Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn một số biện pháp tăng cường khả năng dạy trẻ 5 6 tuổi người dân tộc thiểu s...

Tài liệu Skkn một số biện pháp tăng cường khả năng dạy trẻ 5 6 tuổi người dân tộc thiểu số trường mn nói chuẩn tiếng phổ thông

.DOC
27
4
74

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GD&ĐT CẨM THỦY SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG DẠY TRẺ 5-6 TUỔI B1 NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TRƯỜNG MẦM NON CẨM QUÝ NÓI CHUẨN TIẾNG PHỔ THÔNG Người thực hiện: Nguyễn Thị Nhung Chức vụ : Giá viên Đơn vị công tac: Trường Mầm Ńn Cẩm Quý SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn. THANH HÓA NĂM 2018 MỤC LỤC TT 1 NỘI DUNG SỐ TRANG MỞ ĐẦU 1 1.1 Lý do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 2 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2 2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. 2 2.2 Thực trạng của vấn đề. 4 2.2.1 Thuận lợi. 4 2.2.2 Khó khăn. 4 2.2.3 Kết quả thực trạng 5 2 2.3 Cac biện phap, giải phap 6 2.3.1 Biện pháp 1: Trò chuyện với trẻ. 6 2.3.2 Biện pháp 2: Vận động trẻ dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn tiếp tục đến trường đi học. 8 2.3.3 Biện pháp 3: Phối kết hợp với các bậc phụ huynh trong quá trình tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông. 9 2.3.4 Biện pháp 4: Tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông thông qua các hoạt động trong ngày. 11 2.3.5 Biện pháp 5: Tăng cường khả năng dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông ở mọi lúc mọi nơi. 14 Biện pháp 6: Tổ chức họp tổ chuyên môn khối mẫu giáo để cùng trao đổi tìm ra phương pháp hay. 16 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 17 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 19 3.1 Kết luận 19 3.2 Kiến nghị 19 2.3.6 2.4 3 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Lý d́ chọn đề tài: Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo viên mầm non được xem là người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội chủ nghĩa, tùy theo mỗi độ tuổi mà giáo dục khác nhau. Tuổi mầm non trẻ mới bắt đầu trong quá trình học nói, chính vì vậy mà tăng cường khả năng nói chuẩn tiếng phổ thông cho trẻ, đặc biệt là trẻ em vùng dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng. Bởi vì các cháu dân tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ của trẻ, nên khó khăn trong việc tiếp nhận tiếng việt, dẫn đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cô bằng ngôn ngữ tiếng phổ thông. Chính vì vậy việc cung cấp và tăng cường khả năng nói chuẩn tiếng phổ thông cho trẻ dân tộc thiểu số là vấn đề cần được quan tâm, nhằm hình thành và phát triển những kỹ năng cần thiết cho việc học tiếng phổ thông ở các bậc học tiếp theo. Trường mầm non là trường học đầu tiên chăm sóc và nuôi dưỡng giáo dục trẻ, dạy trẻ nói chuẩn được tiếng phổ thông hết sức quan trọng với trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ 5-6 tuổi chuẩn bị bước vào lớp 1, là tiền đề cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ sau này. Vì ngôn ngữ có chức năng làm công cụ tư duy, công cụ biểu đạt tư tưởng, tình cảm và là phương tiện giao tiếp của các thành viên trong xã hội, Góp phần phát triển toàn diện nhân cách của trẻ. Năm học 2017 – 2018 nhà trường phân công tôi phụ trách lớp lớn B1 (56 tuổi) trường mầm non Cẩm Quý, tôi nhận thấy quá trình tham gia vào tất cả các hoạt động như: Hoạt động học, hoạt động làm quen tiếng việt… Trẻ chưa thực sự hứng thú, chưa tự tin trong giao tiếp, chưa hòa mình vào chơi cùng với các bạn, các cháu rất nhút nhát, sợ sệt và ngại ngùng khi giao tiếp với cô giáo, các bạn và mọi người xung quanh. Vì 100% học sinh trong lớp là con em dân tộc thiểu số (dân tộc mường) nói chưa thành thạo tiếng phổ thông, khi ở gia đình các cháu giao tiếp hoàn toàn sử dụng bằng tiếng dân tộc mường. Vì vậy mà khả năng giao tiếp bằng tiếng phổ thông của trẻ còn rất nhiều hạn chế. Tôi nghĩ rằng việc tăng cường khả năng dạy nói chuẩn tiếng phổ thông cho trẻ 5-6 B1tuổi người dân tộc thiểu số là rất quan trọng và hết sức cần thiết. Theo kết quả của EDI Việt Nam cho thấy rằng trẻ em vùng dân tộc thiểu số có nguy cơ dễ bị thiếu hụt cao nhất, cụ thể là ở mức thấp nhất 10% điểm số ở ít nhất một lĩnh vực phát triển. Điều này có nghĩa rằng nếu trẻ có khó khăn trong giao tiếp bằng tiếng việt, trẻ sẽ gặp khó khăn trong học tập và chỉ khi trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông thì trẻ sẽ mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong quá trình học tập cũng như giao tiếp của trẻ, trẻ hiểu và nói chuẩn tiếng phổ thông sẽ giúp trẻ lĩnh hội được các kiến thức bổ ích và tư duy tốt. Nhận thức được tầm qua trọng của việc “Nói chuẩn tiếng phổ thông” đối với trẻ dân tộc thiểu số, vì khi trẻ nói chuẩn và thành thạo tiếng phổ thông sẽ là tiền đề giúp phát triển toàn diện nhân cách của trẻ sau này. Xuất phát từ những suy nghĩ trên nên tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp tăng 2 cường khả năng dạy trẻ 5-6 tuổi B1 người dân tộc thiểu số ở trường mầm non Cẩm Quý nói chuẩn tiếng phổ thông”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Xác định rõ mục đích nghiên cứu về khả năng dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông của trẻ dân tộc thiểu số ở lớp tôi phụ trách 5-6 tuổi B1. Nhằm giúp trẻ mạnh dạn hơn, tự tin hơn, nói chuẩn tiếng phổ thông trong quá trình học tập, vui chơi cũng như khi giao tiếp với cô giáo, các bạn và mọi người xung quanh trẻ. Vấn đề đặt ra hiện nay đối với tôi là làm thế nào để giúp trẻ dân tộc thiểu số trong lớp nói chuẩn tiếng phổ thông. Xuất phát từ những suy nghĩ trên với mong muốn giúp cho trẻ dân tộc thiểu số trong lớp nói riêng và trẻ dân tộc thiểu số của trường mầm non Cẩm Quý nói chung nói chuẩn được tiếng phổ thông, và để thực hiện có hiệu quả tôi đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp tăng cường khả năng dạy trẻ 5-6 tuổi B1người dân tộc thiểu số ở trường mầm non Cẩm Quý nói chuẩn tiếng phổ thông”. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Tổng hợp mô ̣t số biê ̣n pháp nghiên cứu để tăng cường khả năng dạy nói chuẩn tiếng phổ thông cho trẻ 5-6 tuổi B1 ở trường mầm non Cẩm Quý – Cẩm Thủy – Thanh Hóa. 1.4. Phương phap nghiên cứu. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Xây dựng cơ sở lý thuyết; phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin tại lớp mẫu giáo lớn B1. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu; Phương pháp xây dựng kế hoạch; phương pháp thực hiện trên trẻ 5-6 B1 dân tộc thiểu số ở trường mầm non Cẩm Quý năm học 2017 – 2018. Phương pháp thực hành dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sang kiến kinh nghiệm. Hoạt động chủ đạo của trẻ tuổi mầm non là “Học mà chơi – chơi mà học”. Chính vì vậy mà quá trình học của trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào giáo viên, người giáo viên phải làm gì? Dạy trẻ bằng cách nào để phát huy được tính tích cực ở trẻ . Để từ đó tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông. Quá trình tôi tìm hiểu, nghiên cứu tại thôn bản, tôi được biết 96% người dân và các cháu nhỏ trong thôn bản rất hạn chế về tiếng phổ thông. Vì thế việc tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông là hết sức quan trọng và cần thiết cho trẻ dân tộc thiểu số, có tác động rất lớn đối với sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ sau này. 3 Ngôn ngữ tiếng việt của trẻ được xây dựng khi trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số đang sử dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ với các thói quen ngôn ngữ đã có. Việc lĩnh hội ngôn ngữ tiếng việt của trẻ sẽ chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ ở mức độ nhất định, do đó trong những trường hợp có thể, nên giúp trẻ dân tộc thiểu số kế thừa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ trong việc học ngôn ngữ tiếng việt. Một số dân tộc sống ở khu vực gần nơi có nhiều người Kinh sinh sống, tiếng phổ thông trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc trong cộng đồng đó, nên việc học tiếng phổ thông của trẻ có nhiều thuận lợi. Một số dân tộc sống ở vùng sâu, vùng xa điều kiện sống tách biệt, hoặc khu vực chỉ có một dân tộc thuần túy, không có nhu cầu giao tiếp giữa các dân tộc với nhau và tiếng phổ thông không phải là ngôn ngữ giao tiếp chung trong cộng đồng, chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ, để giao tiếp nên trẻ em ở môi trường này chỉ có duy nhất kinh nghiệm ngôn ngữ trong phạm vi tiếng mẹ đẻ”. Ngoài ra, do đời sống kinh tế còn quá khó khăn nên đại đa số các gia đình ở đồng bào vùng núi sâu xa không được tiếp cận với các thông tin đại chúng, điều đặc biệt nữa là trình độ của người dân còn rất thấp, rất ít người biết chữ, biết viết nên khi ở gia đình các cháu ít có cơ hội được giao tiếp với ông, bà, bố, mẹ, người thân bằng tiếng phổ thông. Trẻ 5-6 tuổi dân tộc thiểu số là bậc học đầu tiên bắt đầu học tiếng phổ thông trên cơ sở kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ mà không phải là tiếng Việt. “Môi trường giao tiếp tiếng việt của các cháu người dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường lớp mầm non). Việc học tiếng phổ thông của trẻ 5-6 tuổi dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng mẹ đẻ với tiếng Việt. Bản thân là giáo viên người dân tộc mường (dân tộc thiểu số) sinh sống trên địa bàn xã Cẩm Quý nên rất hiểu và nói thông thạo tiếng tiếng dân tộc, luôn tìm ra các biện pháp mới và tối ưu nhất để giúp cho các cháu nói, hiểu và phát âm chuẩn tiếng phổ thông, “Nếu trẻ em người dân tộc thiểu số không nói chuẩn tiếng phổ thông đó là một sự thiếu hụt lớn kể cả mặt thể chất lẫn tinh thần của trẻ sau này. Chính vì vậy dạy tiếng phổ thông cho trẻ em dân tộc thiểu số là một trong các nội dung và biện pháp quan trọng để giảm bớt sự thiếu hụt trong sự phát triển của trẻ, cần tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Việc tăng cường khả năng nói chuẩn tiếng phổ thông cho trẻ 5-6 dân tộc thiểu số cũng góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ Mầm non. Đó là một trong những phương tiện để phát triển trí tuệ, phát triển ngôn ngữ ở trẻ, cũng như giáo dục tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ. Nên giáo viên vừa là người dạy học vừa là người phiên dịch cho các cháu giúp các cháu hiểu và nói chuẩn tiếng phổ thông hơn. Đó là tiền đề cần thiết để trẻ học tốt các môn học ở trường tiểu học. 4 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi ap dụng sang kiến kinh nghiệm. Lớp mẫu giáo lớn B1 là một trong những lớp của Trường Mầm Non Cẩm Qúy thuộc xã vùng cao của Huyện Cẩm Thủy, trong lớp 100% số trẻ là con em dân tộc Mường, điều kiện kinh tế của các bậc phụ huynh còn gặp rất nhiều khó khăn. 2.2.1. Thuận lợi Luôn được ban giám hiệu nhà trường quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt như cơ sở vật chất, trang thiết bị trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Được bên chuyên môn nhà trường thường xuyên tổ chức các cuộc thi “Bé kể chuyện sáng tạo, câu lạc bộ bạn yêu thơ…” nhằm tạo điều kiện cho học sinh ở các lớp được tham gia học hỏi, thể hiện tài năng và phát triển ngôn ngữ thứ hai của các cháu. Được sự quan tâm của các ban ngành đoàn thể trong xã, lãnh đạo địa phương đã từng bước chăm lo đến cơ sở vật chất của nhà trường. Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề nghiệp và luôn được sự yêu mến của các cháu học sinh. Được sự quan tâm của các bậc phụ huynh trong lớp cùng phối kết hợp để chăm sóc – Giáo dục trẻ. 2.2.2 Khó khăn: Cẩm Quý là một xã miền núi vùng sâu, vùng xa, là một xã vừa thoát khỏi vùng 135, nhưng đời sống kinh tế xã hội còn gặp không ít khó khăn. Lớp lớn B1 do tôi phụ trách: 100% các cháu đều là dân tộc mường, con em đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình lại cách xa khu trung tâm, nên khả năng học hỏi, giao tiếp bằng tiếng phổ thông rất hạn chế, các cháu còn rất rụt rè, nhút nhát. Vì vậy khi tham gia vào các hoạt động cùng cô, cùng bạn bè trẻ chưa mạnh dạn, tự tin, và chưa phát huy được tính tích cực của trẻ. Các cháu chỉ giao tiếp bằng tiếng dân tộc và chính ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ này từ khi sinh ra trẻ được dạy và nghe qua các câu hát, lời ru, câu chuyện của ông, bà, bố mẹ... người thân của trẻ nên trẻ rất khắc sâu. Nhận thức của các bậc phụ huynh: Nhìn chung rất nhiều các bậc phụ huynh chưa nhận thức đúng về vai trò của việc dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông có tác dụng như thế nào đối sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ sau này. Nhiều phụ huynh không cần biết đến việc chuẩn bị cho trẻ đến trường là gì? Họ không quan tâm đến việc dạy trẻ nói tiếng việt khi đến lớp có tác dụng như thế nào đối với sức khỏe cũng như sự phát triển về mọi mặt của trẻ. Vì gia đình nghèo khó cơm không no nói gì là đến trường đi học, chỉ biết lo cho con cái 5 ngày 3 bữa ăn là đủ rồi. Không chỉ vậy mà trình độ văn hóa của nhiều bậc phụ huynh còn rất thấp. Nhận thức chung của mọi người dân địa phương: Nhìn chung mọi người dân địa phương trên địa bàn xã cẩm quý chưa nhận thấy được việc tăng cường khả năng cho trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông có tác dụng tích cực đối với trẻ, mà chỉ biết đi làm nương rẫy để kiếm cái ăn no bụng, còn nói tiếng dân tộc là được rồi cần gì phải nói chuẩn tiếng phổ thông làm gì? Nhiều người dân địa phương chưa hiểu được việc con em mình đến trường đi học là phải nói chuẩn tiếng phổ thông thì quá trình hoạt động ở trường mới mang lại hiệu quả cao cho các cháu, họ chưa hiểu giáo viên mầm non là dạy những gì? Và dạy như thế nào? Còn về việc dạy học tôi vẫn tiến hành đầy đủ, dạy theo chương trình giáo dục mầm non. Nhưng khi tiến hành tôi nhận thấy tiết học vẫn chưa thu hút được sự chú ý của trẻ, trẻ còn rất nhút nhát, rụt rè, khi giao tiếp hay khi trả lời các câu hỏi của cô. Từ đó chưa phát triển một cách toàn diện nhân cách trẻ Mầm non. 2.2.3. Kết quả thực trạng: Từ những nguyên nhân và hạn chế trên nên hiệu quả của việc tăng cường khả năng dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông điều đó thể hiện rất rõ khi ta nhìn vào quá trình trẻ giao tiếp với cô giáo, các bạn và mọi người xung quanh rất nhút nhát, e ngại, chưa tự tin, sợ sệt, lúng túng trong khi giao tiếp vì các cháu chưa nói thông thạo tiếng phổ thông, khả năng nói tiếng phổ thông của trẻ còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy mà trẻ rất ngại giao tiếp với mọi người xung quanh và nhiều lúc còn nói tiếng dân tộc. Mặc dù các cháu đã được học qua lớp mẫu giáo bé, mẫu giáo nhỡ nhưng nhìn chung khả năng hiểu, nói chuẩn và thành thạo tiếng phổ thông của trẻ còn rất hạn chế. Ví dụ: Khi trẻ chơi ở góc tạo hình, rất nhiều trẻ sử dụng tiếng dân tộc để giao tiếp với nhau, là giáo viên gốc dân tộc mường nhiều lúc tôi cần phải khéo léo sử dụng tiếng dân tộc để hỏi trẻ “Cảc con đang vẻ cày chi” nghĩa là “Các con đang vẽ gì? Để hướng đến tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông. Việc tăng cường khả năng dạy trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số ở trường mầm non Cẩm Quý nói chuẩn tiếng phổ thông”. Tôi không có điều kiện tìm hiểu rộng, mà tôi chỉ tìm hiểu khảo sát thực nghiệm trên lớp mẫu giáo lớn B1, do tôi phụ trách. Qua sự theo dõi và quá trình tiếp xúc với trẻ hàng ngày tôi thấy được thực trạng của trẻ hiểu ngôn ngữ mới, phát âm chuẩn, mạnh dạn tự tin trong quá trình giao tiếp hàng ngày bằng tiếng phổ thông đầu năm học như sau: 6 Kết quả khảo sát T T Tiêu chí 1 Trẻ hiểu được ngôn ngữ mới. Trẻ biết lắng nghe và phát âm chuẩn tiếng phổ thông. 2 3 Trẻ mạnh dạn, tự tin trong quá trình giao tiếp hàng ngày bằng tiếng phổ thông. Tổng số trẻ Trước khi ap dụng biện phap Tốt Kha TB Yếu 25 3 = 12% 3 = 12% 8 = 32% 11 = 44% 25 3 = 12% 3 = 12% 7 = 28% 12 = 48% 25 4 = 16% 3 = 12% 5 = 20% 13 = 52% Nhìn vào kết quả khảo sát trên ta thấy vốn tiếng phổ thông của trẻ còn rất hạn chế. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp 5-6 tuổi căn cứ từ kết quả khảo sát trên tôi thấy việc trẻ hiểu, phát âm chuẩn tiếng phổ thông và trẻ mạnh dạn tự tin trong quá trình giao tiếp hàng ngày bằng tiếng phổ thông còn kém. Để khắc phục và giải quyết thực trạng với một số hạn chế trên tôi đã cố gắng tìm tòi và áp dụng “Một số biện pháp tăng cường khả năng dạy trẻ 5-6 tuổi B1người dân tộc thiểu số ở trường mầm non Cẩm Quý nói chuẩn tiếng phổ thông” như sau: 2.3. Cac biện phap, giải phap. 2.3.1. Biện phap 1: Trò chuyện với trẻ. Tôi lựa chọn biện pháp đầu tiên là “Trò chuyện với trẻ”, là một giáo viên Mầm non nên việc làm đầu tiên và trên hết là yêu nghề, mến trẻ. Tôi luôn tôn trọng trẻ bằng cách coi trọng những điều trẻ thích thú muốn tìm hiểu, trẻ đang quan tâm. Nhằm giúp cho trẻ có cảm giác thoải mái, gần gũi, trẻ trò chuyện với cô giáo như là với người thân yêu gần gũi của trẻ. Ngay từ đầu năm học khi trẻ đến trường, đến lớp, được nhận cô giáo chủ nhiệm và các bạn cùng lớp với mình, mặc dù trẻ cũng mới học qua lớp Mẫu giáo nhỡ. Nhưng nhìn chung đa số trẻ khi giao tiếp với cô giáo và các bạn trong lớp còn rất nhút nhát, sợ sệt, lúng túng chưa tự tin trong giao tiếp cũng như trong tất cả các hoạt động của trẻ ở trường Mầm non. Vì đa số các cháu trong lớp tôi phụ trách đều là con em dân tộc mường chưa nói chuẩn và hiểu thông thạo về tiếng phổ thông. Vì ở nhà với gia đình trẻ luôn sử dụng tiếng dân tộc trong giao tiếp hàng ngày. Hiểu được điều đó bản thân tôi là một giáo viên gốc dân tộc mường nên mới đầu tôi cũng sử dụng tiếng dân tộc để trò chuyện với trẻ để trẻ cảm thấy gần gũi, yêu quý cô giáo và mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp với cô giáo và mọi người xung quanh. Tôi làm người phiên dịch giúp trẻ hiểu được ngôn ngữ thứ hai, ở nhà thì có thể nói tiếng dân tộc, nhưng khi đến trường đi học phải nói đúng và chuẩn tiếng phổ thông. 7 Ví dụ: Khi cô hỏi trẻ: “Hôm nay ai đưa các con đi học?” tiếng dân tộc nghĩa là “Ngáy nay ông ngay đưa con đi hóc?”, chỉ có một vài trẻ biết và trả lời, nhưng phần đông trong lớp không hiểu cô giáo hỏi và có cảm giác rất sợ cô giáo, thì lúc đó tôi phải đến bên những cháu chưa hiểu câu hỏi của cô để hỏi trẻ bằng tiếng dân tộc: “Con sên chi” nghĩa là “ con tên gì”… (Giáo viên trò chuyện cùng trẻ) Khi trẻ trả lời câu hỏi của cô, trẻ chủ yếu sử dụng tiếng mường theo tiếng mẹ đẻ, tuy lớp lớn nhưng vẫn có một vài trẻ đang còn nói ngọng và diễn đạt câu chưa rõ ràng, mạch lạc. Qua trò chuyện với trẻ như vậy tôi nắm được khả năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời gian hơn để tăng cường giúp trẻ phát âm đúng, chuẩn tiếng phổ thông. Qua đó tôi có thể biết được đặc điểm riêng của từng trẻ, hiểu được khi trẻ ở gia đình thì trẻ chỉ sử dụng ngôn ngữ là tiếng mường vì thế tôi dần dần hướng dẫn trẻ sử dụng tiếng Phổ Thông, cung cấp thêm ngôn ngữ mới cho trẻ, trong khi trẻ trò chuyện cùng cô tôi phát âm trước cho trẻ phát âm theo và mời từng trẻ phát âm giống cô các từ đó và khắc sâu hơn cho trẻ bằng các đồ vật, đồ chơi có tranh ảnh kèm theo. Bên cạnh đó tôi luôn bao quát và tận dụng những trẻ có khả năng nói thông thạo và chuẩn tiếng phổ thông để giúp những trẻ khác còn nhiều hạn chế qua việc sử dụng tiếng mẹ đẻ để giải thích những từ ngữ khó hiểu, nói cho bạn bắt chước… Thông qua trò chuyện cùng cô cho thấy trẻ đã phát âm chuẩn hơn, mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong các hoạt động, mà đặc biệt là giao tiếp của trẻ. Để từ đó tôi biết được đặc điểm riêng của từng trẻ: Những trẻ nào còn nhút nhát, trẻ nào mạnh dạn tự tin, hiểu được sở thích, khả năng, nguyện vọng của từng trẻ để giúp trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông trong giao tiếp hàng ngày. Nắm được điều đó để tôi có hướng tăng cường dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông đạt kết quả cao. 8 2.3.2. Biện phap 2: Vận động trẻ dân tộc thiểu số có h́àn cảnh khó khăn tiếp tục đến trường. Mỗi trẻ em là một cá thể riêng biệt và đều có cơ hội thành công, các cháu rất dễ bị thiếu hụt, Vì vậy nhìn nhận và ứng sử với trẻ em dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn trong khi vốn tiếng việt lại còn rất hạn chế như thế nào? Chính vì vậy là giáo viên mầm non tôi cần phải thật sự ân cần, cởi mở, khéo léo trong tất cả các hoạt động. Vì vậy để bù đắp sự thiếu hụt đó của các cháu, tôi không quản ngại khó khăn, đến các gia đình cho con em nghỉ học để vận động các cháu tiếp tục đến trường. Mong sao cho mỗi trẻ đến trường đều vui vẻ, nói chuẩn tiếng phổ thông để tự tin tham gia các hoạt động trong ngày cùng cô giáo và các bạn. Ở lớp tôi phụ trách 100% học sinh là con em dân tộc thiểu số nên đa số các cháu rất nhút nhát và sợ sệt khi đến trường học do vốn tiếng phổ thông của các cháu rất hạn chế, sợ khi đi học bị các bạn chê bai, cười nhạo.., Bên cạnh đó do bận nhiều công việc và gia đình lại có hoàn cảnh khó khăn mà một số phụ huynh đã phải cho con nghỉ học ở nhà để trông em cho bố mẹ đi làm, hoặc có cháu phải đi lên nương, lên rẫy cách nhà rất xa để làm việc giúp bố, mẹ. Ví dụ: Gia đình cháu Quách Thanh Hà ở thôn Vin – Xã Cẩm Quý là một trong những gia đình thuộc hộ nghèo của thôn, do quá bận công việc nương rẫy và lo cho cái đói cận kề nên bố mẹ không có thời gian chăm con và dạy con nói chuẩn tiếng phổ thông khi đến trường học với các bạn, đặc biệt là bố mẹ cháu nói chưa thành thạo tiếng phổ thông nên chưa hiểu cách cung cấp tiếng phổ thông cho con đến trường đi học và rất sợ các bạn khác trêu chọc, cười nhạo… Nên phải cho con nghỉ học ở nhà. Là cô giáo sống trên địa bàn và là người dân tộc mường nên tôi đã xin ý kiến của Ban giám hiệu nhà trường đến gia đình cháu vận động cháu đến lớp đi học lại với các bạn. Đến gia đình cháu tôi luôn tạo sự gần gũi, thân thuộc trong bộ trang phục người dân tộc Mường mà chúng tôi thường mặc hàng ngày khi ở Bản làng. 9 (Vận động phụ huynh trẻ cho con em mình tiếp tục đến trường đi học) Tôi động viên phụ huynh khi gửi gắm các con đến trường, các cháu luôn được sự yêu thương, đùm bọc, được sự quan tâm, dạy dỗ của các cô giáo ở lớp, các cháu ở lớp đa số đều là con em dân tộc và có hoàn cảnh khó khăn nên các cháu rất hiểu và thông cảm với bạn. Khi trẻ đến lớp trẻ được tham gia chơi cùng bạn, nghe các bạn nói chuyện, đọc thơ, kể chuyện…Giao tiếp bằng tiếng phổ thông trẻ sẽ học theo, trẻ mạnh dạn, tự tin hơn khi có vốn ngôn ngữ phổ thông mới. Từ đó giúp phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ sau này. Qua vận động, các phụ huynh đã tin tưởng vào cô giáo và gửi gắm con em mình cho cô giáo tiếp tục đến trường để học tập, vui chơi cùng cô giáo và các bạn. Ngoài ra các ngày nghỉ trong tuần tôi luôn tranh thủ thời gian đến thăm gia đình các cháu học sinh trong thôn bản và cùng với các thành viên trong gia đình dạy trẻ nói tiếng phổ thông qua các hoạt động hàng ngày của trẻ khi ở gia đình. Bên cạnh đó “Công tác xã hội hóa giáo dục” cũng vô cùng quan trọng, tôi tham mưu với các đoàn thể trong thôn: Hội phụ nữ, đoàn thanh niên…Để tìm ra phương pháp hay để giúp bà con trong thôn bản nói và dạy tiếng phổ thông cho con em mình. Đồng thời tôi phối hợp với các thôn bản để tuyên truyền, tác động đến mọi gia đình qua loa đài phát thanh, các bài viết…“Hãy giao tiếp với trẻ bằng tiếng phổ thông nhiều hơn trong trong sinh hoạt hàng ngày” ở gia đình trẻ. Bằng biện pháp trên tôi thấy trẻ rất tự tin khi đến lớp, không còn rụt rè, nhút nhát, có thêm ngôn ngữ mới do được cô giáo và gia đình trẻ cung cấp khi ở nhà, nên trẻ rất thích đến trường để học cùng cô giáo và các bạn, phụ huynh rất yên tâm khi gửi gắm con em mình cho cô giáo. 2.3.3. Biện phap 3: Phối kết hợp với cac bậc phụ huynh tŕng qua trình tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông. Để lên kế hoạch tăng cường khả năng dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông, thì công việc tiếp theo của tôi là “Tổ chức cuộc họp phụ huynh” tại lớp. 10 (Tổ chức cuộc họp phụ huynh tại lớp mẫu giáo lớn B1) Ở cuộc họp truyền đạt đến cho phụ huynh về tầm quan trọng của việc tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông, giúp cho trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông, hiểu từ mới, hòa nhã, mạnh dạn, tự tin trong khi giao tiếp với cô giáo, các bạn và mọi người xung quanh trẻ. Từ đó khơi gợi được lòng ham học hỏi của trẻ khi ở trường cũng như ở gia đình các các cháu. Khi trẻ nói chuẩn và thành thạo tiếng phổ thông thì mặt nhận thức và ngôn ngữ của trẻ phát triển, đồng nghĩa trẻ sẽ phát triển toàn diện nhân cách trên mọi mặt: Đức – Trí – Thể - Mỹ. Thông qua cuộc họp phụ huynh truyền đạt đến tính tích cực của việc gia đình phối kết hợp cùng nhà trường, thông báo kết quả học tập của các cháu và đặc biệt không quên cho phụ huynh biết khả năng tiếp thu kiến thức bài học bằng ngôn ngữ tiếng phổ thông của mỗi cháu ra sao và từ đó thống nhất với phụ huynh xây dựng nội quy của lớp là “Tất cả trẻ em khi đến lớp đều phải nói bằng tiếng phổ thông”. Vì vậy cần phải tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông ở mọi lúc mọi nơi, đặc biệt khi trẻ ở nhà các thành viên trong gia đình cần dùng tiếng phổ thông để nói chuyện, giao lưu với trẻ thường xuyên. Có thể là giờ ăn cơm…Và chú ý khi cháu nói tiếng dân tộc thì các bậc phụ huynh sửa sai ngay cho trẻ. Ngoài ra tôi còn tuyên truyền đến các bậc phụ huynh tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương như: Vỏ ốc, ống nước com pho,….Rửa sạch, phơi khô để cô và trẻ cùng làm đồ dùng đồ chơi có ghi tên đồ vật tương ứng bằng chữ in thường, giúp trẻ nhận biết và phát âm các từ chuẩn tiếng phổ thông. Ví dụ: Ống nước rửa bát rửa sạch, phơi khô và làm được cái làn trông rất đẹp giúp cho các cháu chơi ở hoạt động góc phân vai, trẻ nhận biết và phát âm chuẩn từ “Cái làn” từ đó giúp trẻ nói chuẩn và thông thạo tiếng phổ thông hơn. Qua đó giúp trẻ hiểu được ngôn ngữ mới và nói chuẩn tiếng phổ thông hơn trong các hoạt động ở lớp cũng như khi ở gia đình trẻ. 11 Tôi tổ chức giờ hoạt động ở góc địa phương bên ngoài lớp học, tạo dựng môi trường văn hóa đậm đà bản sắc, gần gũi và để trẻ tắm mình trong môi trường tiếng việt sẽ có tác dụng tích cực giúp trẻ giao tiếp tốt bằng tiếng việt. Tôi sưu tầm và sắp xếp đồ dùng, trang phục…của đồng bào dân tộc mường, sản vật địa phương mang đậm bản sắc dân tộc …trưng bày để trẻ hoạt động ở góc. Ngoài ra tôi vận động phụ huynh làm một số đồ chơi công cụ như: Cái bừa, cái cày…Tất cả các đồ dùng, vật thật tôi đều chú thích tên gọi bằng tiếng việt (chữ in thường) bên dưới mỗi hình ảnh để trẻ làm quen chữ viết tiếng việt. Lồng ghép thư viện thân thiện ngoài trời: Sách, báo,…, xây dựng không gian mở tạo cơ hội cho trẻ được tiếp cận thường xuyên với sách. Tôi mời phụ huynh đến dự giờ, tham gia hoạt động cùng cô và trẻ, tôi hướng dẫn các bậc phụ huynh cùng tham gia hoạt động dạy trẻ diễn đạt song song các nội dung đó bằng ngôn ngữ tiếng việt và tiếng mẹ đẻ (nếu có thể). Ví dụ: Khi trẻ giới thiệu đồ dùng để bán hàng: Cái cày,váy mường, quyển sách…chưa nói thành thạo tiếng phổ thông. Tôi cùng với các bậc phụ huynh diễn đạt, giải thích và cung cấp tiếng phổ thông cho trẻ cùng nhắc lại nhiều lần. (Các bậc phụ huynh dự giờ và tham gia hoạt động cùng trẻ ở góc địa phương ngoài trời ) Sử dụng biện pháp trên tối thấy được việc trẻ học thêm được nhiều ngôn ngữ mới tiếng phổ thông và nói chuẩn tiếng phổ thông hơn, 100% phụ huynh trẻ ủng hộ với cách làm của cô, đã quyên góp rất nhiều các nguyên vật liệu có từ địa phương để giúp cô và trẻ làm được nhiều đồ dùng phục vụ cho các hoạt động ở trường cô dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông hơn. Đồng thời qua tiết dự giờ và hoạt động cùng trẻ, các bậc phụ huynh hiểu thêm về cách dạy từ ngữ phổ thông mới cho trẻ, từ đó họ cũng tạo những khoảng thời gian ở nhà thông qua quá trình sinh hoạt hàng ngày… Giao tiếp với trẻ nhiều bằng tiếng phổ thông nhiều hơn. Đồng thời sửa sai cho trẻ để dạy trẻ nói chuẩn tiêng phổ thông, phụ huynh tận 12 dụng những vật liệu phế thải có từ địa phương và cùng với trẻ làm một số đồ dùng đồ chơi để trẻ chơi và vừa giúp quá trình học từ mới có hình ảnh, vật thật kèm theo mở rộng vốn từ để trẻ ghi nhớ hơn. Từ đó giúp trẻ có thêm ngôn ngữ mới, tự tin trong quá trình giao tiếp với mọi người xung quanh. 2.3.4. Biện phap 4: Tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông thông qua cac h́ạt động tŕng ngày. Để tăng cường dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông, tôi luôn chú trọng nội dung tăng cường tiếng việt trong kế hoạch giáo dục tuần và ngày. * Thông qua môn văn học: Đối với trẻ Mẫu giáo văn học vô cùng quan trọng “Đó là món ăn tinh thần” không thể thiếu được ở mỗi trẻ, văn học luôn gắn bó với tuổi thơ của trẻ em mà trong cuộc đời ai ai cũng đã từng trải qua một thời thơ ấu, đó là những bài thơ, câu chuyện… được cô giáo, người bà, người mẹ kể lại cho chúng ta nghe. Thông qua thơ, ca…Chọn lọc phù hợp với lứa tuổi Mầm non, trẻ em sẽ được tiếp xúc với những lời hay, ý đẹp, được giáo dục về mặt tình cảm, đạo đức xã hội. Nhận thức được điều này để giúp trẻ học tiếng phổ thông và nâng cao khả năng sử dụng tiếng phổ thông trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi thấy trước hết cần dạy trẻ kỹ năng chú ý nghe và phát âm qua môn văn học. Điều đầu tiên tôi luôn lựa chọn các bài thơ, câu chuyện... phù hợp với trẻ 5-6 tuổi, có nội dung hấp dẫn để lôi cuốn trẻ học, Tôi luôn tạo ra tình huống bất ngờ thú vị và bằng giọng nói truyền cảm để gây hứng thú trẻ vào hoạt động, giờ học tôi luôn tổ chức với các hình thức vui chơi thật thoải mái để giúp trẻ không cảm thấy nặng nề và để gây sự chú ý, khơi gợi tính tò mò của trẻ khi vào học tôi dùng ngôn ngữ giới thiệu hấp dẫn các từ ngữ thật gần, thật dễ hiểu đối với trẻ, tôi đọc thơ hay kể chuyện với giọng đọc, kể diễn cảm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các nhân vật trong truyện. Trong khi trẻ đọc thơ, kể truyện hay đàm thoại về nội dung câu truyện tôi luôn bao quát và chú ý để sửa sai cho trẻ và dạy trẻ phát âm chuẩn tiếng phổ thông. Ví dụ: Chủ đề “Gia đình” khi dạy trẻ kể truyện “Hai anh em” trẻ kể truyện cùng cô kết hợp mô hình…Cho trẻ nhắc lại những từ ngữ khó bằng những hình ảnh cụ thể, cho trẻ phát âm và sửa sai cho trẻ, từ những hình ảnh trong câu truyện có thể gợi mở và hướng dẫn trẻ cùng làm các con rối trong câu truyện cùng cô và nhắc lại tên các nhân vật, sản phẩm của trẻ được làm cùng cô trẻ sẽ rất thích thú và càng yêu thích môn văn học hơn, hoặc trẻ kể các câu truyện sáng tạo, Từ đó giúp trẻ khắc sâu kiến thức và nói chuẩn tiếng phổ thông hơn. Bên cạnh đó tôi có thể vận dụng kiến thức, kỹ năng tiếng mẹ để để dạy học ngôn ngữ thứ hai. Tôi có thể giải thích ý nghĩa, nội dung của đoạn truyện khi trẻ chưa hiểu rõ bằng tiếng mẹ đẻ của trẻ và có lúc trẻ có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ khi trẻ nói, trao đổi suy nghĩ, ý tưởng của mình về tranh ảnh, nội dung câu truyện vì đa số trẻ rất hạn chế khi nói tiếng phổ thông. 13 Tôi luôn khuyến khích, khen, động viên trẻ kịp thời nhằm phát huy tính tích cực của trẻ. Chính vì vậy trẻ rất thích đọc thơ, kể truyện, nhiều cháu thuộc thơ, thuộc truyện và nhớ truyện một cách hoàn chỉnh. Nhờ vậy mà việc cung cấp tiếng phổ thông cho trẻ 5-6 tuổi B1người dân tộc thiểu số ở lớp tôi phụ trách trẻ đã tự tin nói rõ ràng, mạch lạc, nói chuẩn tiếng phổ thông hơn so với trước. * Thông qua môn làm quen chữ cai: Sau khi giúp trẻ làm quen và nắm bắt được các chữ cái đã học ở từng chủ điểm, tôi tiến hành cho trẻ tham gia các trò chơi với chữ cái, cho trẻ tô với chữ cái giúp trẻ dần dần nắm được toàn bộ hệ thống chữ cái quy định trong chương trình, đồng thời chính xác hóa cách phát âm cho trẻ. Do đặc điểm của lứa tuổi nên việc giáo dục trẻ mẫu giáo được tiến hành theo phương châm “Học mà chơi, chơi mà học”. Từ đó tôi luôn suy nghĩ cần phải phát huy hết tác dụng của các trò chơi để tăng cường khả năng dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông. Điều đáng chú ý là trẻ lớp lớn 5-6 tuổi B1 rất thích được học qua hình ảnh trục quan, tổ chức hoạt động học thông qua các trò chơi, mỗi khi trẻ nhìn thấy đồ dùng đồ chơi trẻ rất vui thích tìm hiểu, sờ mó và cùng nhau khám phá. Nắm bắt được đặc điểm này tôi đã không ngừng sưu tầm những những trò chơi hay mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội dung từng chủ điểm. Ví dụ: Ở chủ điểm “Trường mầm non”, trong giờ trò chơi với chữ cái o,ô,ơ. Tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi: “Xếp chữ bằng hòn đá cuội, hòn sỏi”, trẻ xếp chữ cái: o,ô,ơ và phát âm nhiều lần. Trẻ được chơi các trò chơi chữ cái bằng những hòn đá, hòn sỏi từ thiên nhiên rất gần gũi với trẻ. (Trẻ chơi xếp chữ bằng hòn đá cuội, hòn sỏi) Ví dụ: Khi trông thấy hòn đá sỏi trẻ nói “hốn khú” nghĩa là “ Hòn đá cuội”. Tôi luôn sửa sai lại cho trẻ ngay lúc đấy. Đồng thời giáo dục trẻ yêu quý 14 các sự vật, hiện tượng gần gũi xung quanh trẻ, Từ đó giúp trẻ nói đúng và phát âm chẩn tiếng phổ thông. Tôi còn cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái qua nhiều trò chơi khác như: “Nối chữ cái với từ có chứa chữ cái đó”… Tôi sửa sai và động viên trẻ kịp thời. Bên cạnh đó tôi luôn tranh thủ thời gian làm thêm một số đồ dùng đồ chơi để cho trẻ được thực hành trải nghiệm. Tôi thiết nghĩ trẻ được thực hành trải nghiệm với nhiều đồ dùng đồ chơi sẽ giúp trẻ ghi nhớ chữ cái một cách sâu sắc hơn, phát âm tiếng phổ thông một cách chuẩn hơn. Từ đó cũng góp phần không nhỏ vào việc cung cấp tiếng việt cho trẻ. Qua một thời gian thực hiện biện pháp trên tôi thấy lớp lớn 5-6 B1 tiến bộ rõ rệt, các cháu hứng thú trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm đúng chữ cái do tôi cung cấp. Từ đó giúp trẻ học được nhiều từ mới, nói chuẩn tiếng phổ thông để tự tin hơn trong quá trình giao tiếp. * H́ạt động làm quen tiếng việt: Trẻ em khi đến trường rất cần sự yêu thương, quan tâm, động viên của các cô giáo. Chính vì vậy người giáo viên mầm non luôn luôn yêu thương, quan tâm trẻ như con đẻ của mình, giao tiếp hàng ngày ân cần, gần gũi với trẻ, tạo niềm tin yêu trong mỗi cháu để trẻ khi đến trường luôn có cảm giác an toàn, không sợ sệt, tôi luôn sửa sai lỗi câu cũng như khi trẻ sử dụng tiếng dân tộc để giao tiếp và động viên trẻ khi đến trường các con đều phải nói bằng tiếng phổ thông. Vì vậy mà hoạt động làm quen tiếng việt hàng ngày giúp giáo viên cung cấp các từ mới cho trẻ ghi nhớ và khắc sâu.Thông qua đó trẻ được lĩnh hội các từ mới giúp ích trong quá trình nói chuẩn tiếng phổ thông của trẻ dân tộc thiểu số. Ví dụ: Trong chủ điểm “Bản thân” tôi sẽ dạy trẻ 3 từ: “Bạn trai, bạn gái, đôi mắt” tôi có thể lồng ghép dạy trẻ ở các hoạt động trong ngày, khi dạy trẻ tôi không quên sử dụng hình ảnh trực quan hoặc dùng cơ thể của trẻ để dạy, giúp trẻ ghi nhớ chú ý học hơn, mỗi từ đều cho trẻ phát âm 3 lần và mở rộng vốn từ cho trẻ. Hôm sau tôi có thể cho trẻ ôn lại các từ đã học hôm trước. Ví dụ: Có một số cháu khi cô đưa hình ảnh trẻ nói “Bán đừa” ngay lúc đó tôi kịp thời sửa sai và cho trẻ nói từ “bạn trai” mở rộng từ để khắc sâu hơn. Qua hoạt động cho trẻ làm quen tiếng việt cho thấy trẻ rất hứng thú khi được học từ mới, được chơi các trò chơi giúp trẻ nhanh nhẹn, hoạt bát, thích chơi với bạn hơn. Từ đó trẻ nói thông thạo tiếng phổ thông hơn. 2.3.5. Biện phap 5: Tăng cường khả năng dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông ở mọi lúc mọi nơi: Tôi thường xuyên tổ chức “Dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông” ở mọi lúc mọi nơi và cho trẻ tham gia. Vì chỉ có hoạt động ở mọi lúc mọi nơi thì mới có thể tạo được cảm giác thoải mái ở trẻ, vui vẻ trẻ thích được thể hiện những gì mà mình mong muốn. Vì vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ Mầm non. 15 * Giờ đón trẻ - trả trẻ: Hàng ngày trẻ được người thân trong gia đình đưa đến trường đi học với cô giáo và các bạn đó là niềm vui mỗi ngày của trẻ. Nhưng để điều đó có ý nghĩa hơn thì mỗi trẻ đều phải trang bị cho mình ngôn ngữ tiếng phổ thông để đến lớp dễ dàng hiểu và giao tiếp với bạn bè và cô giáo. Qua giờ đón - Trả trẻ tôi luôn cung cấp các từ ngữ phổ thông hàng ngày cho trẻ, có thể là lời chào cô giáo khi đến lớp, chào ông, bà, bố mẹ… Khi người thân trẻ đến đón. Qua đó cung cấp các từ ngữ phổ thông cho trẻ hàng ngày để củng cố và khắc sâu. Vì ở gia đình trẻ chỉ nói chuyện giao tiếp bằng tiếng dân tộc nên tôi phải từng bước một tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông để đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó tôi luôn tạo ra sự ân cần, an ủi động viên với các cháu, đặc biệt là những cháu rụt rè, ngại ngùng chưa tự tin khi đến trường thậm chí rất nhiều cháu mặc dù là độ tuổi lớp lớn nhưng đi học vẫn còn khóc và đòi về. Ví dụ: Vào mỗi buổi sáng khi đón học sinh vào lớp, tôi niềm nở đón học sinh. Đồng thời chú ý khi trẻ đến lớp chào cô giáo bằng tiếng dân tộc: “Con cháo cô giào” nghĩa là “Con chào cô giáo” nhắc trẻ chào, nói câu mẫu chậm cho trẻ nói theo, tôi luôn chú ý đến sự biểu cảm, cảm xúc của trẻ khi nói như nhìn vào người chào, nói chậm và đúng, có ngữ điệu lời nói. Tôi luôn động viên cháu là khi con đến trường đi học thì phải nói bằng tiếng phổ thông. (Cô sửa sai cho trẻ qua giờ đón - trả trẻ) Từ đó nhằm giúp trẻ dân tộc ham thích được đến lớp và muốn học được tiếng phổ thông để trẻ tự tin trong cuộc sống và hứng thú học tập, tham gia vào các hoạt động trong trường mầm non đạt kết quả tốt hơn. * Giờ h́ạt động nǵài trời: Ví dụ: Ở chủ điểm thế giới thực vật tôi tổ chức cho trẻ ra sân trường quan sát cây hoa, ngoài việc cung cấp kiến thức cho trẻ, bên cạnh đó tôi không quên cung cấp các từ ngữ phổ thông cho trẻ như: cô nói và chỉ vào “Bông hoa” sau đó 16 cho trẻ cùng chỉ và nói “bông hoa” nhiều lần, để trẻ khắc sâu và ghi nhớ hay như trẻ nhổ cỏ cô cho trẻ nhắc lại từ “Nhổ cỏ”…Cô cũng cho trẻ nhắc lại từ. Tôi cho trẻ chơi một số trò chơi dân gian của địa phương để trẻ thích thú và phát triển vốn văn hóa dân tộc của trẻ, nhằm khuyến khích trẻ học nói tiếng phổ thông bằng cách dịch từ tiếng dân tộc sang tiếng phổ thông để trẻ chơi và ôn luyện tiếng phổ thông. Ví dụ: Trò chơi “ Chằm chỉ chằm chăn” nghĩa là “Chi chi chành chành” đó là trò chơi dân tộc Mường tôi cho trẻ đọc thuộc lời trò chơi nhiều lần hoặc trò chơi có lời ca trẻ đọc thuộc trước khi chơi. H́ặc: Một số trò chơi phát triển từ: Trò chơi “Chọn đồ vật”: Tôi tận dụng ngay những sự vật ở ngoài sân trường như: Lá cây, lá khô, hòn sỏi… * Cach chơi: Cho 6 trẻ lên chơi và phát cho mỗi trẻ một đồ vật, tôi yêu cầu trẻ quan sát đồ dùng của mình sau đó lần lượt giơ đồ vật trong tay mình lên cao phía trước cho các bạn nhìn thấy, tôi gọi tên đồ vật sau đó cho trẻ nghe bắt chước gọi tên giống như cô đã làm. Ví dụ: “Hòn sỏi”, giơ cao tay bạn có “Hòn Sỏi”, hoặc “Lá cây” giơ cao tay bạn có “Lá cây”…Cứ mỗi lần tôi nói đến đồ vật nào thì cả trẻ có đồ vật trong tay và cả lớp đều nhắc và gọi tên đồ vật đó. Sau đó tôi cho tốp khác lên chơi để trẻ có cơ hội học từ mới và sửa sai cho trẻ. Qua đó tôi thấy trẻ có thêm nhiều vốn từ mới, mạnh dạn, tự tin và được thích giao tiếp với cô giáo, các bạn và người thân trẻ nhiều hơn. Tŕng giờ ăn : Như chúng ta đã biết khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm, Chính vì vậy bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ hoạt động nào tôi cũng quan tâm cung cấp tiếng phổ thông cho trẻ. Cho nên việc cung cấp tiếng phổ thông ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng hiệu quả. Ví dụ: Khi đến giờ ăn cô hỏi trẻ: Hôm nay các con ăn cơm với món gì? Chỉ một số trẻ trẻ trả lời được bằng tiếng phổ thông, nhưng phần đông thì trẻ trả lời cô bằng tiếng dân tộc“ Con ăn cơm mân xít kha” có nghĩa là “Con ăn cơm với thịt Gà”, cô sửa sai luôn cho trẻ các con phải nói là “Con ăn cơm với thịt Gà ạ” thì trẻ mới hiểu được ”. Cô cho trẻ nói lại nhiều lần để trẻ khắc sâu. Rất nhiều hoạt động khác cô cũng giúp trẻ phát âm chuẩn tiếng phổ thông . Tôi có thể tổ chức tăng cường tiếng việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi như: Giờ tham quan: Cây đa, giếng nước, cho trẻ đọc tên các địa danh…tôi luôn chú ý, sửa sai và phát triển vốn từ để trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông. Tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông qua các ngày hội, ngày lễ, qua các cuộc thi “Kể chuyện sáng tạo”, “Câu lạc bộ bé yêu thơ”…Tôi tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện mình giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước đám đông.Từ đó phát triển ngôn ngữ thứ hai cho trẻ. ` Tăng cường sử dụng các biện pháp hỗ trợ như: Cho trẻ xem băng hình về các chương trình về tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số… Tôi cho trẻ phát âm theo và chú ý sửa sai cho trẻ. 17 Như vậy với cách tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số ở mọi lúc mọi nơi cho thấy được trẻ rất thích tham gia vào tất cả các hoạt động cùng cô. Trẻ lớp tôi đã tiến bộ rõ rệt về mặt ngôn ngữ, các cháu nói chuẩn tiếng phổ thông và biết cách dùng từ ngữ trong quá trình giao tiếp với cô giáo và các bạn. 2.3.6. Biện phap 6: Tổ chức họp tổ chuyên môn khối mẫu giá để cùng trá đổi tìm ra cac phương phap hay. Để lên kế hoạch tăng cường tiếng phổ thông cho trẻ dân tộc thiểu số lớp lớn B1nói riêng và trẻ và trẻ dân tộc thiểu số trong nhà trường nói chung. Tôi luôn trăn trở để tìm ra phương pháp hay giúp cho học sinh dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông. Chính vì vậy tôi luôn luôn lắng nghe và học hỏi thêm kinh nghiệm từ các đồng nghiệp trong tổ. Tôi đã thông qua và xin ý kiến Ban giám hiệu nhà trường về nội dung họp tổ chuyên môn, tôi cùng với tổ chuyên môn khối mẫu giáo đã tổ chức cuộc họp tổ chuyên môn để tìm ra các phương pháp, biện pháp hay và hiệu quả nhất, chúng tôi đã cùng nhau trao đổi những ý kiến của bản thân về phương pháp hay giúp trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông để tự tin khi đến lớp. Đây là một cách rất hay để học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, qua mỗi chủ đề, chủ điểm chúng tôi đều họp tổ khối chuyên môn và có sự chỉ đạo rất nhiệt tình và sát sao của đồng chí Bùi Thị Hương (Phó hiệu trưởng phụ trách mảng chuyên môn) của nhà trương đã đúc rút kinh nghiệm và vận dụng các biện pháp hay, có hiệu quả để vận dụng vào tình hình thực tế của lớp trong quá trình giảng dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông để đạt kết quả tốt nhất. Qua mỗi lần họp tổ, khối mẫu giáo tôi học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm và phương pháp hay để vận dụng vào thực tế quá trình giảng dạy của lớp để đạt hiệu quả. Ví dụ: Tôi đã lên kế hoạch và xây dựng một giờ “Hoạt động làm quen với tiếng việt cho trẻ” chủ điểm “Gia đình” và mời tổ chuyên môn, các đồng nghiệp đến dự giờ và rút kinh nghiệm cho tiết dạy của tôi. Được rút kinh nghiệm về các mặt thì tôi có được kinh nghiệm cho bản thân giờ dạy sau sẽ đạt hiệu quả cao. Sau những lần họp tổ được ngồi cùng và trao đổi kinh nghiệm với nhau chúng tôi đã thống nhất và đưa ra những phương pháp hay để giúp trẻ dân tộc thiểu số lớp mẫu giáo lớn B1 nói chuẩn tiếng phổ thông. 2.4. Hiệu quả của sang kiến kinh nghiệm. * Kết quả khả́ sat: Việc chuẩn bị tiếng phổ thông cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc thiểu số là một vấn đề rất khó. Đòi hỏi ở cô giáo phải thật sự yêu thương gần gũi trẻ. Luôn tạo tình cảm cho trẻ giao lưu trò chuyện với cô, nghe hiểu lời nói của cô. Quấn hút trẻ tham gia vào các hoạt động phát triển ngôn ngữ thực sự hứng thú. Được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục ở lớp và được tích hợp vào một số hoạt động khác trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 5-6 tuổi dân tộc thiểu số. 18 Sau khi đã thực nghiệm và áp dụng các biện pháp nêu trên, kết quả thực nghiệm trên lớp lớn B1 do tôi phụ trách thì các cháu đã tiến bộ rõ rệt so với kết quả đầu năm học, cụ thể như sau: Kết quả khảo sát TT Tiêu chí 1 Tổng Trước khi ap dụng biện phap số trẻ Tốt Kha TB Yếu 25 20 =80% 3 = 12% 2 = 8% 0=0% Trẻ hiểu được ngôn ngữ mới 2 Trẻ biết lắng nghe và 25 19 =76% 3 = 12% 3 = 12% 0=0% phát âm chuẩn tiếng phổ thông 3 Trẻ mạnh dạn, tự tin 25 20 =80% 3 = 12% 2 = 8% 0=0% trong quá trình giao tiếp hàng ngày bằng tiếng phổ thông Nhìn vào thực tế trên. Khi áp dụng các phương pháp về tăng cường khả năng nói chuẩn tiếng phổ thông cho trẻ 5-6 tuổi B1 do lớp tôi phụ trách tôi thấy các cháu phần nào đã mạnh dạn, tự tin hơn, có thêm nhiều vốn từ mới và nói chuẩn tiếng phổ thông khi giao tiếp với cô giáo và mọi người xung quanh trẻ. Qua một thời gian nghiên cứu và áp dụng tôi cũng đã gặt hái được những thành công bước đầu, căn cứ trên kết quả đạt được. Từ đó tôi rút ra được bài học kinh nghiệm khi tăng cường dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông như sau: * Đối với bản thân: Bản thân rút ra được rất nhiều kinh nghiệm trong việc dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông, tạo được hứng thú, thích tò mò ham học hỏi ở trẻ. Cô luôn tạo được niềm tin với các bậc phụ huynh yên tâm khi gửi con đến trường, giúp phụ huynh hiểu rằng tạo cho con có vốn tiếng phổ thông là thực sự cần thiết cho tương lai của con em mình. Làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh để thu gom các nguyên vật liệu phụ vụ cho việc làm đồ dùng trực quan giúp trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông. Phối kết hợp tốt với gia đình trẻ thì các cháu khi ở gia đình cũng được những người trong gia đình dạy tiếng phổ thông và giao tiếp hàng ngày bằng tiếng phổ thông với trẻ. * Đối với trẻ: Việc tăng cường khả năng dạy trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông không những giúp trẻ mạnh dạn, tự tin mà bên cạnh đó trẻ có tâm lý thoải mái hơn, năng động và tích cực tham gia hoạt đọng cùng cô và các bạn. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan