SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ
5 – 6 TUỔI TẠI TRƯỜNG MẦM NON NGA HẢI
Người thực hiện: Mai Thị Nhung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Nga Hải
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn
THANH HÓA, NĂM 2019
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
1. MỞ ĐẦU
1
1.1. Lí do chọn đề tài.
1
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
2.1. Cơ sở lý luận
2
2.2. Thực trạng
3
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
2.3.1: Xây dựng kế hoạch nội dung kỹ năng sống cho trẻ theo
từng chủ đề
2.3.2: Xác định rõ kỹ năng cơ bản cần dạy trẻ ở lớp
2.3.3: Xây dựng mối quan hệ gần gũi mật thiết trong lớp học
2.3.4: Hình thành thói quen tốt trong hoạt động vui chơi
2.3.5: Bồi dưỡng kinh nghiệm, hình thành nhân cách sống cho
trẻ qua những câu chuyện, ca dao, tục ngữ
2.3.6: Hình thành kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
4
5
12
13
14
15
2.3.7: Phối kết hợp với phụ huynh
17
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
19
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19
3.1. Kết luận
19
3.2. Kiến nghị
20
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan”
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước.
Việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ là trách nhiệm của nhà nước, trách nhiệm
của mỗi gia đình. Việc chăm sóc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng
quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách
toàn diện cho trẻ sau này. Bác Hồ nói “ Không có giáo dục thì không nói gì
đến kinh tế văn hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người là mục tiêu, động lực
của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ.[2]
Trong những năm gần đây, giáo dục luôn không ngừng đổi mới về hình
thức, nội dung và phương pháp tổ chức dạy học cho trẻ. Giáo dục kỹ năng sống là
nội dung được rất nhiều người quan tâm. Đặc biệt giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mầm non là một nội dung và nhiệm vụ quan trọng của cấp học mầm non. Theo
nghiên cứu của các nhà tâm lý học, về đặc điểm tâm sinh lý trẻ em dưới 6 tuổi thì
có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn
hóa. Thực tế kết quả của nhiều nhà nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan
trọng nhất trẻ phải học ở lứa tuổi mầm non chính là những kỹ năng sống như: Sự
hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp.
Thực tế với xã hội hiện nay có rất nhiều người, nhiều bậc phụ huynh chưa
hiểu hết được ý nghĩa của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ, phụ huynh luôn che
chở, làm giúp trẻ mọi việc vì họ nghĩ con mình còn nhỏ chưa tự làm được những
việc đó. Họ đâu biết rằng chính những suy nghĩ và việc làm của các bậc cha mẹ
đã tước đi quyền tự do của con, không cho con được nói, không cho con được
làm và đến khi quay đầu lại cha mẹ mới biết con mình quá thụ động, nhu nhược,
quá nhút nhát, luôn chờ vào sự giúp đỡ của người lớn… Ngay từ khi còn bé cha
mẹ định hướng cho con những kỹ năng cần thiết của từng lứa tuổi như: Dạy con
biết nói cảm ơn, xin lỗi, chào hỏi, dạy con biết cách tự lập như phục vụ bản thân,
dạy con biết bảo vệ bản thân “ Ngã phải tự đứng lên, phải làm gì khi bị người
khác bắt nạt mà không phải mách cô giáo, mách bố mẹ”. Nếu cha mẹ dạy cho
con được những kỹ năng đó ngay từ khi còn bé chắc chắn đứa trẻ sẽ hình thành
cho mình được các kỹ năng ban đầu, sẽ thích nghi được với môi trường sống
hiện nay.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ nên tôi đã lựa chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho
trẻ 5 - 6 tuổi tại trường Mầm Non Nga Hải” để nghiên cứu trong năm học
2018 - 2019
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp trẻ hiểu rõ hơn về kỹ năng sống, điều quan trọng là trẻ có ý
thức tự giác, tư duy, suy nghĩ độc lập và sáng tạo.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, lớp C1, trường mầm non Nga Hải.
1
1.4.Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cưú lý luận
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp nêu gương
+ Phương pháp đàm thoại
+ Phương pháp thực hành
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong
cuộc sống, biết được những điều hay làm không nên làm. Theo các chuyên gia
giáo dục kỹ năng sống và kiến thức cơ bản sẽ tạo nền tảng tốt cho quá trình học
hỏi, phát triển sau này của trẻ. Các bé được học kỹ năng từ sớm đúng phương
pháp sẽ tự tin và nhanh nhẹn hơn trong cuộc sống. [3]
Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ làm chủ suy nghĩ, cảm xúc và
hành động của mình, nhưng điều quan trọng hơn nữa là việc trẻ sẽ vận dụng
những kỹ năng sống đó như thế nào trong cuộc sống. Việc áp dụng một cách
linh hoạt các kỹ năng sống cần thiết vào cuộc sống sẽ giúp cho trẻ có những nền
tảng vững chắc trong việc tạo dựng tư thế chủ động sáng tạo của một đứa trẻ
năng động. Đó cũng là cách giúp trẻ đối đầu và tìm cách vượt qua những áp lực
tâm lý về công việc, học tập cũng như các mối quan hệ phức tạp khác trong cuộc
sống. Trong cuộc sống có rất nhiều kỹ năng sống khác nhau, nếu ta đưa tất cả
các kỹ năng sống đó vào dạy trẻ thì sẽ không có hiệu quả. Chính vì vậy đòi hỏi
mỗi giáo viên cần lựa chọn các kỹ năng sống sao cho phù hợp với từng lứa tuổi
để dạy trẻ đạt hiệu quả cao.
Vậy một số “kỹ năng sống” cần thiết đối với trẻ 5 - 6 tuổi đó là:
+ Kỹ năng tự phục vụ: Trẻ biết tự xúc cơm, tự mặc quần áo, tự biết chăm
lo nhu cầu về vệ sinh cá nhân, biết giữ gìn vệ sinh thân thể luôn sạch sẽ để
phòng chống các loại bệnh.
+ Tạo sự sống tự tin cho trẻ. Đây là kĩ năng mà giáo viên cần chú tâm để
giúp trẻ có sự tự tin vào chính mình. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là
ai, cả về trong cá nhân và trong mối qua hệ với người khác. Kĩ năng sống này
luôn giúp trẻ cảm thấy tự tin trong mọi tình huống. Dù ở bất kỳ đâu trẻ cũng có
thể tự tin vào chính bản thân mình.
+ Tạo cho trẻ môi trường để giao tiếp, ứng xử: đây là một trong những kĩ
năng quan trọng nhằm liên kết các kĩ năng sống cơ bản khác. Trẻ cần biết thể
hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu. Trẻ cần cảm
nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh.
+ Trẻ biết được cách hợp tác trong các hoạt động: bằng các trò chơi, câu
chuyện bài hát, giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm, cùng chơi với bạn bè. Đây
là một đức tính cần thiết đối với trẻ ở lứa tuổi này khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ
biết cảm thông và chia sẽ với bạn bè.
2
+ Kỹ năng thích nghi: Thích nghi là một kỹ năng sống quan trọng vì nếu kỹ
năng giao tiếp là bước đầu để tiếp xúc với môi trường bên ngoài với những
người xung quanh, thì thích nghi chính là bước tiếp theo để có thể hòa nhập
hoặc phản ứng lại với môi trường bên ngoài.
+ Kỹ năng tự bảo vệ: Dạy trẻ học cách nhận biết những hành động đúng
và kịp thời bảo vệ bản thân qua các tình huống.
Như vậy, đối với trẻ mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi, tôi lựa chọn các kỹ năng: Kỹ
năng tự phục vụ, kỹ năng tự tin, kỹ năng tự bảo vệ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao
tiếp ứng xử, kỹ năng thích nghi, để đưa vào dạy trẻ với mục đích nhằm giúp trẻ
mạnh dạn, tự tin, độc lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác, dễ hòa nhập, dễ chia sẻ…
hình thành nếp sống văn minh, có hành vi ứng sử, giao tiếp theo quy tắc, chuẩn
mực phù hợp. Không những vậy, việc dạy trẻ kỹ năng sống còn giúp trẻ biết xử lý
các tình huống trong từng hoàn cảnh cụ thể: Biết bày tỏ tình cảm phù hợp, đúng
lúc, biết tránh những vật, những nơi không an toàn, gây nguy hiểm đến tính mạng
và cách phòng tránh, tự lập trong các tình huống quen thuộc.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN
Trường mầm non Nga Hải là trường chuẩn quốc gia mức độ I. Trong
những năm gần đây đã đạt được nhiều thành tích cao trong các phong trào thi
đua dạy tốt,học tốt, chăm sóc giáo dục trẻ tốt của Huyện, chất lượng giáo dục
không ngừng nâng cao. Trường luôn được sự quan tâm của các cấp, các ngành
đầu tư về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, sạch đẹp, trang thiết bị đồ dùng đồ
chơi để trẻ được khám phá và trải nghiệm. Trong các lĩnh vực giáo dục thì giáo
dục phát triển ngôn ngữ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục
mầm non và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ nên được trường rất
quan tâm lưu ý.
- Năm học 2018 - 2019 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp mẫu
giáo lớn 5 – 6 tuổi, với tổng số học sinh là 35 cháu. Trong quá trình thực hiện giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ tôi nhận thấy có một số thuận lợi và khó khăn sau.
* Thuận lợi:
- Về phía nhà trường:
+ Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi bồi dưỡng
chuyên môn cho giáo viên.
- Về giáo viên:
+ Bản thân tôi có trình độ chuyên môn trên chuẩn, đã có nhiều năm phụ
trách lớp mẫu giáo lớn nên có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt
động dạy trẻ.
+ Là một giáo viên có tác phong nhanh nhẹn, có tinh thần trách nhiệm nhiệt
tình trong mọi phong trào.
- Về trẻ:
Trẻ đi học đều, tích cực tham gia các hoạt động.
- Phụ huynh: Luôn quan tâm đến trẻ, trao đổi với giáo viên cách để dạy trẻ
tốt hơn.
3
- Cơ sở vật chất:
+ Nhà trường trang bị cho các lớp tivi, loa đài…
+ Sân trường rộng, thoáng mát, sạch sẽ có khu vui chơi cho trẻ.
* Khó khăn:
- Đối với giáo viên:
+ Việc lựa chọn các kỹ năng đưa vào từng chủ đề dạy trẻ còn chưa khoa học
- Đối với trẻ:
+ Một số trẻ được bố mẹ nuông chiều, thường làm hộ trẻ mọi việc.
+ Một số trẻ hiếu động, còn chưa chú ý và chưa nghe theo lời hướng dẫn
của cô giáo.
+ Một số trẻ hiếu động, chưa biết đoàn kết khi chơi với bạn.
- Đối với phụ huynh: Một số phụ huynh chưa hiểu được tầm quan trọng
của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
- Về cơ sở vật chất: Lớp học còn chật nên còn khó khăn trong việc tổ chức
dạy kĩ năng sống cho trẻ.
* Kết quả
Để nắm được tình hình của trẻ, vào đầu năm học tôi đã tiến hành việc khảo
sát trên trẻ. Kết quả đạt được như sau:
BẢNG KHẢO SÁT TRẺ ĐẦU NĂM (Ở phần phụ lục 1)
Qua khảo sát, tôi thấy tỷ lệ trẻ đạt 66%, tỷ lệ trẻ chưa đạt 44%. Đứng trước
tình hình đó, tôi rất băn khoăn, trăn trở phải làm gì? Làm như thế nào để nâng
cao kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa
ra một số biện pháp cụ thể như sau.
2.3 . CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.3.1: Xây dựng kế hoạch nội dung kỹ năng sống cho trẻ theo từng chủ đề:
Trong thực tế có rất nhiều kỹ năng sống khác nhau, khó có thể liệt kê một
cách đầy đủ những kỹ năng con người cần có trong cuộc sống. Chính vì vậy vào
đầu năm học tôi đã lên kế hoạch lựa chọn các kỹ năng sống phù hợp với lứa
tuổi mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi để đưa vào dạy trẻ nhằm đạt hiệu quả cao.
STT
1
tháng
KN tự phục
vụ
KNS tự bảo
vệ
KNS tự KNS hợp
tin
tác
KNS ứng xử.
Tự rửa tay trước
Tháng 9
và sau khi ăn.
Trường mầm Tự lấy cất đồ dùng
non
đồ chơi sau khi
Chơi an toàn vớiĐi lớp không
chơi.
đồ chơi ngoài trời. khóc nhè.
2
Tháng 10
Bản thân
3
Gia đình
Phối
hợp
với
bạnĐến lớp biết chào
trong
khicô, chào bố mẹ,
chơi .
chào các bạn.
Đoàn kết
Đánh răng vào
Phòng tránh 1 số
với bạn
Cảm ơn khi được
buổi sáng và buổi nguy hiểm đối với Không đi theo trong khi
giúp đỡ, xin lỗi khi
tối sau khi ăn.
bản thân ( Ổ điện). người lạ
chơi.
mắc lỗi.
Tự lựa chọn quần Tránh xa 1 số đồ Trẻ tự tin khiQuan tâmGiúp bố mẹ những
áo phù hợp với
dùng gây mất an tham gia biểutới bố mẹ vàcông việc vừa sức.
thời tiết.
toàn trong gia
diễn
người thân
đình: Ổ điện, bàn
khi bị mệt bị
là, bếp ga.
ốm.
4
4
5
6
7
8
9
10
Không lại gần,
không nghịch đồ
Tháng 11
dùng của một số
Giúp đỡ cô
Nghề nghiệp Nói với người lớn nghề
Lớn lên bégiáo những Yêu quý, trân
khi bị mệt, bị đau ( Liềm, cuốc,búa thích
làmcông việc trọng mọi nghề
ốm.
đinh…).
nghề gì?
vừa sức.
trong xã hội.
Giúp bố mẹ,
Tháng 12 Cách xử lý khi bịCách phòng tránhPhân
nhómcô
giáoCách bảo vệ các
Động vật muỗi , côn trùng1 số con vật hungđộng vật hungchăm
sóccon vật nuôi trong
đốt
dữ.
dữ, hiền lành. vật nuôi.
gia đình.
Ăn quả xong biết
Bé và các
Tháng 1
bỏ vỏ vào thùngĐể đảm bảo an
bạn
chămKhi ai cho gì phải
Thực vật
rác.
toàn không trèoBé giúp côsóc
câybiết xin và cảm ơn
cây bé nhé.
chăm sóc cây. xanh.
khi nhận.
Không ăn quáNói
những
Nói năng lễ phép
nhiều đồ ngọt,câu chúc tết
với người lớn
Tháng 2
không uống nhiềuđơn giản đểGiúp
mẹNói lời chúc tặng
Tết – Mùa
Lựa chọn trangnước có ga, ănchúc ông bà,dọn dẹp nhàbà, tặng mẹ nhân
xuân
phục khi đi chơiuống phù hợpbố mẹ vàcửa, tập góingày 8/3.
tết.
trong ngày tết.
người thân. bánh trưng. n.
Đeo khẩu trang,
đeo kính khi, đội
Tháng 3
Cách đội mũ bảomũ để đảm bảo anThể hiện vaiBé giúp mẹBé thực hiện đúng
Giao thông
hiểm đảm bảo antoàn khi tham giachú cảnh sátđội mũ bảotheo tín hiệu đèn
toàn..
giao thông.
giao thông
hiểm
giao thông.
Rót nước vừa phải
Tháng 4
Lựa chọn trang
Khi thấy trời
khi uống, khóa vòi
Nước và các
phục phù hợp theoBé không chơi gầnmưa to, sấm
nước sau khi dùng
HTTN
mùa.
nơi có ao, hồ.
chớp.
xong.
Bé cùng bố
Tháng 5 Đội mũ, mặc trang
mẹ chuẩn bị
Quê hương phục phù hợp khiAn toàn khi đi du
đồ khi đi
đi nắng.
lịch.
thamquan
Kết quả: Kế hoạch của tôi đã được Ban giám hiệu duyệt để thực hiện.
2.3.2: Xác định rõ kỹ năng cơ bản cần dạy trẻ ở lớp
* Kỹ năng tự phục vụ
Kỹ năng tự phục vụ là một yếu tố quan trọng có thể giúp tăng cường tính
độc lập và cảm giác về sự thành công. Dạy cho trẻ biết các kỹ năng tự phục vụ,
trẻ ý thức được sự cần thiết của việc tự phục vụ bản thân, tăng cường tính độc
lập, trẻ có trách nhiệm sống hơn đối với chính mình, dạy trẻ biết quan sát làm
theo hướng dẫn của người lớn trong các công việc nhỏ hàng ngày như: vệ sinh
cá nhân, , tự rửa tay, rửa mặt, đánh răng, cất, lấy đồ dùng cá nhân đúng nơi quy
định, mặc áo, cởi cúc áo, tự xúc ăn…. Trong những kỹ năng về chăm sóc bản
thân tôi lựa chọn một số những kỹ năng cơ bản sau để dạy trẻ: Kỹ năng tự chăm
sóc bản thân, kỹ năng tự mặc quần áo, kỹ năng tự chăm lo vệ sinh cá nhân.
- Kỹ năng tự chăm sóc bản thân:
5
+ Kỹ năng tự xúc ăn: Trẻ ở độ tuổi này có khả năng tự xúc ăn, tuy nhiên có
nhiều trẻ khi ăn xúc cơm còn rơi vãi, có những trẻ không tự xúc mà chỉ đợi cô
xúc cho thì mới ăn. Chính vì vậy trước khi vào giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe
một số câu chuyện do tôi sưu tầm có nội dung liên quan đến việc tự xúc cơm ăn,
sau đó gợi hỏi trẻ: Bạn nhỏ trong câu chuyện có ngoan không? Vì sao lại chưa
ngoan? Sau đó cô giáo dục trẻ: các con lớn rồi phải tự xúc ăn thì mới ngoan, nếu
bạn nào không tự xúc cơm ăn thì các em lớp bé sẽ cười chúng mình đấy!
+ Kỹ năng tự mặc áo, cởi áo, gấp quần áo:
Hàng ngày, nhất là vào mùa đông, trẻ thường mặc nhiều áo đi lớp, trước
khi đi ngủ trẻ phải cởi bớt áo ra, trẻ thường để quần áo lộn xộn dẫn đến việc
giáo viên mất rất nhiều thời gian để gấp quần áo cho trẻ. Chính vì vậy vào giờ
hoạt động góc, hoạt động chiều tôi đã dạy cho trẻ kỹ năng gấp quần, áo, cách cởi
áo, mặc áo. Để việc dạy trẻ có hiệu quả, ở góc kỹ năng tôi làm một số bộ sách về
kỹ năng cho trẻ được tập luyện: Tập cài cúc áo, cởi cúc áo, mặc áo, gấp áo, kéo
khóa…để từ đó trẻ có thể ứng dụng vào thực tế đạt hiệu quả cao.
+ Kỹ năng chăm lo vệ sinh cá nhân:
Vệ sinh cá nhân là một việc làm không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày
của trẻ. Vệ sinh cá nhân bao gồm: Rửa tay, rửa mặt, đánh răng , chải
đầu..Những việc làm này được tôi thực hiện dạy trẻ một cách thường xuyên.
Dạy trẻ rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, khi tay bẩn, rèn cho trẻ biết tự
rửa tay dưới vòi nước bằng xà phòng đúng quy trình, đúng kỹ năng.
Với những kỹ năng này người lớn đặc biệt là bố mẹ trẻ sẽ yên tâm hơn về
trẻ. Trẻ sẽ dần có thói quen về vệ sinh cá nhân sạch sẽ, gọn gàng, biết tự lựa
chọn và mặc những trang phục phù hợp với thời tiết để bảo vệ sức khỏe cho
chính mình. Không chỉ dừng lại ở đó mà những kỹ năng này còn giúp trẻ khéo
léo hơn, có ý thức và có tính kiên trì, làm việc một cách chủ đích hơn.
* Kỹ năng sống tự bảo vệ
- Kỹ năng phân biệt nguy hiểm:
Dạy trẻ học cách nhận biết đồng thời hành động những hành động đúng
và kịp thời bảo vệ bản thân qua các tình huống.
Các mối nguy hiểm trong nhà như: gas, bàn ủi, điện, nước nóng, dao kéo
Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: Quấy rối, bắt cóc, bắt nạt, trộm cắp,
cướp, lạc đường.
Các mối nguy hiểm bất ngờ: Cháy nổ, kẹt thang máy, chó cắn, ong đốt, ngộ
độc Các mối nguy hiểm ngoài môi trường: động đất, lũ lụt, bị sa vào vũng lầy,
sông nước.
- Kỹ năng tự xoay sở:
Không phải những vấn đề trong cuộc sống đều được giải quyết một cách dễ
dàng và bạn sẽ phải truyền đạt điều ấy cho trẻ khi chúng đối mặt với thử thách
lớn và không phải lúc nào cũng có người lớn bên cạnh để giúp trẻ giải quyết vấn
đề. Khi trẻ gặp phải một vấn đề nào đấy, giáo viên đừng thay trẻ giải quyết mọi
vấn đề, trừ trường hợp bắt buộc phải làm như thế. Thay vào đó hãy giúp trẻ tìm
kiếm giải pháp thích hợp, điều này chứng tỏ bạn tin tưởng trẻ có khả năng tự
6
giải quyết vấn đề. Những bước nhỏ hằng ngày mà bạn thực hiện để khuyến
khích kỹ năng giải quyết vấn đề của trẻ giúp trẻ có những sáng kiến tốt hơn
trong cuộc sống khi chúng lớn lên từng ngày. “Hãy là chỗ dựa cho trẻ chứ
không phải là người giải quyết vấn đề cho trẻ.”
*Kỹ năng sống tự tin:
Người ta thường nói: chỉ cần tự tin là giành được 50% thành công. Tự
tin là điều hết sức cần thiết để có thể thành công trong cuộc sống, sự nghiệp.
Tuy nhiên không phải ai cũng có thể luôn đạt được sự tự tin cần thiết trong
nhiều tình huống. Do đó tự tin là mô ̣t trong những yếu kỹ năng quan trọng mà
chúng ta cần từng bước xây dựng cho trẻ từ khi còn nhỏ tuổi. Sự tự tin sẽ giúp
trẻ dám nỗ lực, không ngại thử thách; trẻ tự tin sẽ có khả năng sống đô ̣c lâ ̣p, hòa
nhâ ̣p xã hô ̣i tốt và dễ thành công hơn trong cuô ̣c sống. Vậy tự tin là gì? Làm thế
nào để giúp trẻ tự tin hơn?
Để trả lời được câu hỏi này trước tiên đòi hỏi giáo viên phải hiểu và nắm
được khái niệm của tự tin là gì? Tự tin là hoàn toàn tin tưởng vào bản thân, là
nhận thức và nắm rõ được bản thân mình, chứ không có nghĩa là tin tưởng bản
thân một cách mù quáng. Thiếu tự tin là hệ quả của việc đánh giá thấp bản thân,
điều này khiến con người không thể phát huy được những khả năng tiềm ẩn.
Mất tự tin làm chúng ta nhụt chí, không dám nỗ lực, ngại thử thách, tự ti với bản
thân và sống khép mình với xã hội.
Vậy làm thế nào để giáo dục trẻ kỹ năng sống tự tin cho trẻ mẫu giáo lớn 5
- 6 tuổi? Đó quả là một vấn đề không phải đơn giản, vì trên thực trẻ lớp tôi phụ
trách đa phần là con em có cha mẹ làm nghề tự do nhiều nên sự hiểu biết về
cách dạy kỹ năng sống tự tin cho con còn nhiều phụ huynh chưa hiểu rõ hết.
Những ngày đầu đến lớp nhiều trẻ còn hay khóc, rất ít nói, trong giờ học khi
được cô giáo gọi lên trả lời câu hỏi trẻ không đứng lên trả lời mà trẻ còn khóc.
Nắm bắt được điều đó nên vào đầu năm học khi phân tổ tôi thường phân những
trẻ nhút nhát ngồi gần những trẻ mạnh dạn để giúp trẻ có thể giao lưu, trò
chuyện giúp trẻ mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ nhút nhát trong giờ học tôi
thường quan tâm, gọi trẻ trả lời nhiều hơn, khen, động viên khích lệ trẻ kịp thời
để giúp trẻ tự tin với bản thân hơn. Buổi sáng khi bố mẹ đưa đến lớp tôi thường
quan tâm, hỏi han trẻ để trẻ giáo lưu với cô.
Ví dụ: Trong lớp tôi có bạn Hồng, bạn Hương, Bạn Tiến … mỗi sáng bố
mẹ đưa đến lớp, trẻ không chịu vào lớp với cô mà cứ đòi về. Đối với những trẻ
đó tôi và giáo viên trong lớp vào các buổi chiều trước khi trẻ trả, chúng tôi
thường trò chuyện gần gũi, động viên khuyến khích trẻ bằng các hình thức như:
Hôm nay cô thấy con học bài rất giỏi, trong lớp con ngồi học rất ngoan
nhưng cô muốn ngày mai con đi học con sẽ không khóc nhè nữa nhé! Như vậy
thì cô và các bạn sẽ yêu con hơn đấy!
Hoặc vào giờ đón trẻ, tôi dùng hình thức khen ngợi, động viên trẻ bằng
cách: Hôm nay con có váy đẹp thế? Ai mua váy đẹp cho con đấy? Sau khi vào
lớp, trò chuyện với trẻ xong tôi dùng hình thức khen ngợi, động viên trẻ trước
lớp: Hôm nay cô thấy bạn Tiến đến lớp rất ngoan, không khóc nhè nữa đâu, cả
7
lớp mình cùng động viên và khen bạn Tiến nào!. Bằng những câu động viên,
gần gũi của cô giáo dần dần sẽ giúp trẻ tự tin hơn, thích đến lớp hơn. Bên cạnh
đó để giúp trẻ tự thì trong các giờ học hoạt động chung, với những trẻ nhút nhát
tôi tăng cường cho trẻ được trả lời câu hỏi của cô, khi trẻ trả lời xong nếu đúng
thì cô và các bạn động viên khen ngợi, còn nếu trẻ chưa trả lời được vì nhiều lý
do (Có thể trẻ biết những không dám nói ra những điều suy nghĩ của mình hoặc
có thể trẻ chưa biết trả lời câu hỏi của cô), dù bất cứ lý do nào giáo viên cùng
không nên chê trẻ và sẽ gợi mở bằng cách dẫn dắt trẻ trẻ theo nội dung câu hỏi
giúp trẻ trả lời, sau mỗi lần như vậy cô và các bạn lại cổ vũ, động viên sẽ giúp
trẻ thấy tự tin hơn.
Ví dụ : Trong giờ hoạt động âm nhạc, tôi giúp trẻ tự tin khi lên biểu diễn,
khi biểu diễn trẻ biết hát kết hợp cử chỉ, điệu bộ minh họa, hoặc khi vận động
múa, hay vận động minh họa trẻ biết thể hiện bằng nét mặt, động tác và ánh mắt.
Ngoài ra vào các thời điểm trong ngày khi tổ chức cho trẻ tham gia
vào hoạt động lao động vào chiều thứ 6 hàng tuần, tôi phân công cho từng
nhóm, mỗi nhóm sẽ phụ trách lau dọn một góc. Trước khi vào phân công tôi
giao nhiệm vụ cho trẻ: Hôm nay cô và các con sẽ cùng lau dọn giá đồ chơi của
lớp mình cho thật sạch sau đó các con sẽ giúp cô sắp xếp đồ dùng đồ chơi lên
giá cho thật gọn gàng, các nhóm sẽ cùng thi đua xem nhóm nào làm nhanh, sạch
và sắp xếp gọn gàng nhất nhé!. Với trẻ nhút nhát, tôi nhắc nhở bằng cách: Hôm
nay bạn Hương, bạn Hồng, bạn Mai sẽ cùng các bạn ở nhóm mình giúp cô lau
dọn đồ dùng đồ chơi nhé, cô thấy hôm trước các bạn này làm rất tốt, hôm nay
các con sẽ cố gắng hơn nữa nhé!
Bên cạnh việc dạy trẻ tự tin khi trả lời các câu hỏi của cô, khi tham gia biểu
diễn văn nghệ và qua hoạt động thì việc dạy con cách qua đường cũng là kỹ
năng cần thiết giúp trẻ tự tin, chủ động hơn trong cuộc sống.
Ví dụ: Chủ đề giao thông: Với giờ học khám phá, tôi cung cấp cho trẻ các
kiến thức về an toàn giao thông, đồng thời tôi dạy trẻ các kỹ năng qua đường
như:
- Khi đi qua đường con phải làm gì?
- Nếu có nhiều xe cộ qua lại con sẽ làm như thế nào?
- Khi nào con được qua đường?
- Các bạn nhỏ khi qua đường phải có ai đi cùng?
Sau đó tôi cho trẻ chơi đóng vai “ Bé và mẹ qua đường”.
Ngoài ra việc giao lưu tình cảm, tiếp xúc với trẻ là một cách tạo ra sự tin
tưởng, gắn bó giữa trẻ với người xung quanh. Tăng cường sự phát triển các giác
quan, góp phần tích cực phát triển các kỹ năng xã hội, trong đó có kỹ năng sống
tự tin. Bên cạnh đó để giúp trẻ có kỹ năng sống tự tin, vào các thời điểm trong
ngày tôi luôn tạo cơ hội gần gũi, trò chuyện với trẻ bằng lời nói, cử chỉ thể hiện
cảm xúc, ánh mắt, nét mặt sẽ khiển trẻ cảm nhận được thái độ, tình cảm của
người giao tiếp. Trong lớp tôi có một số trẻ nhút nhát, tôi luôn tạo cơ hội gần gũi
trò chuyện với trẻ bằng những câu hỏi đơn giản: “Hôm nay con có áo mới đẹp
thế? Ai mua áo cho con đấy!”, Hoặc “ Hôm qua chủ nhật con được bố mẹ cho
8
đi chơi ở đâu? Con có thích không?”…với những câu hỏi gợi mở gần gũi như
vậy dần dần trẻ giúp trẻ mạnh dạn hơn.
Với những hình thức giáo dục cho trẻ như vậy qua một thời gian tôi thấy
trẻ lớp tôi đã có sự tiến bộ rõ rệt, hầu hết trẻ đã mạnh dạn, tự tin, và tích cực
tham gia phát biểu trong giờ học, tích cực tham gia các hoạt động của lớp,
những trẻ nhút nhát đã tự tin hơn khi đứng trước lớp biểu diễn văn nghệ hoặc
mạnh dạn hơn trong việc đưa ra các ý kiến cá nhân của mình. Có thể nói việc
rèn kỹ năng sống tự tin giúp trẻ luôn vui vẻ, linh hoạt, tạo nền tảng cho cuộc
sống vững vàng cho trẻ sau này.
* Kỹ năng sống hợp tác
Hợp tác là khi mọi người biết làm việc chung với nhau và cùng hướng về
một mục tiêu chung. Một người biết hợp tác sẽ nhận được sự hợp tác. Khi có
yêu thương thì có sự hợp tác. Ở độ tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong
nhóm, trẻ sẵn sàng chia sẻ với bạn những suy nghĩ của mình, biết hợp tác với
nhau để xây dựng một công trình (Khi chơi ở góc xây dựng), biết hợp tác với
nhau để tạo ra một bức tranh (Khi chơi góc tạo hình…). Nói tóm lại hợp tác là
khi mọi người biết làm việc chung với nhau và cùng hướng về một mục tiêu
chung. Tuy nhiên trẻ vẫn làm việc theo nhóm với cách hiểu đơn giản là gộp bạn
lại chứ chưa có sự gắn kết. Vì vậy cô giáo phải cần tổ chức thường xuyên và đa
dạng hóa các hoạt động theo nhóm để trẻ biết tạo ra tinh thần đồng đội, tạo niềm
vui với kết quả đạt được.
Để làm được điều này, tôi thường tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi theo
nhóm, trò chơi dân gian, trò chơi vận động: kéo co, rồng rắn lên mây, chèo
thuyền bắt cua…các trò chơi có luật tiếp sức để trẻ thể hiện rõ tinh thần đồng
đội giúp đỡ nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ.
Ngoài ra trong giờ hoạt động góc, nhất là góc đóng vai, góc xây dựng và
góc tạo hình trẻ cũng thể hiện rõ và tinh thần hợp tác với bạn để xây dựng một
công trình, tạo ra một sản phẩm. Biết phân công vai chơi, biết cùng nhau làm
việc để tạo nên một công trình, một sản phẩm.
Ví dụ: Khi chơi góc xây dựng “ Trường mầm non ” , trẻ biết phân công
bạn nào làm kỹ sư trưởng, bạn nào xây hàng rào, bạn nào xây bồn hoa và ai là
người trồng hoa…Khi bạn An xây dựng xong hàng rào biết ra giúp đỡ các bạn
khác để cùng nhau hoàn thành tốt công trình xây dựng của nhóm mình.
Ví dụ: Góc tạo hình, khi làm bức tranh xé dán hoa tặng bà tặng mẹ, tặng cô
giáo nhân ngày 8/3: Trẻ biết phân công ai là người xé các bông hoa, ai là người
xé những chiếc lá, ai là người sắp xếp và dán thành bức tranh.
9
Ảnh: Các bé đang phối hợp cùng nhau xé dán hoa
Ví dụ: Góc chơi gia đình: Trẻ biết phân công bạn nào đóng vai bố, bạn nào
đóng vai mẹ, ai đóng vai các con….
Ngoài ra thông qua các câu chuyện, các bài hát giáo viên giúp trẻ học cách
cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ ở lứa tuổi
này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
Để giúp trẻ có kỹ năng hợp tác được tốt thì giáo viên cần phải tổ chức
những hoạt động này một cách thường xuyên, giáo dục trẻ biết giúp đỡ nhau
trong công việc, hình thành cho trẻ một đức tính tốt về tinh thần đồng đội, tạo
cho trẻ một lý tưởng sống cao đẹp trong tương lai.
* Kỹ năng sống giao tiếp ứng xử
Kỹ năng sống giao tiếp ứng xử đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống
của mỗi người. Ứng xử tốt giúp chúng ta xây dựng và duy trì mối quan hệ hữu
ích, thành công trong công việc, xây dựng một hình ảnh cá nhân ấn tượng, cũng
như đạt được những mục đích trong cuộc sống. Tuy nhiên, đôi khi việc ứng xử
không hiệu quả có thể tạo nên những mối mâu thuẫn trong các mối quan hệ, dẫn
đến nhiều điều bất lợi trong cuộc sống.
Cách giao tiếp ứng xử không chỉ quan trọng trong những năm trẻ đi học mà
còn rất quan trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ. Kỹ năng giao tiếp là một
kỹ năng nền tảng giúp trẻ nhận biết các giá trị sống và hình thành các kỹ năng
sống. Trẻ giao tiếp ra sao là hoàn toàn do chúng ta dạy dỗ, bởi trẻ hay bắt chước,
chưa hiểu hết được các từ ngữ. Trẻ của lớp tôi sống ở vùng nông thôn nên bị ảnh
hưởng rất nhiều những từ ngữ không lành mạnh từ phía người lớn hay từ phía
các anh chị lớn tuổi hơn. Để giúp trẻ có kỹ năng giao tiếp tốt tôi đã tiến hành
dạy trẻ qua các hình thức sau:
- Kỹ năng giao tiếp với bạn bè:
10
Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội mà hàng ngày trẻ được
tiếp xúc, là nơi đa văn hóa, đa tính cách và cũng là nơi đa sở thích. Chính vì vậy
cô có thể dạy trẻ tìm hiểu, khám phá những sở thích của chính bản thân, quan
tâm đến bạn bè.. Trong lớp tôi mỗi trẻ lại có tính cách khác nhau, có những trẻ
hoạt bát nhanh nhẹn, hiếu động nhưng có những trẻ chậm chạp, thụ động hoặc
nóng nảy. Chính vì vậy tôi đã tìm hiểu tính cách của từng trẻ trong lớp để thuận
tiện cho việc dạy và rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Việc rèn kỹ năng giao tiếp
cho trẻ thường thể hiện rõ nhất ở giờ hoạt động góc và nhất là góc chơi phân vai,
vì ở góc chơi phân vai trẻ được chơi đóng vai các nhận vật như: vai bố, mẹ, con
người bán hàng, cô cấp dưỡng…mà những vai đó cần thể hiện bằng lời nói. Ví
dụ: Khi cho trẻ chơi trò chơi “ Bán hàng”, người bán hàng khi thấy có khách đến
mua thì phải niềm nở, dùng ngôn ngữ của mình để trả lời khách, dùng ngôn ngữ
của mình để mời chào khách, còn trẻ đóng vai người mua hàng sẽ phải về giá cả
các mặt hàng như thế nào?
Hoặc khi chơi trò chơi “Phòng khám đa khoa”, trẻ đóng vai bác sĩ khi
khám cho bệnh nhân biết hỏi xem bệnh nhân bị làm sao? Bị đau ở đâu?, sau đó
biết dùng ngôn ngữ của mình để căn dặn bệnh nhân phải uống thuốc, phải ăn
uống và nghỉ ngơi như thế nào?...Tùy vào từng chủ đề mà tôi lựa chọn các trò
chơi khác nhau để giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ giao lưu với bạn
được tốt hơn.
Ngoài ra trong giờ hoạt động học, tôi tăng cường cho trẻ trả lời câu hỏi của
cô, cho trẻ tập kể truyện, đóng kịch để giúp cho vốn từ của trẻ ngày càng phòng
phú hơn.
- Kỹ năng giao tiếp với bố mẹ, ông bà
Ở gia đình, trẻ luôn được ông bà, bố mẹ làm thay những nhu cầu mà bản
thân trẻ có thể làm được, trẻ hầu như được bảo vệ và chăm sóc theo nguyên tắc
là phụ thuộc và nuông chiều.Vì thế dẫn đến tình trạng trẻ không diễn đạt những
nhu cầu của mình bằng lời nói mà bằng những cử chỉ thì người lớn đã đáp ứng
nhu cầu ngay lập tức.
Tất cả những điều đó sẽ là tốt đẹp nếu nó ở một chừng mực nào đó, nếu
vẫn có những lĩnh vực và không gian cho phép trẻ có cơ hội để bộc lộ những sở
thích cá nhân, những hành vi tự chủ. Nhưng nó sẽ là một bi kịch vì sẽ dẫn đến
những xung đột trong việc giao tiếp, tạo cho trẻ những nhận thức và hành vi
không phù hợp khi trẻ bắt đầu tiếp xúc, hình thành các khả năng giao tiếp với xã
hội bên ngoài, nếu như trẻ phải tiếp nhận những sự bắt buộc. Ngược lại là một
sự nuông chiều, trẻ được chấp nhận mọi yêu cầu vô điều kiện với suy nghĩ đơn
giản là trẻ nhỏ chưa biết gì, chiều nó một chút cũng không sao, nhưng điều đó sẽ
tạo nên những hành vi và nhận thức sai lệch của trẻ mà lâu dần sẽ biến thành
thói quen rất khó thay đổi !
Đối với người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép, dạy trẻ nói đủ câu,
không nói trống không. Để trẻ có thói quen nói đủ câu, không nói trống không
thì giáo viên phải quan sát, uốn nắn trẻ thường xuyên, khi thấy trẻ nói chưa đủ
câu cần sửa cho trẻ ngay. Vào các thời điểm đón trẻ, qua giờ học, giờ chơi tôi
11
luôn quan sát để sửa cho trẻ. Ngoài ra qua những giờ học, cô lồng ghép nội dung
giáo dục, cách giao tiếp với người lớn tuổi giúp trẻ hiểu và diễn đạt nhu cầu
mong muốn của mình.
Kết quả: Với những hình thức giáo dục cho trẻ như vậy qua một thời gian
tôi thấy trẻ lớp tôi đã có sự tiến bộ rõ rệt, hầu hết trẻ đã mạnh dạn, tự tin, và tích
cực tham gia phát biểu trong giờ học, tích cực tham gia các hoạt động của lớp,
những trẻ nhút nhát đã tự tin hơn khi đứng trước lớp biểu diễn văn nghệ hoặc
mạnh dạn hơn trong việc đưa ra các ý kiến cá nhân của mình. Thích nghi với
môi trường bên trong và môi trường bên ngoài. Có thể nói việc rèn kỹ năng sống
tự tin giúp trẻ luôn vui vẻ, linh hoạt, tạo nền tảng cho cuộc sống vững vàng cho
trẻ sau này.
2.3.3: Xây dựng mối quan hệ gần gũi mật thiết trong lớp học.
Trong mỗi lớp học đều tồn tại mối quan hệ giữa: Cô giáo - học sinh - phụ
huynh. Xây dựng mối quan hệ gần gũi mật thiết giữa lớp học chính là việc xây
dựng mối liên hệ hai chiều hài hòa giữa:
Cô giáo
Phụ huynh
Học sinh
Trong lớp tôi, tôi luôn nỗ lực để tạo dựng tình cảm hai chiều mở rộng, gần
gũi, yêu thương gắn bó giữa cô và trẻ. Cô là người bạn cùng trẻ chia sẻ cảm xúc vui
buồn, cùng trẻ vui chơi, học tập, lắng nghe và thấu hiểu những suy nghĩ tình cảm
của trẻ. Cô khuyến luôn khích trẻ tạo cơ hội và niềm tin để trẻ sẵn sàng bày tỏ, trò
chuyện bộc lộ khả năng, năng lực cảm xúc của minh. Ở bên trẻ không có một áp
lực nào, trẻ mạnh dạn hồn nhiên và sống đúng với những suy nghĩ của mình. Đó là
điều kiện không thể thiếu để trẻ phát triển kỹ năng chủ động tích cực sáng tạo, là
môi trường để trẻ được bộc lộ và để sống cuộc sống của chính mình.
- Mối liên kết tình cảm, tình bạn thân thiết trong sáng giữa trẻ với trẻ trong
lớp cũng luôn được tôi dày công vun đắp và nâng niu. Trong mọi hoạt động tôi
luôn tạo cơ hội để trẻ gần gũi quan tâm đến nhau và kết hợp với nhau để cùng
học,cùng chơi, cùng hoạt động. Biểu dương khuyến khích những nhóm bạn biết
cùng nhau tiến bộ và biết thể hiện sự quan tâm, yêu thương, gắn bó lẫn nhau.
“Học thầy không tày học bạn”
- Đối với phụ huynh để việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có hiệu quả
nhất thì giáo viên cần phải thật sự thắt chặt mối dây liên hệ giữa hai bên.
- Ngay từ đầu năm học thông qua các buổi họp phụ huynh tôi đã trân tình cởi
mở trao đổi nội dung kế hoạch giáo dục hình thành kỹ năng sống cho trẻ để phụ
huynh hiểu và thống nhất biện pháp phối hợp cùng tôi thực hiện. Tôi đã nhấn mạnh
để phụ huynh hiểu rằng đây là một quá trình lâu dài và đòi hỏi việc giáo dục rèn
luyện phải được thực hiện ở cả nhà trường và gia đình thì mới có hiệu quả cao.
Chính vì vậy tôi cũng mạnh dạn đề nghị phụ huynh thường xuyên trao đổi với cô,
đọc bảng tin phụ huynh và gần gũi với trẻ để tìm hiểu các nội dung giáo dục kỹ
12
năng sống trên lớp. Đồng thời phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ ở nhà và phản
ánh kết quả qua lại kể cả hai phía đều biết được tình cảm của trẻ.
VD: Khi dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ ở lớp như: Tự đi và tháo dày dép, gập
quần áo, giáo viên cũng trao đổi để phụ huynh rèn trẻ làm tự các công việc lao
động phục vụ bản thân ở nhà mình như: tự đánh răng, rửa mặt, lấy quần áo mặc,
đi giầy dép,đi tất, tự xúc ăn…
(Hình ảnh: Trẻ biết tự giác xúc cơm ăn mà không cần sự giúp đỡ của
cô)
Khi dạy trẻ cách ứng xử văn hóa cô cũng nhẹ nhàng trao đổi để phụ huynh
rèn trẻ các hành vi văn hóa ở nhà như: gõ cửa trước khi vào, mời trước khi ăn,
cảm ơn, xin lỗi đúng lúc…
- Tuyên truyền để phụ huynh hiểu rằng mỗi người trong gia đình đều có
trách nhiệm trong việc giáo dục hình thành kỹ năng sống cho trẻ và đều phải làm
tấm gương để trẻ noi theo.
- Những kỹ năng sống tốt đẹp chỉ được hình thành trên nền tảng là tình yêu
thương, sự quan tâm, và tin tưởng lẫn nhau của cả phụ huynh, học sinh và cô
giáo.
Kết quả: Với sự quyết tâm tôi đã xây dựng cho lớp mình mối quan hệ gắn
kết mật thiết giữa cô - trẻ và phụ huynh học sinh.
2.3.4: Hình thành thói quen tốt trong hoạt động vui chơi
Hoạt động vui chơi là hoạt động được trẻ đón nhận một cách hứng thú và
tích cực nhất, bởi nó đáp ứng được nhu cầu của trẻ, trong thế giới đồ vật trẻ
được tha hồ vui chơi và sáng tạo. Việc tổ chức tốt hoạt động vui chơi không chỉ
giúp hình thành khả năng mà còn đặt nền tảng khá vững chắc để phát triển
những kỹ năng sống cho trẻ.
Ví dụ: Trong chủ đề “Giao thông”, ở góc chơi phân vai khi trẻ chơi trò
chơi “bố mẹ chở con đi học”, tôi đã dạy trẻ cách đội mũ bảo hiểm sao cho đúng
cách và an toàn. Yêu cầu trẻ đội mũ và gài dây trước khi ngồi lên xe. Cứ như
vậy, cho trẻ lặp đi lặp lại 2 -3 lần để nhớ thao tác, từ đó giúp trẻ hình thành kỹ
năng đội mũ bảo hiểm cho trẻ một cách tự nhiên.
13
Ví dụ: Ở chủ đề “Gia đình bé”, có thể gợi ý cho trẻ đóng vai ông bà, cha
mẹ, con cái,… hướng dẫn trẻ bấm số điện thoại và gọi cho nhau. Qua đó, giúp
trẻ vừa biết bày tỏ lòng quan tâm, yêu thương đối với mọi người, vừa cho trẻ tập
bấm số điện thoại cho những người thân để sử dụng khi cần thiết.
Ngoài ra tôi còn tận dụng những tình huống xảy ra trong quá trình chơi
của trẻ để dạy trẻ kỹ năng biết hợp tác, chia sẻ cùng bạn.
Ví du: Cháu Trang đang loay hoay với bộ đồ lắp ráp, cháu đã rất cố gắng nhưng
không thể ráp được và tôi đã gợi ý để cháu Trang rủ thêm các bạn cùng chơi.
(Hình ảnh: cô hướng dẫn trẻ lắp ráp mô hình ngôi nhà)
Trong giờ hoat động vui chơi, nếu quan sat kỹ chúng ta sẽ thấy vô vàn
những tình huống xảy ra. Vì vậy, giáo viên nên quan tâm và suy nghĩ để tìm ra
những biện pháp kịp thời xử lý tình huống, điều chỉnh hành vi cho trẻ, giúp trẻ
có thói quen tốt, biết được cái nào nên làm cái nào không nên làm. Lâu dần
những hành vi, thói quen ấy sẽ được tích lũy và nó trở thành kỹ năng sống đối
với trẻ.
2.3.5: Bồi dưỡng kinh nghiệm, hình thành nhân cách sống cho trẻ qua
những câu chuyện, ca dao, tục ngữ
Được nghe kể chuyện, với trẻ là điều vô cùng thích thú. Những câu chuyện
hay, có ý nghĩa chuyển tải những thông điệp có giá trị, giúp trẻ có được những
kỹ năng sống quý báu. Giáo viên cần lựa chọn các tác phẩm có giá trị, phù hợp
nhận thức của trẻ để kể cho trẻ nghe. Các bài ca dao, tục ngữ cũng là nguồn giá
trị để cho trẻ nghe thường xuyên.
Ví dụ: Khi kể cho trẻ nghe câu chuyện “Chú Vịt xám” tôi đã giúp trẻ
hiểu được vì Vịt Xám không nghe lời mẹ nên xuýt bị cáo ăn thịt, đồng thời
thông qua đó để giáo dục trẻ biết, khi được cha mẹ cho đi chơi thì các con phải
biết vâng lời cha mẹ, không được tự ý đi một mình sẽ rất nguy hiểm.
Hoặc ví dụ: Khi kể cho trẻ nghe câu chuyện “ Chú Thỏ tinh khôn” tôi đã
giúp trẻ hiểu được nhờ sự thông minh, nhanh trí mà chú Thỏ đã thoát ra khỏi
miệng Cá Sấu. Thông qua đó cũng giáo dục trẻ khi gặp những vấn đề nguy hiểm
14
cần phải biết bình tĩnh, không sợ sệt và cần phải thông minh, nhanh trí để giải
quyết vấn đề.
Ví dụ: Qua câu chuyện “ Cáo, thỏ và gà trống”, tôi dạy trẻ học tập bạn gà
Trống tính mạnh dạn, tự tin. Tuy nhỏ bé nhưng gà Trống đã biết dùng trí thông
minh của mình để đuổi cáo ra khỏi nhà.
Ví dụ: Câu chuyện “ Tích Chu”, tôi dạy trẻ kỹ năng luôn quan tâm giúp đỡ
mọi người đăc biệt là người thân trong gia đình học tập bạn Tích Chu không
quản ngại khó khăn đi kiếm nước suối tiên về cho bà uống.
Ví dụ: Chuyện Thỏ và Rùa giúp trẻ có một số kỹ năng sống như kỹ năng
tự tin: tuy chậm chạm nhưng Rùa vẫn tự tin chạy thắng Thỏ; cả Thỏ và Rùa đều
không hề đầu hàng hay nản trí sau thất bại, Thỏ quyết tâm làm việc hăng hơn và
cố gắng nhiều hơn sau khi thất bại. Câu chuyện khuyên các bạn nhỏ luôn cố
gắng hoàn thành công việc dù công việc đó có khó khăn nhiều. Câu chuyện còn
giúp trẻ kỹ năng sống hợp tác, biết đoàn kết, thể hiện sự thân thiện để hoàn
thành công việc nhanh hơn thể hiện qua đợt thi đấu lần thức 3 giữa Rùa và Thỏ.
Câu chuyện “Một chuyến tham quan” khuyên trẻ biết nhường nhịn chỗ
ngồi, chào hỏi lễ phép với mọi người;
Bài thơ “ Làm anh”, “ Giữa vòng gió thơm ”, “ Gió từ tay mẹ ”: giúp trẻ
có kỹ năng ứng xử phù hợp với những nười xung quanh, biết nhường nhịn em
nhỏ, quan tâm đến người thân, yêu thương ông bà cha mẹ.
Bài thơ “ Buổi đi chơi của bé” giúp trẻ biết một số quy tắc nơi công cộng,
không la to, không chen lấn xô đẩy bạn, biết xếp thẳng hàng.
Các bài ca dao, tục ngữ cũng là nguồn giá trị sâu sắc cho trẻ về công cha,
nghĩa mẹ, đạo con, hay tình anh em máu mủ…Như vậy, thông qua nội dung trẻ
được nghe, được đọc cùng với sự giảng giải của cô, trẻ sẽ thấm dần ý nghĩa của
chúng, từ đó tích lũy cho mình những bài học kinh nghiệm trong cuộc sống.
Ảnh: Cô đang kể chuyện cho trẻ nghe
2.3.6: Hình thành kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
Việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ không phải một sớm một chiều mà
nó phải có quá trình thời gian để rèn luyện. Đó là sự lặp một thao tác, một hành
vi nào đó, dần dần nó sẽ trở thành kỹ năng đối với trẻ. Những kỹ năng sống đầu
15
tiên và quan trọng nhất của đứa trẻ luôn được tiếp nhận và rèn luyện trong một
môi trường tự nhiên, đó chính là môi trường gia đình và xã hội.
Ở trường mầm non dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ góp phần không nhỏ
trong việc hình thành kỹ năng sống cho các cháu. Chính vì vậy tôi luôn tận dụng tất
cả các thời điểm, hay bất cứ khi nào có cơ hội và cảm thấy trẻ có hứng thú.
* Thông qua hoạt động một ngày của trẻ:
- Trong giờ hoạt động ngoài trời: Khi dạy trẻ quan sat các loại rau, củ, quả,
ta không chỉ cho trẻ làm quen với những loại rau, củ, quả mà còn giáo dục kĩ
năng chăm sóc cây tưới cây, bắt sâu, nhổ cỏ, lau lá…, kĩ năng bảo vệ cây không
bẻ cành, ngắt lá…
- Trong hoạt động học: Tìm hiểu về một số con vật nuôi trong gia đình
ngoài cung cấp kiến thức cho trẻ còn cung cấp các kĩ năng như biết chăm sóc,
cho ăn cho uống nước.
- Trong hoạt động góc: Khi cho trẻ chơi ở góc xây dựng dạy trẻ kĩ năng
chơi đoàn kết biết hợp tác với nhau, biết giao tiếp lịch sự. biết ngăn nắp gọn
gàng thu dọn đồ chơi để đúng nơi quy định.
- Trong các bữa ăn: Nên tận dung thời gian này để giáo dục và hình thành
kỹ năng sống cho trẻ: cách rửa tay sạch trước khi ăn, cách mời chào trước khi
ăn, khi ngồi ăn thì phải ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, đầu thẳng, không nhoài
người về phía trước, cách cầm thìa xúc khéo léo không làm đổ cơm, canh…
Hoặc khi cho trẻ ăn trứng gà, thay vì bóc vỏ giúp trẻ, giáo viên hướng dẫn trẻ bí
quyết bóc vỏ trứng luộc sao cho nhanh mà lại rât dễ dàng. Đừng bao giờ sợ rằng
để trẻ làm việc sẽ không hiệu quả, sẽ mất thời gian như: lau bàn không sạch, vắt
khăn không ráo, bê đồ ăn cho bạn chậm chạp, dễ làm đổ…Nếu như thế chúng ta
đã vô tình ngăn cản việc học kỹ năng của trẻ. Vì vậy bạn hãy cứ việc nhờ trẻ, cứ
sai vặt trẻ khi cần thiết. Thay vì sợ trẻ làm không được thì hãy cặn kẽ, kiên trì
hướng dẫn trẻ cách làm sao cho sạch, cho nhanh…
- Trong giờ lao động tôi dạy trẻ biết giúp đỡ cô lau dọn đồ dùng đồ chơi,
sắp xếp đồ dùng đồ chơi ngăn nắp, gọn gàng tạo cho môi trường sạch sẽ.
* Thông qua các chương trình văn nghệ của ngày hội ngày lễ
Rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ dưới hình thức tổ chức các hoạt động văn
nghệ một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ.
Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác
phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
Tôi đã luyện cho trẻ kỹ năng tự tin, hợp tác với bạn bạn để tham gia vào các
ngày hội ngày lễ, nhà trường tổ chức hội diễn văn nghệ gồm nhiều thể loại, đa dạng
nội dung, hình thức biểu diễn nhằm rèn cho trẻ kỹ năng mạnh dạn, hồn nhiên, biết
phối hợp với bạn bè để biểu diễn các tiết mục văn nghệ. Trong năm học 2018 –
2019 lớp tôi tham gia diễn văn nghệ các ngày hội ngày lễ như “ Ngày hội Bé đến
trường”; “ Vui hội trung thu”, Ngày hội “ Cô giáo như Mẹ hiên: ......
Có người cho rằng muốn trẻ học kỹ năng sống chỉ có thể tìm đến các
chuyên gia, trong các trung tâm đào tạo kỹ năng sống và phải đợi khi trẻ thực sự
đủ lớn mới cần thiết dạy. Nhưng thiết nghĩ, những giáo viên mầm non, những
16
người cha mẹ là những chuyên gia rất tuyệt vời của trẻ. Cô giáo, cha mẹ trẻ hãy
bằng chính tấm gương của mình, bằng những việc rất giản dị trong cuộc sống
hằng ngày để dạy kỹ năng sống cho trẻ.
Ảnh: Cô và cháu đang chăm sóc vườn rau
2.3.7: Phối kết hợp với phụ huynh
Bên cạnh việc dạy trẻ các kỹ năng ở lớp, tôi thường xuyên chú trọng đến
việc phối kết hợp với phụ huynh cùng dạy kỹ năng sống cho trẻ. Tuyên truyền
cho phụ huynh hiểu không nên làm hộ con, phải dạy trẻ tính tự lập từ bé. Trẻ
càng được hướng dẫn sớm về cách tự vệ, nhận biết những mối nguy hiếm từ
xung quanh và cách xử lý thì sẽ vững vàng vượt qua những thử thách trong mọi
tình huống. Điều đó được chứng minh rõ ràng từ thực tế. Việc giáo viên tích cực
giao lưu với phụ huynh vào giờ đón, trả trẻ giúp giáo viên dễ dàng nắm bắt tình
hình của trẻ, hiểu được tính cách, hoàn cảnh sống của trẻ từ đó đề ra các biện
pháp phù hợp cũng như cách tác động, phối hợp với phụ huynh trong việc rèn
luyện trẻ đúng phương pháp.
Trong gia đình, việc dạy trẻ trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được
những kỹ năng, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác, thuần thục và
khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ chỉ thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng
được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa,
những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung
quanh trẻ. Trước hết người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử
công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui
chơi. Cô giáo, cha mẹ, giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này, tôi thường trao đổi,
tuyên truyền phụ huynh hiểu những việc nên và không nên làm đối với trẻ để
giúp trẻ có kỹ năng sống tốt, trẻ có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, tự tin trong cuộc
sống... Trẻ luôn bắt chước người lớn và bố mẹ trẻ là những người lớn gần gũi trẻ
nhất. Vì vậy các bậc làm cha làm mẹ đừng vô tình bỏ qua những cơ hội đơn giản
và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con những thói quen tốt rồi sau đó lại bắt
trẻ mất thời gian học lại những điều này ở một nơi khác với những người xa lạ.
17
Bố mẹ trẻ hãy chú ý giúp trẻ hình thành những kỹ năng sống tốt như kỹ năng
giao tiếp xã hội để tự khám phá, đánh giá bản thân mình và người khác.
Ví dụ: Khi ở nhà, gia đình nên khuyến khích trẻ tự khởi xướng ra những
cuộc chơi bằng cách xin phép bố, mẹ và ông bà cho con được chơi. Khi chơi
xong phụ huynh cần nhắc nhở và dạy cho con biết cách tự thu dọn đồ chơi sau
khi chơi. Cha mẹ có thể cùng con thu dọn nhưng tuyệt đối không bao giờ được
làm thay trẻ.
Trong các dịp lễ tết cha mẹ nên tạo cơ hội khuyến khích trẻ tham gia dọn
dẹp trang hoàng nhà cửa, phụ ông bà lau lá để gói bánh chưng, trang trí cây đào,
cây quất, lau lá cây, đi chợ tết mua sắm cùng mẹ…Ngoài ra, bố mẹ hãy lựa chọn
những chương trình trên truyền hình phù hợp và bổ ích với bé để cả nhà cùng
xem, khi xem khuyến khích các bé nói lên suy nghĩ cảm xúc của mình về những
điều mà bé vừa được xem.
Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của trẻ
trong điều kiện và tình huống tự nhiên hàng ngày như quan sát xem trẻ có tự tin
và tự nhiên khi giao tiếp với mọi người hay không? Trẻ có thích tham gia các
nhóm sinh hoạt không? Trẻ có tự nhiên sáng tạo khi chơi với đồ chơi không?
Trẻ có lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay không?… để từ đó có biện
pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm.
Cha mẹ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lí bằng việc
tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên tham
gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia vào các buổi họp của nhà
trường để nắm bắt được tình hình cùng với nhà trường giáo dục trẻ một cách
toàn diện hơn.
Kết quả: Phụ huynh đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo
trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức
thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp; số lượng
phụ huynh học sinh tham gia đông hơn.
Cha mẹ cảm thấy vui vì biết con mình đã có được những kỹ nằng sống nhờ
cô giáo, kết hợp cùng gia đình thì trẻ mới có được những kỹ năng tốt như vậy.
Ảnh: Giáo viên tuyên truyền với phụ huynh trong việc
hình thành kĩ năng sống cho trẻ
18
- Xem thêm -