dạn hơn thông qua các hoạt động vui chơi như trò chơi “Tìm bạn thân” để trẻ có thể tương tác và giao tiếp với nhiều bạn hơn, sự thay đổi ở trẻ khiến cha mẹ cũng ngạc nhiên. Ví dụ 2: Tập hợp những người bạn cùng lớp (nhóm khoảng 5-10 trẻ) cùng chơi trò chơi “Chuyền bóng”. Cho các bé đứng thành hàng dọc và chuyền bóng cho bạn đứng đằng sau mình, mỗi bạn làm đúng thì đều được thưởng một bông hoa. Sắp xếp trẻ tự kỷ đứng giữa hàng, để trẻ có thể quan sát và làm theo bạn. Lúc đầu có thể trẻ sẽ không hiểu và không làm theo, cô hãy nói “Con đưa bóng cho bạn đi” và chỉ về bạn phía sau trẻ. Cô cũng cần nhắc nhở các bạn trong lớp không thúc giục trẻ, không trêu đùa trẻ. Khi trẻ đưa bóng cho bạn, cô cần khen thưởng ngay. Để trẻ hiểu rằng những hành động đúng sẽ được thưởng, các bạn ở trên làm đúng và mình làm giống các bạn nên mình cũng được thưởng. Sau khi chơi 2,3 lần cô không thưởng hoa nữa mà thay đổi vị trí đứng của các trẻ. Thay đổi qua vòng tròn. Bởi trẻ tự kỷ không thích bị thay đổi trật tự sắp xếp vậy nên cô cần thực hiện để trẻ quen dần. Thay vì việc thưởng hoa, cô hãy cho cả lớp vỗ tay, và khen trẻ như “ Bạn Thanh ngoan”, “Bạn Thanh giỏi”… * Môi trường giao tiếp với các thành viên trong gia đình trẻ: Gia đình là nơi gắn bó hơn cả so với những nơi khác nhất là đối với trẻ mầm non. Thời gian ở nhà cũng chiếm đến một nửa thời gian của trẻ. Mà cha mẹ là người sinh ra trẻ, chăm sóc trẻ từ khi còn bé nên việc hiểu trẻ không ai có thể bằng cha mẹ. Vậy nên nói gia đình là trường học đầu tiên của trẻ không hề 12 sai, trong đó cha mẹ là người thầy, người cô thân thuộc đầu tiên của trẻ. Nếu các thành viên trong gia đình chịu khó tìm tòi tham khảo các tài liệu, lắng nghe ý kiến của giáo viên, biết được cách tiếp xúc sao cho phù hợp với trẻ tự kỷ thì khả năng cải thiện kỹ năng ngôn ngữ của trẻ sẽ phát triển rất nhanh. Để làm được điều này thì các thành viên trong gia đình, đặc biệt là bố mẹ trẻ cần nắm được những kỹ năng cần thiết để có thể tạo một môi trường hoàn hảo nhất cho trẻ tự kỷ được hoàn thiện khả năng ngôn ngữ của mình. Ví dụ: Gia đình thường xuyên đưa trẻ đi chơi nơi công cộng như công viên, quảng trường…, tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với cộng đồng, với môi trường thiên nhiên như cỏ cây hoa lá, các con vật chó, mèo từ đó giúp trẻ biết yêu thích các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ. Thông qua các hoạt động này bố, mẹ phải kích thích trẻ giao tiếp nhiều hơn bằng cách tăng cường thời gian trò chuyện với trẻ nhiều để dạy trẻ tự kỷ nói, luyện nói và có phản xạ về lời nói nhanh hơn. Điều này giúp trẻ tự kỷ cải thiện tình huống giao tiếp và hình thành sự tiếp xúc qua lại. Khuyến khích trẻ hợp tác trong mọi hoạt động sinh hoạt của gia đình, từ đó tình trạng tự kỷ của trẻ được cải thiện dần dần. Cha mẹ cũng cần phải lưu ý đứa con của mình đang là một đứa trẻ nhạy cảm và đặc biệt. Vì vậy cha mẹ cần kiên nhẫn với trẻ hơn nhiều lần, không nên vì trẻ không phản hồi hoặc phản hồi tiêu cực mà dẫn đến chán nản, buông bỏ, hay thoái thác trách nhiệm cho cô giáo. Hoặc tệ hơn cha mẹ có thể mắng mỏ con mình vì nghĩ rằng con trẻ sẽ không hiểu gì, nhưng thực chất những điều tiêu cực đều có tác động đến trẻ, khiến trẻ thu mình lại, tự nhốt bản thân trong thế giới riêng và khi đó thì rất khó khăn trong việc tiếp cận trẻ. Chính vì vậy, giáo viên cần phải hướng dẫn cho phụ huynh biết rằng: người lớn cần phải chú ý thực hiện các hành vi đúng trước mặt trẻ. Vì trẻ không hiểu hành vi nào đúng, hành vi nào sai. Trẻ chỉ biết rằng khi người lớn thực hiện các hành vi đó thì trẻ cũng làm được. Người lớn cần phải thương yêu trẻ không được cáu gắt, quát mắng, la hét trước mặt trẻ, đánh trẻ. Nếu người lớn làm hay la mắng trẻ thì lần sau trẻ cũng bắt chước la hét, hoặc có thể đánh lại bạn như vậy. Do đó, để trẻ có hành vi đúng, trước tiên cha mẹ phải có hành vi đúng. Trẻ tự kỷ rất cần tình yêu thương và sự quan tâm từ ba mẹ và người thân. Đừng mặc cảm, không chủ quan, không bỏ rơi trẻ. Và cũng đừng để cho ai kỳ thị trẻ. Ba mẹ, mọi người xung quanh luôn đồng hành với trẻ, giúp đỡ trẻ, luôn ở bên trẻ và giành thời gian dạy trẻ, có sự quan tâm đặc biệt đối với trẻ. Cô là người hướng dẫn trẻ, môi trường ở lớp học cũng thường thuận lợi hơn, giúp trẻ dễ dàng hoà nhập nhưng không thể phủ nhận tầm quan trọng của việc giáo dục tại gia đình bởi thời gian hầu hết của trẻ là ở nhà và cha mẹ cũng là người nắm rõ thói quen của trẻ. Vì vậy phương pháp đem đến hiệu quả tốt 13 nhất cho trẻ là cô giáo và phụ huynh cần phối hợp thường xuyên trao đổi để hai bên cùng nắm rõ tình hình của trẻ và đưa ra những phương pháp giáo dục phù hợp nhất, phương pháp ở nhà hay ở lớp đều cần có tính thống nhất và logic với nhau, tránh trẻ bị rối loạn trong việc tiếp thu kiến thức. Không thể ở nhà luôn dạy trẻ phải thưa gửi lễ phép trong khi ở lớp cô chỉ đang dạy trẻ tập nói từng từ đơn giản. Trẻ sẽ bị rối và không biết phải làm như thế nào, thậm chí trẻ còn trở nên cáu gắt, bực bội hơn bao giờ hết. Và còn một việc quan trọng nữa đó là phụ huynh và cô giáo cần thường xuyên theo dõi, đánh giá sự tiến bộ của trẻ và điều chỉnh các mục tiêu và hoạt động thực hiện sao cho phù hợp với năng lực và trình độ nhận thức khi đó của trẻ. Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ tự kỷ trong nhà trường phụ thuộc nhiều vào sự tham gia đóng góp của gia đình trẻ. Vì vậy, trong quá trình giáo dục, nhà trường và giáo viên cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú để tạo điều kiện tốt nhất trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ tự kỷ có hiệu quả. 2.3.4. Tạo cơ hội cho trẻ được giao tiếp nhiều với môi trường xã hội: Tạo cơ hội cho trẻ được giao tiếp với môi trường xã hội là điều kiện giúp trẻ được tự do tìm tòi khám phá trong môi trường an toàn theo khả năng và sở thích của trẻ, giúp trẻ tò mò, sáng tạo; tự tin và luôn tin tưởng với mọi người xung quanh. Đối với trẻ tự kỷ việc tạo môi trường cho trẻ là một công việc hết sức khó khăn vì trẻ có khiếm khuyết trong giao tiếp, trong tương tác xã hội, trẻ có các hành vi rập khuôn. Vậy chơi là một phương tiện trung gian nhằm giúp trẻ phát triển kỹ năng nhận thức, ngôn ngữ, vận động một cách tích cực. Cô nên tạo cho trẻ môi trường thân thiện, gần gũi bởi vì đối với trẻ mắc bệnh tự kỷ trẻ có khuynh hướng tránh tiếp xúc và ít biểu lộ sự lưu tâm đến giọng nói của người khác. Trẻ thường có biểu hiện cảm xúc thờ ơ, vẻ mặt không biểu cảm. Nhiều trẻ tự kỷ dường như hành động không có sự khác biệt với những vật vô tri. Hầu hết trẻ tự kỷ không sợ người lạ, không lo âu khi chia lìa bố mẹ. Trẻ không thích chơi chung với trẻ cùng tuổi. Một số trẻ có thể chơi chung với bạn hoặc tham gia một số trò chơi, nhưng sự giao lưu của trẻ rất hạn chế. Trẻ có xu hướng bị cô lập. Ví dụ: Khi trẻ chơi trò chơi, trẻ thường chơi một mình, một góc, không biết chơi cùng với bạn, tránh chơi gần các bạn. Như vậy cô cần tạo cho trẻ môi trường hợp tác giữa trẻ với trẻ. Cô hướng dẫn bạn khác cùng chơi với trẻ như: con lấy cho bạn cái thìa để bạn đút cơm cho em bé ăn. Con lấy cho bạn cái khăn để bạn lau miệng cho em bé. Bạn không biết lau vậy con lau miệng cho em bé giúp bạn. Cô nói với trẻ tự ký để bạn lau giúp cho. Từ đó cô tạo cơ hội giúp trẻ có thể chia sẻ đồ chơi với các bạn. 14 Trẻ tự kỷ thường khó chịu trước những thay đổi trong môi trường sống quen thuộc của chúng. Một sự thay đổi nhỏ trong thông lệ thường ngày có thể làm trẻ nổi giận. Nhiều trẻ hay xếp đồ chơi và vật dụng thành hàng dài và rất khó chịu nếu như trật tự này bị thay đổi. Ví dụ: Trong hoạt động góc trẻ thích sắp xếp tất cả các viên gạch thành hàng ngang. Cô hướng dẫn trẻ xếp gạch chồng lên nhau để làm hàng rào. Lúc đầu trẻ sẽ không đồng ý và có thể giận dỗi. Cô cần phải kiên trì làm đi làm lại nhiều lần cùng trẻ, động viên khích lệ trẻ để trẻ quen dần với những thay đổi. Cô cần từ từ giúp trẻ thay đổi các quy luật của trẻ. Chính vì những lý do trên nên tôi nhận thấy rằng việc giúp trẻ tương tác xã hội chính là một việc rất quan trọng. Nó giúp trẻ thay đổi được các mối liên hệ mật thiết với thế giới xung quanh. Mối quan hệ với người thân như: Ông bà, bố mẹ, cô giáo, bạn bè. Tôi tìm hiểu từng trẻ thông qua việc trò chuyện với các bậc phụ huynh về sở thích, thói quen, đồ vật mà trẻ yêu thích. Sau đấy tôi gần gũi với trẻ nhiều hơn, chơi cùng với trẻ những trò chơi mà trẻ yêu thích để từ đó tạo cho trẻ sự tin tưởng và có sự tương tác với cô giáo. Cô tạo cho trẻ môi trường thuận lợi để trẻ thiết lập mối quan hệ với bạn bè. Ví dụ: Khi cho trẻ dạo chơi xung quanh sân trường cô có thể cho trẻ không bị tự kỷ dắt tay trẻ bị tự kỷ cùng đi dạo. Hoặc khi chơi với các đồ chơi ngoài trời cô cho trẻ ngồi chung trên một con ngựa để trẻ có cơ hội gần gũi với các bạn hơn. Khi trẻ thực hiện tốt, phải động viên, khen thưởng ngay. Điều này nhằm giúp trẻ hiểu rằng, điều trẻ đang làm là đúng đắn và được người lớn chấp nhận. Từ đó giúp trẻ củng cố hành vi của trẻ ở những lần sau đó. Trẻ sẽ học được cách sử dụng một hành vi đúng trong giao tiếp với mọi người. Trẻ đang biết chia sẻ đồ chơi, chơi cùng với bạn trong nhóm. Cô cần tạo nhiều cơ hội để trẻ được quan sát, khám phá thế giới bên ngoài để trẻ được tự do trải nghiệm, tìm tòi về thế giới xung quanh của trẻ. Từ đó giúp trẻ có cơ hội giao tiếp. Ví dụ: Cô cho trẻ quan sát cây. Cô chỉ vào lá cây hỏi đây là gì? Màu gì? Hoa có màu gì? Cô cùng trẻ trò chuyện để thông qua đó giúp trẻ hình thành các biểu tượng như: lá cây, hoa, màu sắc xanh, đỏ. Trong suốt quá trình can thiệp, có những việc giáo viên luôn phải làm, và bậc cha mẹ cũng vậy luôn luôn phải tạo cho trẻ một môi trường khiến trẻ cảm thấy trẻ được công nhận, người lớn luôn duy trì giao tiếp mặc dù sự đáp lại của trẻ còn hạn chế, không nên vì trẻ không tương tác mà người lớn cũng im lặng, mặc kệ trẻ. 15 2.4. Hiệu quả cuả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường: Trong quá trình nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm của bản thân, và được sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự tham gia tích cực của trẻ, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp nhà trường đạt được một số kết quả sau: - Giáo viên nhận thức được vai trò và sự cần thiết của việc giúp trẻ tự kỷ sớm hòa nhập xã hội, từ đó sử dụng các phương pháp tổ chức có hiệu quả các hoạt động cho trẻ tự kỷ. - Chủ động xây dựng kế hoạch, biện pháp giáo dục phù hợp với tình hình thực tế của trẻ, giúp nâng cao việc rèn kỹ năng giao tiếp, kỹ năng vận động, tương tác xã hội... cho trẻ tự kỷ của lớp, góp phần nâng cao chất lượng cho trẻ tự kỷ. - Phối kết hợp với phụ huynh về chương trình giáo dục kỹ năng cho trẻ tự kỷ. Tuyên truyền các biện pháp, kỹ năng giúp trẻ tự kỷ sớm hòa nhập xã hội. - Về phía nhà trường nhận thức được vai trò và sự cần thiết của việc giúp trẻ tự kỷ sớm hòa nhập xã hội là một vấn đề rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy nhà trường cần chủ động lên kế hoạch chỉ đạo phù hợp với nhu cầu thực tế của từng nhóm lớp sao cho hiệu quả. - Xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm tạo nhiều cơ hội cho trẻ tự kỷ được hoạt động một cách tích cực và hiệu quả. * Kết quả khảo sát: Các nội dung Mức độ chưa biết Mức độ biết ít Mức độ đã biết Tương tác quan hệ về mặt xã hội 1/3 = 33,3% 1/3 = 33,3% Giao tiếp với người xung quanh 0/3 = 0% 1/3 = 33,3% 2/3 = 66,7% Định hình hành vi 0/3 = 0% 2/3 = 66,7% 1/3 = 33,3% 1/3 = 33,3% Qua bảng khảo sát trên ta thấy: 16 - Trẻ đã được học tập, rèn luyện trong môi trường học tập thân thiện, tích cực; Trẻ có điều kiện phát triển khả năng giao tiếp, khả năng vận động và có cơ hội tương tác với thế giới xung quanh. Từ đó tôi nhận thấy rằng trẻ đã mạnh dạn hơn, có thể hòa nhập chơi, giao lưu với các bạn trong lớp. Trẻ tỏ nên thân thiện hơn với cô giáo. Trẻ đã giao tiếp với những người xung quanh một cách tích cực hơn. Từ đó giúp trẻ sớm hòa nhập xã hội. 3. Kết luận, kiến nghị 3.1. Kết luận Qua việc làm trên tôi thấy được trẻ tham gia các hoạt động một cách tích cực, trẻ hứng thú mỗi khi đến trường với tâm trạng thoải mái, tự tin. Trẻ thấy được mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Về phía giáo viên, cũng thấy nhiệt huyết hơn, hăng say với công việc hơn. Về phía phụ huynh cũng thấy rõ được sự thay đổi cách chăm sóc, giáo dục trẻ. Từ đó thu hút được sự quan tâm, ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh, họ yên tâm hơn khi gửi con đến trường. Trong quá trình nghiên cứu tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau: - Tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường phải luôn tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm để giúp trẻ tự kỷ sớm hòa nhập xã hội. - Cần tạo bầu không khí thân thiện hợp tác giữa nhà trường với phụ huynh, giữa cô với trẻ nhiều hơn nữa. - Xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm, tạo nhiều cơ hội cho trẻ tự kỷ được hoạt động một cách tích cực. - Luôn tuyên truyền với các bậc phụ huynh về cách chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tự kỷ một cách hiệu quả. Sau khi áp dụng các giải pháp trên tôi thấy trẻ đã có sự thay đổi, trẻ mạnh dạn hơn. Từ những thay đổi trên tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thêm một số giải pháp và mạnh dạn đưa sáng kiến kinh nghiệm này áp dụng tới các trường bạn và áp dụng trong những năm học tiếp theo. 3.2. Kiến nghị Để thực hiện tốt việc can thiệp giúp trẻ tự kỷ sớm hòa nhập xã hội, tôi xin mạnh dạn đề xuất với hiệu trưởng nhà trường: - Tham mưu với các cấp tăng cường đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho việc xây dựng môi trường cho trẻ tự kỷ được trải nghiệm, thực hành để có những kỹ năng tốt. - Tham mưu với Phòng giáo dục tạo điều kiện cho một số giáo viên được học các chứng chỉ về ngôn ngữ trị liệu, về phương pháp ứng dụng phân tích 17 hành vi, về hoạt động trị liệu… để có kỹ năng, kiến thức giúp trẻ tự kỷ sớm hòa nhập xã hội. Trên đây là "Một số giải pháp can thiệp hiệu quả giúp trẻ tự kỷ sớm hòa nhập xã hội tại trường mầm non Đông Hải”. Tôi mong rằng những giải pháp này sẽ áp dụng có hiệu quả hơn khi được các bạn đồng nghiệp góp ý kiến và tích cực đổi mới trong quá trình vận dụng. Trong quá trình thực hiện chắc rằng không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự giúp đỡ, góp ý của Hội đồng khoa học nhà trường, của Hội đồng chuyên môn bậc học mầm non và các bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến của tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 28 tháng 3 năm 2019 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết Nguyễn Thị Ngọc Thoa 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Sinh Phúc: Giáo trình đại cương chăm sóc sức khỏe tâm thần, NXB Lao động - xã hội, Hà Nội, 2014. 2. Nguyễn Hải Yến: Tự kỷ phát hiện sớm và can thiệp sớm, NXB Y học, 2007. 3. Võ Nguyễn Tinh Vân: Nuôi con bị tự kỷ, NXB Bamboo, Australia, 2002. 4. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội: Hội thảo Can thiệp về phòng ngừa các vấn đề sức khỏe tinh thần trẻ em Việt Nam, Hà Nội, 2007. 5. Nguyễn Hồi Loan, Trần Thu Hương: Bài giảng hành vi con người và môi trường xã hội, Đại học quốc gia Hà Nội, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Khoa xã hội học, Hà Nội, 2017. 6. Hoàng Mộc Lan: Giáo trình tâm lí học xã hội, NXB đại học quốc gia Hà Nội. 7. Trần Thu Hà, Trần Trọng Hải: Phát hiện sớm, can thiệp sớm một số dạng tàn tật ở trẻ em, NXB Y học. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan