Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn một số biện pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ 3 4 tuổi người dân tộc thiểu...

Tài liệu Skkn một số biện pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ 3 4 tuổi người dân tộc thiểu số ở trường mầm non sông âm, huyện ngọc lặc, tỉnh thanh hóa

.DOC
15
109
106

Mô tả:

I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ nói, giao tiếp và đọc viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để phát triển nhân cách của trẻ mầm non nói riêng, của con người và xã hội nói chung. Lứa tuổi mầm non là thời kỳ phát cảm ngôn ngữ, đây là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất có sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và các kỹ năng đọc viết ban đầu của trẻ. Giai đoạn này trẻ đạt được những hình thành vĩ đại mà ở các giai đoạn sau không thể có được, trẻ học nghĩa và cấu trúc của từ, cách sử dụng từ ngữ để chuyển tải suy nghĩ, cảm xúc của bản thân, hiểu mục đích và cách thức con người sử dụng chữ viết. “Hiện nay, ngôn ngữ sử dụng trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta là tiếng Việt. Vì vậy, việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhằm nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt của trẻ, đảm bảo cho các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt, để hoàn thành chương trình Giáo dục Mầm non, tạo tiền đề cho việc học tập, lĩnh hội kiến thức của cấp học tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số.” [1]. Trẻ chậm phát triển ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc lĩnh hội kiến thức, hình thành các kỹ năng và từ đó thiếu niềm tin vào hoạt động học tập. Sự non yếu về tiếng Việt sẽ làm hạn chế về giao tiếp của trẻ em vùng dân tộc thiểu số trong sinh hoạt ở nhà trường, gia đình và cộng đồng. Vì vậy, để chuẩn bị tốt tiếng Việt cho trẻ là rất cần thiết và điều đó tùy thuộc vào đặc điểm, điều kiện từng vùng miền khác nhau để giáo viên lựa chọn hình thức, phương pháp phù hợp từ đó có những tác động tốt nhất khi dạy tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Thực tế hiện nay, phần lớn học sinh dân tộc thiểu số còn nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp. Bên cạnh đó vốn tiếng Việt của các em rất ít, hàng ngày các em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ, môi trường giao tiếp hạn hẹp. Các em chỉ nói tiếng Việt khi ở trường còn khi về với gia đình các em lại sống trong gia đình thuần tiếng dân tộc. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành và phát triển kỹ năng sử dụng tiếng Việt của các em gặp nhiều khó khăn. Trường mầm non Sông Âm nơi tôi công tác cũng là một trong những địa phương thuộc vùng dân tộc thiểu số, chiếm 95% học sinh là người dân tộc Mường, dân tộc Thái. Đặc biệt nhóm lớp mẫu giáo 3-4 tuổi do tôi chủ nhiệm thì 100% trẻ là người dân tộc Mường, phần đa các cháu đều chưa qua lớp nhà trẻ, vì vậy đến trường trẻ còn nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp. Bên cạnh đó vốn tiếng Việt của trẻ rất ít, các cháu chỉ nói tiếng Việt khi ở trường còn khi về với gia đình các cháu lại sống trong gia đình thuần tiếng dân tộc. Môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt hạn chế và không thuần nhất, chính vì vậy việc truyền tải kiến thức đến với học sinh giáo viên gặp khó khăn. Vì vậy vốn từ tiếng Việt của trẻ rất hạn chế, tiếp thu kiến thức khi cô giáo truyền đạt chậm hơn. Chính vì những lý do trên, tôi suy nghĩ và tìm ra "Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số ở trường mầm non Sông Âm” để làm đề tài nghiên cứu cho mình, nhằm nâng cao chất lượng làm 1 quen tiếng Việt cho trẻ ở địa phương. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường ngày một hiệu quả hơn. 2. Mục đích nghiên cứu. - Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số. Từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển tiếng Việt cho trẻ. - Giúp trẻ phát triển khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi một cách có lôgic, có trình tự, chính xác. - Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người.Nâng cao hiệu quả quá trình chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và giúp trẻ có được thói quen tốt trong cuộc sống hàng ngày. 3. Đối tượng nghiên cứu Một số biện pháp tăng cường tiếng vốn Việt cho trẻ 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số ở trường mầm non Sông Âm. 4. Phương pháp nghiên cứu. Nhóm phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý thuyết: Đọc, phân tích tổng hợp lý thuyết để xác định cơ sở lý luận của đề tài cũng như nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, từ đó làm căn cứ đưa ra hệ thống các biện pháp tác động đến trẻ. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Khảo sát tình hình thực tế trên trẻ, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, từ đó lựa chọn các biện pháp hữu hiệu nhất phù hợp với đặc điểm của trẻ ở lớp để tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Phương pháp thống kê, thực nghiệm, xử lý số liệu: Thống kê, thực nghiệm trên trẻ, đánh giá kết quả đạt được, so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng biện pháp. 2 II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số được đưa ra là một trong những vấn đề trọng tâm và được coi là một trong những yếu tố quan trọng góp phần rất lớn về việc nâng cao chất lượng của giáo dục miền núi. Bởi: Luật giáo dục quy định:“Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ”[2]. Theo nhà tâm lý học: Nguyễn Ánh Tuyết: [3] - Số lượng từ ngữ trong giai đoạn 3 - 4 tuổi khoảng từ 800 - 1926 từ ( nghiên cứu của E.Arkin). Những đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ trong giai đoạn này là: Ngôn ngữ của trẻ được xây dựng từ câu ngắn đến câu có nhiều âm tiết. Ngôn ngữ của trẻ thể hiện giọng điệu rõ nét. Ngôn ngữ của trẻ thường kèm theo các hình thức hoạt động tư duy khác nhau, kích thích hành động. Thường nhắc đi nhắc lại một từ trong câu trọn vẹn. Ngôn ngữ mang màu sắc cảm xúc rõ nét. - Ngôn ngữ của trẻ có ưu thế rõ nét thể hiện hứng thú cá nhân, hoạt động cá nhân của trẻ. Về đặc điểm ngôn ngữ và những khó khăn của trẻ em người dân tộc thiểu số khi sử dụng tiếng Việt trong học tập và giao tiếp: [4] “Trẻ không dễ dàng phát âm chuẩn các âm và các thanh tiếng Việt: từ khi sinh ra trẻ người dân tộc thiểu số chỉ quen với việc nghe, nói các âm và các thanh các kết hợp âm thanh của tiếng mẹ đẻ, trong khi các âm và các thanh tiếng Việt có sự khác biệt so với tiếng mẹ đẻ của trẻ. Vì vậy trẻ em người dân tộc thiểu số phát âm tiếng Việt dễ sai lệch do ảnh hưởng của cách phát âm tiếng mẹ đẻ”. + Khả năng nhận biết và sử dụng từ loại, mẫu câu tiếng Việt: trẻ nhỏ vốn kinh nghiệm hiểu biết về cuộc sống và kỹ năng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ còn nghèo nàn, nên ảnh hưởng đến việc tiếp nhận tiếng Việt. + Môi trường giao tiếp tiếng Việt: Trẻ em người dân tộc thiểu số thường sống ở những địa bàn xa xôi, hẻo lánh, ít có điều kiện tiếp xúc với sách vở, các phương tiện truyền thông nên nhiều chủ đề rất khó đối với khả năng nhận thức của trẻ.” Muốn khắc phục điều này, trẻ em người dân tộc thiểu số trước khi đến trường ít nhất phải có những hiểu biết ban đầu về tiếng Việt. Muốn đạt được điều đó thì công tác này phải được duy trì thường xuyên và có khoa học, vừa đảm bảo tính lâu dài, tính kế hoạch, xuyên suốt cả quá trình từ gia đình đến nhà trường, nhưng vẫn không để trẻ mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc mình mà trẻ được tiếp thu kiến thức bằng ngôn ngữ tiếng Việt một cách tự nhiên, dễ hiểu, nhanh nhất, đồng thời tạo hứng thú cho trẻ đến trường mạnh dạn, tự tin tham gia tốt vào các hoạt động. Góp phần phát triển toàn diện cho trẻ. 3 2. Thực trạng về việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non Sông Âm trước khi áp dụng sáng kiến 2.1. Thuận lợi: Trong những năm qua được sự quan tâm của các cấp chính quyền đã đầu tư mua sắm trang thiết bị dạy học, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động giáo dục của trẻ. Trường lớp được sửa sang, phòng học rộng rãi thuận lợi cho các cháu học tập và vui chơi. Lớp đã có ti vi để thực hiện chương trình giáo án điện tử. Được sự quan tâm của ban giám hiệu, các tổ chuyên môn cũng đã thường xuyên tổ chức các chuyên đề, thảo luận, trao đổi chia sẻ những kinh nghiệm tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số các buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng. Ngoài ra, bản thân tôi là người dân tộc Kinh nhưng sinh ra và lớn lên trong môi trường giao tiếp cùng với người dân tộc Mường, nên có thể giao tiếp với trẻ bằng cả hai thứ tiếng 2.2. Khó khăn. - Ngoài những thuận lợi nói trên, thì tôi gặp không ít những khó khăn phần đa số trẻ đều là học sinh lần đầu tiên ra lớp nên trẻ còn nhút nhát. - 100% học sinh ở lớp là người dân tộc Mường vùng đặc biệt khó khăn. Đa số trẻ thường sử dụng tiếng mẹ đẻ khi đến trường. Vì vậy, việc học tập và tiếp nhận sự giáo dục bằng tiếng Việt nên gặp rất nhiều khó khăn. - Môi trường ngôn ngữ của trẻ ở gia đình chủ yếu là tiếng của dân tộc mình. Một số gia đình chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy tiếng Việt cho con em, điều kiện sống còn nhiều hạn chế, vốn tiếng Việt không nhiều nên chưa chú trọng đến việc dạy nói tiếng Việt cho trẻ từ khi còn nhỏ. - Trẻ ít được tiếp xúc rộng rãi nên thường nhút nhát, thiếu tự tin khi đứng trước người lạ và chỗ đông người. - Giáo viên thiếu kinh nghiệm nên còn lúng túng trong lựa chọn các biện pháp tổ chức các hoạt động giáo dục tăng cường tiếng Việt cho trẻ. - Môi trường để tăng cường tiếng Việt cho trẻ còn nghèo nàn, giáo viên chưa chú trọng đến việc sưu tầm và làm đồ dùng đồ chơi để hỗ trợ tăng cường tiếng Việt cho trẻ. - Công tác tuyên truyền tăng cường tiễng Việt cho trẻ đến các bậc phụ huynh hiệu quả chưa cao. - Giáo viên chưa nhanh nhạy, sáng tạo trong việc tiếp cận những vấn đề mới của bậc học. 2.3. Kết quả của thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến Để làm tốt đề tài “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số” tôi đã bắt tay vào khảo sát khả năng về ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ dân tộc thiểu số của lớp. Kết quả mới chỉ đạt được như sau: 4 TT Nội dung khảo sát TS trẻ được KS Kết quả trước khi áp dụng sáng kiến Đạt Chưa đạt Số Số % % trẻ trẻ - Hiểu nghĩa các từ khái quát, biết 1 lắng nghe, trao đổi với người đối 26 10 38 16 62 thoại bằng ngôn ngữ tiếng Việt. - Biết dùng ngôn ngữ tiếng Việt để 2 26 11 42 15 58 diễn đạt thành những câu có nghĩa. - Biết kể chuyện theo tranh minh họa theo suy nghĩ của mình theo ngôn 3 26 10 38 16 62 ngữ tiếng Việt, đề nghị người khác đọc sách cho nghe. Trẻ tự tin biết bày tỏ cảm xúc và ý 4 26 11 42 15 58 kiến cá nhân, đoàn kết với bạn bè. 3. Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ 3-4 tuổi người dân tộc thiểu số ở trường mầm non Sông Âm 3.1. Tự học tập, bồi dưỡng để nâng cao kiến thức về phương pháp “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ” Việc tự học tập, tham khảo tài liệu để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số” là việc làm cần đặt lên hàng đầu. Bởi người giáo viên mầm non được xem là người thầy đầu tiên dạy trẻ trong quá trình học nói theo ngôn ngữ chung, ngôn ngữ tiếng Việt và nhất là đối với trẻ vùng dân tộc thiểu số, trẻ thường nhút nhát. Cô giáo, đôi khi cũng như là người bạn, là người mẹ, luôn gần gũi, dạy bảo, lắng nghe và chia sẻ, khơi gợi tính tò mò, lòng ham hiểu biết của trẻ, có những tác động giúp ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ phát triển hơn, trẻ sẽ tích cực tham gia các hoạt động, tiếp thu kiến thức một cách có hiệu quả. Chính vì vậy, bản thân tôi thường xuyên trao đồi kiến thức qua các lớp tập huấn của huyện, của trường, qua tham khảo sách báo để không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn của mình, trau dồi thêm kiến thức để tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số. Sưu tầm các nguồn tài liệu như: - Đề án “ Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, đinh hướng đến năm 2025” - Hướng dẫn tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội ( năm 2018) - Tài liệu hướng dẫn cộng tác viên, cộng đồng, cha mẹ tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội ( năm 2018) Ngoài ra, tôi còn tham khảo một số sách báo, tạp trí, các bài viết hay về kinh nghiệm tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số..... 5 Tham gia các buổi dự giờ, thao giảng của trường, của cụm để học hỏi, rút kinh nghiệm. Qua các giờ thao giảng, hoặc các hoạt động ở lớp, tôi thấy rằng: Để tăng cường tiếng Việt cho trẻ tốt thì giáo viên phải linh động, biết cách tổ chức, dẫn dắt trẻ tham gia vào các hoạt động, những buổi học, những trò chơi dân gian, trò chơi vận động… Thông qua đó để trẻ học được ngôn ngữ tiếng Việt. Ví dụ: Khi cô giáo tổ chức một trò chơi: Đóng các vai nhân vật trong câu chuyện “Chú dê đen” và khi trẻ đảm nhận vai nhân vật của mình thì trẻ phải biết được các lời thoại của nhân vật, đối thoại với nhau. Giọng của dê trắng thì run sợ, yếu ớt. Giọng của dê đen bình tĩnh, đanh thép. Giọng chó sói nói với dê đen đầu tiên thì quát nạt, hách dịch sau chuyển sang lo lắng, sợ sệt.... Từ đó trẻ có nhu cầu giao tiếp, nhu cầu được nói sẽ làm tăng vốn từ tiếng Việt cho trẻ và khi trẻ hiểu được ngôn ngữ tiếng việt thì quá trình học của trẻ mới có hiệu quả. Hơn thế nữa giáo viên nắm được mình là người trực tiếp tiếp xúc với trẻ, sử dụng khả năng sư phạm của mình để truyền đạt cho trẻ những kiến thức cơ bản đầu tiên. Để trẻ dễ hiểu, dễ cảm nhận được những điều ấy, người giáo viên không thể chỉ truyền đạt mà không biết học sinh mình có hiểu hay không. Do vậy tăng cường tiếng Việt là làm cho học sinh hiểu cô giáo đang nói gì? Và yêu cầu mình phải làm gì? Chỉ có như thế mới giúp trẻ cảm nhận được vấn đề một cách tốt nhất. Qua việc tự học tập, tự nghiên cứu tài liệu và tự bồi dưỡng những kiến thức làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo tôi đã nhận thấy bản thân mình đã học hỏi và tích lũy được nhiều kiến thức hơn mở mang tầm mắt hơn và nâng cao được kỹ năng hơn trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Ngoài ra bản thân còn hiểu biết và nắm bắt kịp thời được tâm lý của trẻ lớp mình, khả năng phát âm chuẩn tiếng Việt của trẻ. Từ đó xây dựng kế hoạch tăng cường tiếng Việt cho trẻ một cách cụ thể hơn, sát với thực tế hơn. 3.2. Gần gũi, thương yêu trẻ, tôn trọng tiếng mẹ đẻ của trẻ và đối xử công bằng với trẻ, tăng cường tiếng Việt cho trẻ mọi lúc, mọi nơi. Khi trẻ bất đồng về ngôn ngữ với cô, với các bạn trẻ sẽ thấy mình lạc lõng, tự thu mình lại, không trò chuyện, không tham gia vào các hoạt động tập thể. Vì vậy, việc gần gũi, yêu thương, tôn trọng và đối xử công bằng với trẻ có vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Khi cô giáo gần gũi, quan tâm và yêu thương trẻ, làm cho trẻ hoàn toàn tin tưởng thì trẻ sẽ rất hứng thú và hợp tác cùng cô trong mọi hoạt động. Khi được tôn trọng, trẻ cũng dần thể hiện sự tôn trọng và luôn yêu thích được cùng làm việc với người mà trẻ tin yêu. Chính vì vậy, để giúp trẻ nhanh chóng hòa nhập với các bạn, với cô, tôi luôn gần gũi tôn trọng, thân thiện đối xử công bằng với trẻ, luôn động viên khuyến khích trẻ, để trẻ ham muốn được đến trường, muốn được gặp cô, được vui chơi cùng các bạn. Cô sử dụng cả hai ngôn ngữ để trò chuyện với cháu. Ví dụ: Tại lớp tôi có cháu Bùi Văn Nam nhà cháu ở mãi trong núi, xa trung tâm, không tiếp xúc với mọi người xung quanh, ngôn ngữ khi cháu bắt đầu học nói thì chỉ có ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt là hoàn toàn mới lạ đối với 6 cháu, bởi vậy khi trẻ được đưa đến trường trẻ cảm thấy xa lạ và khóc đòi về, “ó ở viếng thôi”( không ở về thôi) hoặc “mế à viếng” (mẹ ơi về), “ Chăng ti hóc no” ( Không đi học đâu)…. Từ thực tế như vậy tôi đã chủ động giao tiếp cùng bé bằng tiếng dân tộc để trẻ có cảm giác thân thiết gần gũi hòa đồng với cô, trẻ dần đầu hết khóc từ đó tôi bắt đầu giao tiếp bằng tiếng Việt để trẻ bắt đầu hình thành và làm quen bằng những từ đơn giản và gần gũi cùng trẻ mà hằng ngày được mẹ đưa đến trường cùng cô giáo, để trẻ bắt đầu quen thuộc cả hai ngôn ngữ. Mục đích là tạo cho trẻ có cảm giác được yêu thương, được đối xử công bằng khơi dậy sự giao tiếp mạnh dạn để trẻ phát triển cả hai ngôn ngữ được tốt nhất. Tôi thường xuyên tạo điều kiện cho trẻ tự tin, biết bày tỏ cảm xúc ý kiến cá nhân đoàn kết với bạn bè, tôn trọng tiếng mẹ đẻ của trẻ. Khi trẻ giao tiếp với nhau trẻ thường nói bằng tiếng dân tộc của mình, tôi gần lại với trẻ, nhẹ nhàng giúp trẻ phát âm lại bằng tiếng Việt để trẻ nhớ được từ. Ví dụ: Khi thấy bạn Nam khóc bạn Mai nói: “Đứng nhạm, dạo sương hảy” thì tôi lại hướng để trẻ nói lại bằng tiếng Việt với bạn là “Đừng khóc nhé cô thương”. Với những cháu chưa thạo tiếng Việt trẻ thường nhút nhát, chơi một mình, không hòa đồng với các bạn. Vì vậy, tôi thường chú ý và quan tâm trẻ nhiều hơn, chú ý đến trẻ trong mọi hoạt động, làm cầu nối giữa trẻ và các bạn để trẻ cảm thấy tự tin hơn. Trẻ dân tộc thiểu số vốn từ tiếng Việt rất hạn chế. Khả năng nhận thức và tiếp thu chậm, vì vậy trong quá trình cho trẻ làm quen với tiếng Việt ta cần phải có sự kiên nhẫn, nhẹ nhàng, tạo cho trẻ tâm thế thoải mái trong mọi hoạt động. - Giờ đón trẻ cô luôn vui vẻ, tạo sự gần gũi, yêu thương trẻ, nhắc nhở trẻ cất đồ dùng đúng nơi qui định, chải tóc, lau mặt, sửa sang quần áo cho trẻ, trò chuyện thân mật, tạo sự gần gũi giữa cô và trẻ bằng một số câu hỏi: Ví dụ: - Hôm nay ai đưa con đi học ? - Sáng nay mẹ cho con ăn gì? - Nhà con có những ai ? - Ai mua áo cho con mà đẹp vậy?..... Qua trò chuyện với trẻ tôi nắm được khả năng nhận thức và phát âm của mỗi trẻ, trẻ nào còn sử dụng câu cụt, trẻ nào còn nhút nhát để từ đó tôi có những biện pháp phù hợp cũng như dành nhiều thời gian cho những trẻ đó hơn. - Giờ trả trẻ cũng như giờ chơi tự do tôi tạo mọi tình huống cho trẻ tiếp xúc với tiếng Việt, như tổ chức một số trò chơi và cô cùng tham gia với trẻ. Cho trẻ hát hoặc đọc các bài thơ có trong chương trình…không những vậy tôi luôn tìm mọi cách để thay đổi hình thức giúp trẻ không thấy nhàm chán khi tham gia các hoạt động. Qua vận dụng biện pháp này, tôi thấy trẻ ở lớp tôi đã có sự chuyển biến tốt, trẻ đã mạnh dạn hơn trong giao tiếp, không rụt rè mỗi khi cô gọi. Biết sử dụng tiếng Việt để giao tiếp cùng cô, cùng bạn, hòa nhập với bạn, không nhút nhát khi chơi với bạn. 7 3.3. Tạo môi trường tiếng Việt trong và ngoài nhóm lớp. Môi trường lớp học đóng một vai trò quan trọng trong việc dạy và học, nó quyết định phần lớn tới chất lượng dạy học của nhóm lớp. Đối với dạy chương trình tăng cường tiêng Việt thì việc tạo môi trường tiếng Việt trong và ngoài lớp học lại càng có ý nghĩa lớn lao hơn đối với trẻ, tạo cho trẻ có nhiều cơ hội học tập và được hoạt động với môi trường tiếng Việt. * Xây dựng môi trường tiếng Việt trong lớp. Các khu chơi của lớp được sắp xếp hợp lý có sự phân chia rõ ràng, phù hợp với diện tích của lớp, bố trí tranh ảnh ở các góc chơi luôn đảm bảo thẩm mỹ, mang tính mở, trang trí những hình ảnh gần gũi với cuộc sống của trẻ. Ở mảng chủ đề tôi trang trí bằng những sản phẩm của cô và trẻ cùng làm trong quá trình khai thác chủ đề, tạo sự mới mẻ, hấp dẫn, kích thích trẻ hoạt động. Hình ảnh: Mảng chủ đề chính. Nội dung trang trí các góc chơi phải phù hợp với tên gọi của góc để trẻ dễ dàng nhận biết. Tên các góc chơi luôn được viết to theo đúng quy định mẫu chữ để giúp trẻ làm quen với tiếng Việt. Tên các góc chọn những tên đơn giản, gần gũi, dễ hiểu phù hợp nội dung chủ đề đang thực hiện và phù hợp với đặc điểm của lớp. Hình ảnh: Các khu chơi. Trong lớp tôi trang trí một góc truyền thống để trưng bày những nét văn hóa của người dân tộc Mường, mỗi đồ vật được gắn với tên gọi để trẻ cảm nhận được những hình ảnh gần gũi quen thuộc ở gia đình và được làm quen với các từ bằng ngôn ngữ tiếng Việt. Hình ảnh: Khu truyền thống. Ngoài ra tôi sưu tầm đồ dùng tự tạo từ phế liệu, nguyên vật liệu sẳn có tại địa phương, đồ chơi phù hợp với từng chủ đề nhưng có thể sử dụng cho nhiều hoạt động khác nhau. Mỗi đồ chơi được gắn với các từ để trẻ làm quen. Hình ảnh: một số loại đồ chơi tự làm ở các khu. Các đồ dùng cá nhân của trẻ có ký hiệu riêng. Với trẻ ở lớp tôi chọn ký hiệu là những chữ cái, để bước đầu cho trẻ được làm quen với hình ảnh chữ cái mà trẻ sẽ được làm 8 quen ở lớp mẫu giáo lớn, đồng thời giúp trẻ tự lấy, cất đồ dùng mà không cần sự trợ giúp của cô. Hình ảnh: một số đồ dùng cá nhân của trẻ. Môi trường trong lớp đã cho trẻ có nhiều cơ hội học tập và được hoạt động với môi trường tiếng Việt. * Xây dựng môi trường tiếng Việt ngoài lớp học: Cảnh quan môi trường ngoài lớp học cũng vô cùng cần thiết đối với quá trình tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm học song song với việc xây dựng môi trường học tập trong lớp, tôi đã quan tâm đến việc xây dựng môi trường thiên nhiên ngoài lớp học cho trẻ. Hình ảnh Khu thiên nhiên ở hiên lớp và ngoài vườn trường. Tôi sử dụng hiên lớp và một góc nhỏ của vườn để xây dựng khu thiên nhiên của lớp mình. Khu thiên nhiên được sưu tầm các loại hoa gần gũi với trẻ. Mỗi chậu hoa được gắn với tên gọi để cung cấp từ cho trẻ. Qua việc tạo môi trường tăng cường tiếng Việt cho trẻ trong và ngoài lớp, tôi thấy rằng. Trẻ rất thích được tham gia các hoạt động cùng cô trang trí môi trường trong và ngoài lớp học sinh động, xanh – sạch – đẹp. Trẻ có thể được làm quen với các từ, chữ cái tiếng Việt ở mọi lúc, mọi nơi một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không gò bó, không áp đặt. 3.4 Lồng ghép tăng cường tiếng Việt hợp lý vào chương trình giáo dục trẻ hàng ngày. Việc lồng ghép tăng cường tiếng Việt vào chương trình giáo dục trẻ hàng ngày, tạo cơ hội cho trẻ được làm quen với tiếng Việt mọi lúc, mọi nơi. Trẻ tiếp thu một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không gò bó, không áp đặt. Chính vì vậy tôi lựa chọn nội dung lồng ghép tiếng Việt vào từng hoạt động cụ thể như sau: * Lồng ghép vào các hoạt động mang tính tập thể để giúp trẻ tích cực, hứng thú hoạt động học tập và nói tiếng Việt. Hoạt động nhận thức của trẻ mầm non chủ yếu lĩnh hội qua vui chơi dưới sự hướng dẫn của người lớn. Vì vậy cô giáo cần biết cách sáng tạo trong tổ chức các trò chơi cho trẻ. Đối với trẻ dân tộc thiểu số rất nhút nhát, rụt rè, hầu hết các em rất thụ động trong các hoạt động mang tính tập thể. Nắm được đặc điểm này tôi đã phải tăng cường tổ chức các hoạt động tập thể trong các hoạt động hàng ngày như: giao nhiệm vụ chung cho cả lớp (hoặc) phân nhóm, chia tổ hoạt động thực hiện một yêu cầu nhiệm vụ nào đó của cô giáo. Khi phân chia trẻ cô chú ý ghép các trẻ có tính mạnh dạn với trẻ nhút nhát, rụt rè với nhau. Yêu cầu trẻ mạnh dạn làm nhóm trưởng hoặc chủ trò. Kết quả của nhóm sẽ được đánh giá vào sự hợp tác hoạt động tích cực của cả nhóm. Ví dụ: Trò chơi “Ném còn”, “Kéo co”...... Hình ảnh trẻ chơi kéo co. 9 - Lựa chọn các trò chơi, bài hát dân gian của địa phương dịch cả 2 thứ tiếng để phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ: như trò chơi dân gian kết hợp với các bài đồng dao ca dao “ Nu na nu nống ”, “ Chi chi chành chành”, “Đi cầu đi quán”.... Ngoài ra, tôi còn cho trẻ tham gia vào các hoạt động trải nghiệm do nhà trường tổ chức, để mở rộng giao tiếp, giúp trẻ tăng cường tiếng Việt và cung thêm vốn tiếng Việt cho trẻ. Ví dụ: “Hội chợ quê” ở đó trẻ được vào vai người bán hàng, người mua hàng, được trao đổi cùng nhau, được làm quen với các sản phẩm quen thuộc. Từ đó vốn tiếng Việt của trẻ được mở rộng hơn. Hình ảnh: Trẻ tham gia vào hội chợ quê. * Tăng cường dạy trẻ nghe - nói thông qua vật thật và đồ dùng trực quan. Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo là trực quan hành động, trẻ ghi nhớ và nhớ lại những sự kiện, những ấn tượng mà trẻ đã được trải nghiệm, vì vậy lựa chọn vật thật và đồ dùng trực quan dạy trẻ phải là những đồ vật gần gũi, có ở địa phương. Việc dạy trẻ thông qua vật thật, vừa giúp trẻ khám phá thế giới xung quanh, vừa cung cấp vốn từ cho trẻ. Đối với trẻ em dân tộc thiểu số, giáo viên không nên tham vọng quá nhiều khi cung cấp kiến thức cho trẻ. Cần biết lựa chọn đối tượng cung cấp gần gũi với cuộc sống trẻ, kết hợp chuẩn bị vật thật hoặc đồ dùng trực quan để trẻ quan sát, lựa chọn câu hỏi ngắn gọn, từ dễ đến khó, khuyến khích trẻ trả lời đủ câu. Ví dụ: Khám phá khoa học: Làm quen một số loại hoa (Chủ đề: thế giới thực vật). Tôi chọn các loại hoa có ở địa phương như: hoa Ban, hoa Bằng Lăng, hoa Cúc Vàng... - Phương pháp hướng dẫn: tôi chỉ vào từng bông hoa và nói tên ví dụ cô chỉ vào “Bông hoa Ban” cho trẻ nhắc lại “Bông hoa Ban” mỗi từ như vậy nhắc lại 3- 4 lần. Sau khi trẻ nắm vững từ mới thì dạy trẻ nói cả câu “Đây là bông hoa Ban”. Sau đó đưa ra từ mệnh lệnh “Cắm bông hoa Ban vào lọ”. Khi trẻ thực hiện đúng yêu cầu của cô giáo có nghĩa là trẻ đã hiểu được nghĩa của từ. - Sử dụng đồ dùng truyền thống gần gũi của địa phương bằng vật thật giúp trẻ tăng cường tiếng Việt có hiệu quả hơn như cái dón, hông xôi, váy Mường, khung cửi, cái ná, cái cung, .... Bộ váy Mường Cái dón Cái hông- cái niếng Cái nỏ Như vậy, qua việc lồng ghép tăng cường tiếng Việt vào các hoạt động giáo dục phù hợp đã tạo điều kiện để trẻ được tham gia các hoạt động tập thể cùng nhau, được trao đổi, thảo luận. Ngôn ngữ tiếng Việt đến với trẻ nhẹ nhàng hơn, phù hợp hoàn cảnh, giúp trẻ ghi nhớ dễ dàng. Nhờ vậy mà vốn ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ đã phong phú hơn, trẻ đã bắt đầu tự tin hơn trong hoạt động. 10 3.5. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Việc kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc chăm sóc giáo dục trẻ và nhất là trong việc “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ 3-4 tuổi vùng dân tộc thiểu số” là một việc làm không thể thiếu. Bởi như chúng ta đã biết trong các hoạt động trên lớp trẻ được phát triển ngôn ngữ tiếng Việt qua cô giáo. Nhưng chúng ta biết phối hợp với gia đình trong việc cung cấp thêm vốn tiếng Việt cho trẻ ở nhà lại càng tốt hơn vì thời gian trẻ ở nhà với bố mẹ và gia đình cũng rất nhiều. Vì vậy tôi lên kế hoạch để phối kết hợp với phụ huynh theo từng chủ đề cụ thể. Ví dụ: Chủ đề: “Những con vật đáng yêu”. Những từ tôi cần cung cấp cho trẻ là tên gọi của các con vật, các bộ phận, thức ăn, môi trường sống.... Qua các giờ hoạt động, những cháu nào còn nhầm lẫn tên gọi hay thức ăn....của con vật bằng tiếng Việt với tiếng dân tộc. Tôi trao đổi với phụ huynh và kết hợp đưa các hình ảnh của các con vật đó cho phụ huynh về củng cố cho trẻ thêm. Thông qua các buổi họp phụ huynh, ngoài việc thông báo với phụ huynh về tình hình sức khỏe, tình trạng cảm xúc và kết quả học của mỗi cháu sau mỗi chuyên đề. Tôi không quên cho phụ huynh biết khả năng tiếp thu kiến thức bài học bằng ngôn ngữ tiếng Việt của từng trẻ ra sao, rất mong phụ huynh hợp tác trong việc cung cấp tiếng Việt cho trẻ ở nhà như: Phụ huynh dùng tiếng Việt để trao đổi, trò chuyện, tiếp xúc với con em nhiều hơn để trẻ có một vốn tiếng Việt và nói thạo tiếng Việt hơn. Từ đó trẻ tiếp thu kiến thức do cô truyền đạt một cách dễ dàng. Để tăng cường thêm các đồ dùng, đồ chơi hỗ trợ hoạt động tăng cường tiếng Việt, tôi tham mưu, tuyên truyền vận động tới phụ huynh sưu tầm các nguyên vật liệu phế thải để mang đến lớp cho cô giáo làm đồ dùng, đồ chơi, học liệu cho trẻ. Bên cạnh đó, tôi xin ý kiến ban giám hiệu để thực hiện một số giờ dạy và mời phụ huynh tham dự. Được trực tiếp xem con hoạt động, xem các đồ chơi phục vụ giờ hoạt động được làm từ các nguồn nguyên vật liệu do phụ huynh cung cấp, xem khả năng ngôn ngữ và khả năng tiếp thu của con em mình. Phụ huynh đã quan tâm đến con em nhiều hơn, chăm lo cung cấp vốn tiếng Việt ở nhà cho trẻ nhiều hơn. Từ việc phối kết hợp với phụ huynh trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ, tôi thấy rằng trẻ đến lớp đã nói thạo, nói lưu loát ngôn ngữ tiếng Việt, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, không còn trẻ nói câu không rõ nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ. Trẻ mạnh dạn, tự tin giao lưu cùng cô, cùng bạn bằng ngôn ngữ Tiếng Việt, tiếp thu bài học tốt hơn. 4. Kết quả đạt được sau khi áp dụng sáng kiến Sau khi sử dụng một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi người dân tộc thiểu số, tôi thấy rằng : * Đối với trẻ: Kết quả khảo sát đạt được như sau: 11 T T Nội dung khảo sát TS Kết quả trước Kết quả sau khi trẻ khi áp dụng sáng áp dụng sáng MG kiến kiến đượ Đạt Chưa Đạt Chưa c đạt đạt KS Số Số Số Số tr % % tr % tr % trẻ ẻ ẻ ẻ - Hiểu nghĩa các từ khái quát, biết lắng nghe, trao 1 đổi với người đối thoại 26 10 38 16 62 25 96 1 4 bằng ngôn ngữ tiếng Việt. - Biết dùng ngôn ngữ tiếng Việt để diễn đạt 2 26 11 42 15 58 26 100 thành những câu có nghĩa. - Biết kể chuyện theo tranh minh họa theo suy nghĩ của mình theo ngôn 3 26 10 38 16 62 24 92 2 8 ngữ tiếng Việt, đề nghị người khác đọc sách cho nghe. Trẻ tự tin biết bày tỏ cảm 4 xúc và ý kiến cá nhân, 26 11 42 15 58 26 100 đoàn kết với bạn bè Qua bảng khảo sát cho thấy rằng, kết quả trên trẻ đã có chuyển biến rõ rệt - Trẻ đã hiểu nghĩa các từ khái quát, biết lắng nghe, trao đổi với người đối thoại bằng ngôn ngữ tiếng Việt. - Biết dùng ngôn ngữ tiếng Việt để diễn đạt thành những câu có nghĩa. - Biết kể chuyện theo tranh minh họa theo cách nghĩ của mình, đề nghị người khác đọc sách cho nghe. Tự tin khi giao tiếp với mọi người. * Đối với cô: - Nắm vững các phương pháp để tổ chức hoạt động cho trẻ. - Biết tạo môi trường phù hợp để tăng cường tiếng Việt cho trẻ. - Có sự sáng tạo trong việc tổ chức hoạt động và xử lý các tình huống. - Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong mọi hoạt động. *Đối với phụ huynh: Đã hoàn yên tâm khi gửi con đến lớp, phụ huynh đã đóng góp tinh thần cũng như vật chất giúp tôi thực hiện tốt việc dạy tiếng Việt cho trẻ. Tôi tin tưởng rằng, khi tiếp tục áp dụng các biện pháp này trong suốt quá trình chỉ đạo tăng cường tiếng Việt cho trẻ 3-4 tuổi vùng dân tộc thiểu số thì kết đạt được ở các năm học sẽ còn cao hơn nữa III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 12 1. Kết luận Từ những kết quả đã đạt được trong việc đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm sau: Giáo viên phải thật sự yêu thương gần gũi trẻ. Luôn tạo tình cảm cho trẻ giao lưu trò chuyện với cô, nghe hiểu lời nói của cô. Đổi mới trong việc tạo môi trường giáo dục, kích thích và tạo cơ hội cho trẻ tích cực khám phá, thử nghiệm và sáng tạo ở các hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt. Giáo viên cần chú trọng dạy trẻ nghe hiểu câu từ và nói chính xác câu từ đó, sử dụng đồ dùng trực quan sinh động phù hợp có hiệu quả, tạo môi trường học ngôn ngữ phong phú cho trẻ. Giáo viên cần đưa ra được giải pháp hình thành tính tự tin cho trẻ trong giao tiếp, đây cũng là một điểm mới trong việc áp dụng để phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ. Giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp, hình thức tổ chức, lựa chọn nội dung tăng cường tiếng Việt cho trẻ một cách phù hợp. Cuốn hút trẻ tham gia vào các hoạt động phát triển ngôn ngữ tiếng Việt thực sự hứng thú. Làm tốt công tác tham mưu, xã hội hóa giáo dục, tuyên truyền vận động phụ huynh và các đoàn thể, chính quyền địa phương... để tăng cường cơ sở vật chất và các điều kiện đồ dùng, đồ chơi, học liệu cho trẻ hoạt động. Xóa bỏ những tập tục thói quen lạc hậu của địa phương làm ảnh hưởng đến việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ. 2. Kiến nghị: Để từng bước giúp trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số ngày càng nâng cao chất lượng ngôn ngữ tiếng Việt, nhà trường tiếp tục quan tâm tăng cường tổ chức các lễ hội để trẻ được tham gia, để trẻ có cơ hội giao tiếp, giao lưu. Qua đó ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ cũng được phát triển. Trên đây là một số "Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi người dân tộc thiểu số ở trường mầm non Sông Âm ” trong năm học 2018-2019. Những gì đạt được còn rất khiêm tốn và mới chỉ là nền tảng cho những năm tiếp theo. Rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của Hội đồng khoa học trường mầm non Sông Âm, Hội đồng khoa học cấp trên để bản thân tôi có được những kinh nghiệm quý báu trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ. Tôi xin chân thành cảm ơn.! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ ................................................................ ............................................................... ................................................................ ................................................................. ................................................................. ................................................................. Ngọc Lặc, ngày 10 tháng 04 năm 2019 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết Đỗ Thị Lan 13 14 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan