Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24 36 tháng đạt hiệu q...

Tài liệu Skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24 36 tháng đạt hiệu quả tại trường mầm non nga thắng.

.DOC
26
10
81

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ ĐỘ TUỔI 24 - 36 THÁNG ĐẠT HIỆU QUẢ TẠI TRƯỜNG MẦM NON NGA THẮNG - HUYỆN NGA SƠN - TỈNH THANH HÓA Người thực hiện: Vũ Thị Thanh Chức vụ: Giáo Viên Đơn vị công tác: Trường Mầm non Nga Thắng SKKN lĩnh vực: Chuyên môn THANH HÓA NĂM 2019 MỤC LỤC NỘI DUNG 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài 1.2. Mục đích nghiên cứu 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi được áp dụng SKKN 2.2.1.Thuận lợi 2.2.3. Khó khăn 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Tạo môi trường ngôn ngữ phong phú trong và ngoài lớp 2.3.2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi tập có chủ định 2.3.3. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời 2.3.4. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động góc 2.3.5. Sử dụng một số trò chơi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 2.3.6. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động đón trẻ, giờ ngủ trưa, hoạt động trả trẻ 2.3.7. Tuyên truyền phói hợp với phụ huynhtrong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ 2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục với bản thân và đồng nghiệp và nhà trường. 3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận 3.2. Kiến nghị * Tài liệu tham khảo * Danh mục SKKN qua các năm * Phụ lục Trang 1 2 2 2 2 2 2 3 3 4 4 5 7 13 14 14 6 18 18 19 19 20 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết ngôn ngữ đối với con người nói chung, với sự phát triển của trẻ mầm non nói riêng (đặc biệt là trẻ 2 - 3 tuổi) có một vị thế hết sức quan trọng. Nó là một trong những cơ sở, tiền đề để cho trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần. Ngôn ngữ giúp cho sự phát triển tư duy của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện giúp cho chúng ta và nhất là trẻ em giao tiếp với mọi người và giúp trẻ dễ dàng hoà đồng vào cuộc sống một cách thân thiện nhất, nói sao cho mọi người hiểu, hiểu khi người khác nói đó là điều cần thiết khi giao tiếp. Đồng thời, thông qua giao tiếp giúp trẻ phát triển trí tuệ để nhận biết thế giới xung quanh và phát triển tình cảm của trẻ. Ở độ tuổi Nhà Trẻ (trẻ 24- 36 tháng) chủ yếu sử dụng ngôn ngữ nói để giao tiếp và tìm hiểu về thế giới xung quanh và là thời kỳ tích luỹ vốn từ của trẻ. Để trẻ không bị mắc các tật về ngôn ngữ sau này, thời kỳ này giáo viên cần hết sức chú ý đến rèn luyện phát âm và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đặc điểm tâm lý của trẻ trong giai đoạn 24 - 36 tháng tuổi là trẻ hết sức hiếu động, hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của trẻ. Để thực hiện việc giáo dục trẻ ở bậc học mầm non đạt kết quả tốt thì cần nắm chắc đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ và thực hiện phương châm giáo dục “học bằng chơi, chơi mà học”. Trò chơi là một trong những phương tiện quan trọng nhất để phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ và thể lực. Riêng với trẻ 2 - 3 tuổi, ngoài hoạt động đối với đồ vật là hoạt động chủ đạo thì trò chơi không thể thiếu trong cuộc sống của trẻ. Chơi là nhu cầu tự nhiên của trẻ, trẻ cần chơi như cần cơm ăn, nước uống, không khí để thở. Qua trò chơi giúp trẻ lĩnh hội những trí thức tiên tiến, khoa học một cách nhẹ nhàng, thoải mái giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tích luỹ vốn từ. Trò chơi còn giúp trẻ phát triển các tố chất vận động nhanh, mạnh và khéo léo. Việc tổ chức, hướng dẫn trẻ chơi các trò chơi có mục đích, có nội dung phong phú theo yêu cầu và nhiệm vụ giáo dục sẽ có tác động mạnh mẽ đến trẻ về cả ý thức tình cảm, ý chí và hành vi của trẻ. [1] Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người . Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử- xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn. Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ 1 có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. [2] Ý thức được điều đó, là một cô giáo Mầm Non trực tiếp dạy trẻ 24- 36 tháng tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24- 36 tháng đạt hiệu quả tại trường Mầm Non Nga Thắng Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đáp ứng chương trình GDMN mới hiện nay. 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài này là muốn nâng cao hiệu quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi lớp Hoa Hồng tại trường mầm non Nga Thắng - Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Trẻ 24 -36 tháng tuổi tại trường mầm non Nga Thắng - Huyện Nga Sơn Tỉnh Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc các tài liệu, giáo trình có liên quan đến vấn đề khám phá khoa học cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi. - Phương pháp điều tra, khảo sát, trao đổi với đồng nghiệp, với các cháu. - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu - Phương pháp quan sát, đàm thoại - Phương pháp trò chơi. - Phương pháp thực hành trải nghiệm: 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề Ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nền kinh tế không ngừng phát triển với một sự thay đổi cơ bản về cơ cấu xã hội để tiếp cận với một nền văn minh phát triển cao. Trong đó con người đứng ở vị trí trung tâm. “Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp là một đặc trưng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất” V. Lê Nin. [3] Trong hoạt động trẻ thực hiện với phương thức “thử - sai” dần dần trẻ hiểu được chức năng của đồ vật và biết phương thức sử dụng chúng, từ đó làm giàu ở trẻ các biểu tượng về thế giới xung quanh, nó giúp cho việc hình thành các hoạt động khác. Hoạt động vui chơi học tập, năng lực … hình thành nên những yếu tố đầu tiên của nhân cách con người. Chính hoạt động vui chơi là nơi để trẻ thể hiện tốt nhất tính độc lập của mình là nơi thoả mãn nhu 2 cầu tự khẳng định, nhu cầu tìm kiếm, khám phá thế giới xung quanh. Từ đó giúp trẻ hình thành động cơ chơi. Đây chính là nền tảng để chuyển sang giai đoạn mới, tuổi mẫu giáo. Trò chơi có tác dụng rất lớn đối với trẻ, trò chơi nhằm thu hút sự tập trung chú ý, nó giúp cho trẻ tham gia một cách hào hứng, thoải mái và khắc sâu ở trẻ những kiến thức đã thu lượm được trong bài học đồng thời mở rộng ra tất cả những kiến thức về đời sống xung quanh một cách hợp lý. Đặc biệt, quan sát trẻ giao tiếp trong khi trẻ chơi, kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tích cực. Tôi thấy một số trò chơi dân gian rất phù hợp để phát triển các khả năng trên của trẻ, đặc biệt là rèn luyện khả năng nghe, luyện phát âm, từ đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Bác Hồ đã từng nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó.” [4] Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ Mầm Non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng không thể thiếu được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà mọi người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó. Ngôn ngữ còn là phương tiện giúp trẻ tìm hiểu khám phá, nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ lời nói của người lớn trẻ sẽ được làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh… của các sự vật , hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt đối với trẻ 24- 36 tháng cần giúp trẻ phát triển mở rộng các loại vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên nói chuyện với trẻ về những sự vật, hiện tượng, hình ảnh…. mà trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hành ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng từ đó hình thành ngôn ngữ cho trẻ . 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Thuận lợi: * Về phía cơ sở vật chất, nhà trường: - Trường mầm non Nga Thắng là một trường chuẩn quốc gia. Khuôn viên nhà trường nhiều cây xanh bóng mát, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối đảm bảo cho công tác giảng dạy của giáo viên, môi trường trong và ngoài lớp sạch sẽ đáp ứng yêu cầu giáo dục trẻ. - Luôn được sự quan tâm chỉ đạo của quản lý nhà trường tạo điều kiện về đời sống tinh thần cùng với chuyên môn trong công tác chăm sóc - nuôi dưỡng, giáo dục trẻ * Về phía giáo viên: 3 - Bản thân có trình độ nghiệp vụ sư phạm, là giáo viên trẻ nhiệt tình, có trình độ đại học, yêu quý trẻ, và có kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ vững vàng, được phụ huynh tin yêu. - Lớp tôi chủ nhiệm có 17 cháu, các cháu đều học đúng độ tuổi, các cháu đi học thường xuyên và ngoan. Trong các giờ học, giờ chơi trẻ chú ý. Các hoạt động trẻ đều tích cực tham gia. * Về phía bậc phụ huynh: - Các bậc phụ huynh lớp tôi rất quan tâm đến con em mình và phối hợp rất tốt với cô giáo trong công tác chăm sóc - nuôi dưỡng, giáo dục con em mình. - Các bậc phụ huynh đã hiểu rõ về tầm quan trọng của việc đưa con em đến trường mầm non, biết được con đến trường học được những gì. Nên họ có ý thức cho con đi học đều, đưa đón đúng giờ quy định. 2.2.2. Khó khăn: * Về phía nhà trường: Các trang thiết bị hiện đại chưa được đầu tư đồng bộ để kích thích sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. * Về phía giáo viên: Bản thân tôi chưa có nhiều hình thức sáng tạo, lôi cuốn trẻ hoạt động. * Về phía phụ huynh: - Một số bộ phận phụ huynh quá chú trọng đến việc phát triển kinh tế, ít quan tâm đến việc học hành của con cái, chưa thực sự coi trọng giáo dục mầm non, có phụ huynh chỉ nghĩ trẻ mầm non vài việc hát hò là xong còn các môn học khác của trẻ chưa quan tâm đến. - Do tập tục và nền văn hóa địa phương, phụ huynh ở đây nói sai lỗi chính tả nhiều so với tiếng phổ thông như nói sai dấu hỏi và dấu ngã, phát âm sai phụ âm đầu. Khi giao tiếp với trẻ hằng ngày ở nhà thì phụ huynh còn hay nói nựng sai âm và tiếng. * Về phía học sinh: - Vì các cháu bắt đầu đi học nên còn khóc nhiều chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt của lớp nên còn bỡ ngỡ. Mỗi cháu lại có những sở thích và cá tính khác nhau. - Trình độ nhận thức của trẻ trong lớp không đồng đều. Tháng tuổi của trẻ chênh lệch nhau về tháng sinh quá xa ở lứa tuổi này sẽ dẫn đến sự chênh lệch về trình độ nhận thức, sự hiểu biết, ngôn ngữ. - Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm khi sắp xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. - 60% trẻ phát âm chưa chính xác hay ngọng, phát âm theo tiếng địa phương và tiếng nựng của người lớn(chữ x- s, dấu ngã - dấu sắc, dấu hỏi - dấu nặng…). Ngay từ đầu năm học căn cứ vào cơ sở lý luận, thực trạng, kết quả thực tế năm học trước tôi đã xây dựng kế hoạch đưa ra tiêu chí khảo sát chất lượng ban đầu cho trẻ như sau: (Kèm theo bảng khảo sát kết quả trên trẻ đầu năm ở phụ lục 1) - Từ kết quả trên bản thân tôi rất băn khoăn phải làm gì và bằng biện pháp như thế nào để cho trẻ được phát triển ngôn ngữ được tốt điều này đã thôi thúc 4 tôi mạnh dạn xúc tiến nội dung phương pháp để kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và phát âm chuẩn, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc, giáo dục văn hoá giao tiếp lời nói. Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức. Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ mà trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động sau: 2.3.1. Giải pháp1: Tạo môi trường ngôn ngữ phong phú ở trong và ngoài lớp: Việc xây dựng môi trường ngôn ngữ trong trường mầm non một cách có hiệu quả sẽ tạo ra những đứa trẻ mạng dạn, tự tin, năng động, sáng tạo, ham hiểu biết, biết suy nghĩ và biết giao tiếp. Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ đạt kết quả cao thì bản thân tôi phải chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động, vì môi trường đóng vai trò rất quan trọng. Môi trường có phù hợp, đa dạng, phong phú thì sẽ gây hứng thú cho trẻ. * Môi trường ngôn ngữ cho trẻ hoạt động trong nhóm trẻ. Trường mầm non là môi trường thuận lợi để hình thành các kỹ năng xã hội cho trẻ: Đảm bảo môi trường giao tiếp thân thiện, hòa đồng, ấm cúng, cởi mở giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với môi trường xung quanh. Quan hệ giữa cô và trẻ, người lớn với trẻ phải thể hiện tình cảm yêu thương, thái độ tôn trọng, tin tưởng trẻ, tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư nguyện vọng của mình. Tạo điều kiện cho trẻ giao tiếp và thể hiện sự quan tâm của mình đối với mọi người, đối với sự vật hiện tượng gần gũi xung quanh. Trong phòng nhóm có các đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu đa dạng, phong phú, có các tranh, hình ảnh các nhân vật ngộ nghĩnh, hấp dẫn trẻ, tạo môi trường ngôn ngữ để trẻ tương tác và phát triển các kỹ năngTrong lớp học tôi trang trí, sắp xếp phòng, lớp các góc chơi đảm bảo thẩm mĩ, thân thiện, an toàn, phù hợp với nội dung giáo dục đó để lớp học thêm lôi cuốn trẻ các cô giáo cần tạo nên một môi trường lớp học với những màu sắc sinh động, những nhân vật ngộ nghĩnh… Môi trường có không gian, cách sắp xếp phù hợp, gần gũi, quen thuộc với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ; phản ánh kinh nghiệm, văn hóa của địa phương; luôn thay đổi để tạo ra sự hấp dẫn mới lạ đối với trẻ. [5] 5 Hình ảnh trang trí các khu vực hoạt động trong nhóm trẻ * Môi trường bên ngoài lớp học: Môi trường ngoài lớp học là yếu tố góp phần tích cực trang các hoạt động nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục toàn diện trẻ. Trường đã tập trung xây dựng môi trường giáo dục ngoài lớp học an toàn, đẹp, hấp dẫn trẻ. Nhà trường bố trí các khu vực cho trẻ hoạt động vui chơi, sinh hoạt, học tập ngoài trời một cách khoa học và phù hợp, bố trí diện tích sân tập thể dục cho trẻ toàn trường, sân vận động nhằm phát triển thể chất cho trẻ gồm: chơi bật vòng, lăn bóng, bò qua ghế… và một số trò chơi khác. Khu vực chơi với đồ chơi ngoài trời (cầu trượt, đu quay, đu bay, bập bênh, nhà bóng…); khu vực chơi “giao thông”; khu vực chơi với đất, cát, nước, đá, sỏi…; khu vực trẻ trồng rau, trồng cây và chăm sóc cây cối, con vật nuôi; khu chơi với các nhân vật cổ tích, hay còn gọi là “vườn cổ tích”; khu “sân khấu ngoài trời”, khu trồng cỏ, trồng hoa, trồng cây cảnh, cây ăn quả, cây bóng mát trên sân trường; khu tạo sân cỏ… hệ thống đường đi lối lại trên sân; độ cao của hệ thống tường bao, độ rộng của cổng và biển trường; khu đặt bảng tuyên truyền, hộp thư cha mẹ. Các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, khu vực hoạt động, mọi gốc cây đều được treo, gắn tên biển hiệu để kích thích sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Ngoài ra trên các mảng tường trống bên ngoài lớp học và tường rào nhà trường đã cho vẽ những hình ảnh có chứa nội dung các câu chuyện, bài thơ… phù hợp với lứa tuổi để khi trẻ đi dạo, đi chơi cô trò chuyện với trẻ về nội dung các bức tranh trên tường, để kích thích trẻ trả lời, luyện phát âm các từ. Cô đặt ra các câu hỏi, khuyến khích trẻ trả lời, cô định hướng, nhắc nhở, giúp đỡ khi trẻ không tự trả lời được. Cô cho nhiều trẻ được trả lời và sau mỗi câu trả lời cho nhiều trẻ nhắc lại. Như vậy vốn từ của trẻ sẽ được phát triển.[5] Kết quả: Sau khi tổ chức cho trẻ thực hiện ở môi trường trong và ngoài lớp thì tôi thấy ngôn ngữ và tư duy của trẻ phát triển tất tốt, trẻ mạnh dạn, tự tin hứng thú hoạt động. Kết quả 16/17cháu đạt khả năng diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc khi giao tiếp = 94% 6 Cổ Hình ảnh vườn cổ tích cho trẻ trải nghiệm 2.3.2. Giải pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi tập có chủ định: Ở giải pháp này muốn trẻ hứng thú vào các hoạt động để phát triển tư duy và ngôn ngữ thì giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi thật đa dạng, phong phú, màu sắc bắt mắt, phù hợp với trẻ: * Thông qua hoạt động học nhận biết Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ. Trẻ ở lứa tuổi 24 - 36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc. Ví dụ 1: Trong bài nhận biết ‘‘cái bát, cái thìa” của chủ đề ‘‘đồ dùng đồ chơi của bé”. Thì cô cho trẻ sử sụng các giác quan để trẻ quan sát, nhận biết cái bát đựng cơm và cái thìa. Trong quá trình cho trẻ nhận biết tôi đã sử dụng hệ thống câu hỏi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ như sau: + Đây là cái? (Cái bát) - Tôi cho trẻ cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân phát âm ‘‘cái bát, cái thìa” 1-2 lần + Đây là bát đựng gì? (Đựng cơm) + Cái bát này có màu gì? (màu xanh) + Đây là cái gì? (cái thìa) + Cái thìa để làm gì? (xúc cơm) - Sau mỗi câu trả lời của trẻ tôi đều cho trẻ phát âm‘‘cái bát, đựng cơm, màu xanh, cái thìa” nhiều lần theo hình thức cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân. - Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc , thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ. 7 Ví dụ 2: Trong bài nhận biết ” Quả cam” cô muốn cung cấp từ “ cam ” cho trẻ cô phải chuẩn bị một quả cam thật để cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn….Nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích. - Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát và phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi đưa ra hệ thống câu hỏi: + Đây là quả gì? ( Quả cam ). Cho cả lớp nói từ quả cam, tổ phát âm 1-2 lần, nhóm phát âm ,cá nhân trẻ phát âm. + Quả cam có màu gì? Cho cả lớp nói màu vàng, tổ phát âm 2-3 lần, nhóm phát âm, cá nhân trẻ phát âm. + Ăn cam cung cấp chất gì? (Vi ta min) + Ăn cam có vị gì ? (cho trẻ nếm) Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc, thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ (Hình ảnh: minh họa trẻ hoạt động nhận biết “Quả cam”) Ví dụ 3: Bài nhận biết‘‘Ô tô’’ của chủ đề ‘‘Bé thích đi bằng phương tiện giao thông gì’’ Khi vào bài tôi đặt câu đố : ‘‘Xe gì bốn bánh Chạy ở trên đường Còi kêu bim bim Chở hàng chở khách’’(Ô tô ) - Trẻ trả lời đó là ô tô tôi đưa chiếc ô tô cho trẻ xem và hỏi + Xe gì đây? (Ô tô ) Cô cho trẻ phát âm lại từ ‘‘Ô tô’’ theo cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân từ 1- 2 lần + Ô tô có màu gì? (Màu đỏ ạ ) + Còi ô tô kêu như thế nào? (bíp bíp… ) + Đây là cái gì? (Cô hỏi từng bộ phận của ô tô và yêu cầu trẻ trả lời ) - Sau mỗi câu trả lời của trẻ tôi đều cho trẻ phát âm từ ‘‘ô tô, màu đỏ, bíp bíp, đầu xe, thân xe, bánh xe’’ theo hình thức cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân 1-2 lần để cung cấp vốn từ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Kết quả: Trẻ phát triển tư duy và phát triển ngôn ngữ 16/17 cháu = 94 % * Thông qua hoạt động văn học như đọc thơ, kể chuyện: 8 Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện. Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo : + Đồ dùng trực quan phải sinh động, đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ. + Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi. + Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật. + Cô phải đưa ra những câu hỏi mang tính gợi mở tránh dùng câu hỏi mà người trả lời sẽ nói có hoặc không. + Câu hỏi phải dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ Ví dụ 1: Trong câu truyện “ Thỏ ngoan” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện, tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời. + Trẻ nói “Thỏ ngoan - Thỏ ngan” + Bác Gấu - Bác ấu + Con Cáo - Con áo - Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách : tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo.Tôi sửa sai cho trẻ để trẻ nói đúng từ. - Thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động viên, khích lệ trẻ kịp thời. - Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện“ Thỏ ngoan” + Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn. + Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu. + Giọng Thỏ thì ân cần, niềm nở. Ví dụ 2: Qua bài thơ “cây bắp cải” của chủ đề “cây rau, quả và những bông hoa đẹp” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “cây bắp cải, màu xanh, ở giữa”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật cho trẻ sử dụng các giác quan để quan sát, nhận biết, gọi tên, nói đặc điểm của cây bắp cải. - Tôi giải thích cho trẻ: Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày mẹ vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vòng tròn xếp trồng lên nhau lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già ở ngoài. Bên cạnh đó trong quá trình cho trẻ quan sát tôi sử dụng hệ thống câu hỏi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ như sau: + Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ) (Tôi cho cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân đọc từ “cây bắp cải” 2-3 lần) + Cây bắp cải có màu gì? (màu xanh) 9 + Búp cải non thì nằm ở đâu? (Nằm ở giữa ) - Trong quá trình quan sát, đàm thoại khi học bài thơ “cây bắp cải” sau mỗi câu trả lời của trẻ tôi đều cho trẻ phát âm từ “cây bắp cải, màu xanh, ở giữa” theo cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân từ 1-2 lần. - Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ. Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức . Kết quả: Qua hoạt động này trẻ phát âm đúng từ ngữ, cô sửa được 1 số lỗi như nói ngọng, nói nhịu, nói lắp của 1 số trẻ, trẻ hứng thú hoạt động kết quả 16/17 cháu đạt khả năng diễn đạt ngôn ngữ giao tiếp = 94% Ví dụ 3: Qua câu chuyện “Khỉ con không vâng lời” của chủ đề “Những con vật đáng yêu”. Để trẻ nhớ tên chuyện, nhân vật, hiểu nội dung câu chuyện.Trẻ có thể kể tóm tắt câu chuyện thì trong bài dạy của mình tôi ngoài kể chuyện bằng lời, qua tranh minh họa, thì tôi còn còn kết hợp kể chuyện qua mô hình kết hợp sử dụng các câu hỏi mở để kích thích trẻ trả lời: + Cô vừa kể xong câu chuyện gì? (Khỉ con không vâng lời) (Cô cho trẻ cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân phát âm lại câu “Khỉ con không vâng lời” từ 1- 2 lần) + Trong câu chuyện có những ai? (Khỉ mẹ, khỉ con, thỏ con) - Tôi chỉ vào con rối từng nhân vật và hỏi trẻ: + Đây là ai? (Khỉ mẹ, khỉ con, thỏ con) - Sau mỗi câu trả lời đúng của trẻ tôi đều cho cả lơp, tổ, nhóm, cá nhân phát âm lại để cung cấp vốn từ phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hình ảnh cô và trẻ đang hoạt động kể chuyện “Khỉ con không vâng lời” qua mô hình - Như vậy qua câu chuyện ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú. 10 - Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ. Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức. Kết quả: Qua hoạt động này trẻ phát âm đúng từ ngữ, cô sửa được 1 số lỗi như nói ngọng, nói nhịu, nói lắp của 1 số trẻ, trẻ hứng thú hoạt động kết quả 16/17 cháu đạt khả năng diễn đạt ngôn ngữ giao tiếp = 94% * Thông qua hoạt động âm nhạc: - Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn thôi thúc tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có hiệu quả với trẻ. - Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật như: Trống, lắc, phách tre, mõ, xắc xô và… nhiều chất liệu khác, trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc. - Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác minh họa đơn giản: Ví dụ 1: Qua giờ hát, vận động theo nhạc bài “Khám tay” + Khi chuẩn bị vận động thì tôi hỏi trẻ “tay đẹp đâu” trẻ đưa tay ra và trả lời “tay đẹp đây” 2 lần sau đó trẻ hát và vận động: + Câu đầu tiên: Nào đưa bàn tay trực nhật khám tay (Trẻ cuộn hai bàn tay và lật ngửa tay đưa ra trước) + Câu thứ hai: Tay ai xinh xắn trắng tinh thì xếp hàng. (Trẻ đưa tay xếp hàng) + Câu cuối: Còn tay ai bẩn thì tìm nước rửa ngay đi (Trẻ làm động tác rửa tay) - Qua hoạt động trẻ đã được phát âm câu “tay đẹp đây” để ngôn ngữ của trẻ được phát triển. Khi trẻ kết hượp giữa hành động và lời bài hát thì ngôn ngữ nghệ thuật của trẻ cũng phát triển. Trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh đẹp của bài hát. Ví dụ 2: Hát và vận động bài “ Con voi” + Câu đầu tiên: Con vỏi con voi Cái vòi đi trước. (Trẻ đưa tay ra phía trước giả làm vòi con voi) + Câu thứ hai: Hai chân trước đi trước - Hai chân sau đi sau. ( Hai tay chống hông, hai chân nhấc lên nhấc xuống) + Câu cuối: Còn cái đuôi đi sau rốt - Tôi xin kể nốt - Câu chuyên con voi. ( Một tay chống hông, một tay đưa ra đằng sau vờ làm đuôi con voi) 11 (Hình ảnh: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động âm nhạc) Kết quả: Từ những lời ca qua hoạt động mô phỏng giúp trẻ hiểu ý nghĩa của từ một cách tự nhiên, đạt 17/17 cháu = 100%. * Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp trong các hoạt động chơi tập có chủ dịnhđể kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ. Trong quá trình trò chuyện, đàm thoại chúng ta nên sử dụng câu hỏi khác nhau. Các câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dể hiểu, là những câu hỏi mở để phát triển tư duy của trẻ phát triển của trẻ. - Câu hỏi kích thích trẻ nhận biết phân biệt sự vật, hiện tượng tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri giác, gợi ý trẻ đến hoạt động. Ví dụ: + Ai đây? Cái gì đây? Mầu gì? hình gì? + Ở đâu? Khi nào? Bao giờ? + Với ai? Cho ai? Để Cho ai? - Câu hỏi kích thích sâu về bản chất sự vật hiện tượng, tả sự vật nêu đặc điểm sự vật và cảm xúc của bản thân. Ví dụ: + Tiếng kêu này của con gì? Tiếng gõ này của dụng cụ nào? + Bên trong túi hộp có gì? + Hai quả này quả nào to hơn? + Cái nào to hơn, cái nào bé hơn? + Trong bức tranh có những ai? Có những con vật nào? - Câu hỏi kích thích trẻ giải thích phỏng đoán suy đoán diễn biến và kết quả sự vật hiện tượng. Ví dụ: + Cái này dùng để làm gì? + Con vật này có ích lợi gì? + Phương tiện này dùng để làm gì? 12 + Cháu xếp nhà như thế nào? - Câu hỏi khuyến khích trẻ giải thích ý kiến đánh giá sự vật. Ví dụ: + Cái này dung để làm gì? + Con thích cái nào? Vì sao? - Sau khi sử dụng các loại câu hỏi với trẻ tôi thấy có sự thay đổi rõ rệt ở trẻ lớp tôi. Trẻ tiến triển về nhận thức, ngôn ngữ và tình cảm trong khi trò chuyện, đàm thoại tôi sử dụng câu hỏi một cách linh hoạt tùy thuộc vào sự phát triển của trẻ. Kết quả: Trẻ sử dụng câu hỏi một cách linh hoạt 16/17 trẻ = 94%. 2.3.3. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời: * Đối với phần quan sát có mục đích: Quan sát hoa hồng - Tôi cho trẻ sử dụng các giác quan để quan sát, nhận biết các loại hoa(về tên gọi, đặc điểm màu sắc. Trong quá trình cho trẻ quan sát tôi sử dụng hệ thống câu hỏi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ như sau: + Đây là cái gì? (Cây hoa) (Tôi cho trẻ cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân đọc lại từ “cây hoa” 1-2 lần + Đây là hoa gì? (Hoa hồng) + Hoa hồng màu gì? (Màu đỏ) - Sau mỗi câu trả lời của trẻ tôi đều cho trẻ phát âm từ “hoa hồng, màu đỏ” theo hình thức cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân 1-2 lần. Từ đó giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. (Hình ảnh cô và trẻ đang quan sát đàm thoại về hoa) * Đối với trò chơi vận động: Tôi cho trẻ chơi trò chơi “gieo hạt” để trẻ nhớ tên trò chơi, phát âm đúng trò chơi. Trước khi cho trẻ chơi tồi còn hỏi trẻ “tay đâu” trẻ trả lời “tay đây” (trẻ đưa 2 tay của mình ra). Qua đó củng cố thêm kiến thức ngôn ngữ cho trẻ. * Đối với nội dung chơi tự do: Cho trẻ chơi đu quay cầu trượt 13 - Tôi đến chỗ trẻ đang chơi đu quay và cầu trượt để hỏi trẻ : + Các con đang làm gì đấy? (Con đang chơi) + Các con đang chơi ở đồ chơi gì? (đu quay, cầu trượt) (Tôi cho nhóm trẻ, cá nhân nhắc lại từ “đu quay và cầu trượt” 2-3 lần) để củng cố vốn từ cho trẻ. 2.3.4. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động ở khu vực hoạt động góc. Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ.Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau. Ví dụ 1: Trò chơi trong khực “Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. - Tôi cho trẻ chơi trò chơi “cho búp bê ăn” và giao tiếp với trẻ thông qua hệ thống câu hỏi: + Ai đây? (búp bê ) Tôi cho trẻ nhắc lại từ “búp bê” 1-2 lần để trẻ nhận biết tên gọi “búp bê” + Đây là cái gì? (cái bát, cái thìa) Sau mỗi câu trả lời tôi cho trẻ phát âm lại từ “cái bát, cái thìa” 1-2 lần để phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhiều hơn. - Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó của con người. Ví dụ 2: Trong khu vực “Hoạt động với đồ vật” ở chủ đề “mẹ và những người thân yêu của bé” tôi cho trẻ xâu vòng hoa tặng mẹ. Tôi chuẩn bị cho mỗi trẻ một rổ đựng hoa bằng nhựa, dây xâu. Cô củng cố, cung cấp kiến thức ngôn ngữ cho trẻ thông qua hệ thống câu hỏi: + Các con đang xâu cái gì? (xâu vòng hoa) (Tôi cho trẻ nhắc lại từ 1-2 lần) + Xâu vòng để tặng ai? (tặng mẹ) + Vòng hoa màu gì? (màu đỏ) Sau mỗi câu trả lời nếu trẻ trả lời sai cô sửa sai và cho trẻ nhắc lại theo hình thức cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân từ 1-2 lần để cung cấp vốn từ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ Kết quả: Khả năng phát âm rõ lời của trẻ đạt 15/17 cháu = 88 % 2.3.5. Sử dụng 1 số trò chơi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử dụng” số vốn từ”đó một cách thành thạo.Qua trò chơi trẻ sẽ được phát triển ngôn ngữ cũng lưu loát hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy 14 rằng khi trẻ chơi trò chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái. a. Trò chơi dân gian: Đây là 1 trò chơi mà đa số trẻ rất thích, qua trò chơi này trẻ có thể vừa đọc các bài đồng dao, ca dao vừa chơi qua đó giúp trẻ hứng thú mà vốn từ của trẻ cũng phong phú hơn ví dụ: Trò chơi Chi chi chành chành Dung dăng dung dẻ Chi chi chành chành Dung dăng dung dẻ Cái đanh thổi lửa Dắt trẻ đi chơi Con ngựa đứt cương. Đến cổng nhà trời Ba vương ngũ đế Lạy cậu lạy mợ Chấp chế đi tìm Cho cháu về quê Ù à …ù ập Cho dê đi học Đóng sập cửa … vào… Cho cóc ở nhà Cho gà bới bếp Xì xà xì xụp Ngồi thụp xuống đây. [6 ] * Trò chơi: “Chi chi chành chành” Cách chơi: Cho 1 nhóm trẻ ngồi thành vòng tròn cô chơi cùng với trẻ, trẻ xòe tay trái ngửa lên trên. Dùng ngón tay trỏ phải của mình chấm vào lòng bàn tay trái theo nhịp đọc của bài đồng giao. Khi đọc đến câu cuối, cô và trẻ đọc chậm rồi bất ngờ bàn tay trái nắm lại, giữ lấy ngón tay trỏ (Cũng có khi ngón tay của trẻ nhấc lên nhanh hơn, bàn tay trái nắm lại không kịp). Hình ảnh cô cùng trẻ đang chơi trò chơi chi chi chành chành *Trò chơi “dung dăng dung dẻ” Cô giáo và trẻ dắt nhau đi thành vòng tròn ở ngoài sân vừa đi vừa đọc lời thơ. Đọc đến câu cuối “xì xà xì xụp, ngồi thụp xuống đây”, cô và trẻ cùng ngồi thụp xuống. Sau đó trò chơi lặp lại. 15 Hình ảnh cô cùng trẻ đang chơi trò chơi dung dăng dung dẻ Qua những trò chơi này, mục đích là trẻ biết kết hợp hành động, lời thơ để kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ nghệ thuật trầm bổng, ngắt giọng đúng nhịp. Trong quá trình chơi, tôi đều kích thích trẻ đọc các bài thơ, ca dao, đồng giao để luyện phát âm cho trẻ * Trò chơi học tập: “Cái gì? Dùng để làm gì?” - Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ nhận biết được một số đồ dùng quen thuộc và biết tác dụng của những đồ chơi từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển : - Chuẩn bị: + Đồ dùng để ăn uống (Bát , thìa, cốc , ca…) + Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ…) + Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau. - Tiến hành: Cô hỏi trẻ trả lời: + Cái bát dùng để làm gì?(Cái bát đựng cơm) + Cái cốc dùng để làm gì? (Dùng để uống nước) + Cái mũ để làm gì?(Cái mũ để đội) + Cái áo để làm gì? (Cái áo để mặc) Với trẻ nhà trẻ chỉ chơi trò chơi đơn giản như vậy thôi nhưng trẻ rất hứng thú nhất là khi cô hỏi xong cô lại đưa đáp án bằng vật thật ra mà hình ảnh lại đẹp, sinh động. Sau đó cho trẻ nhắc lại 1-2 lần để cung cấp, củng cố kiến thức ngôn ngữ cho trẻ Kết quả: Sau khi thường xuyên tổ chức cho trẻ chơi những trò chơi này thì ngôn ngữ và tư duy của trẻ phát triển nhanh hẳn lên, trẻ mạnh dạn, tự tin không còn nhút nhát như giai đoạn đầu, đạt 16/17 trẻ = 94% 2.3.6. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động đón trẻ, giờ ngủ trưa, hoạt động trả trẻ. 16 * Hoạt động đón trẻ: Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ. Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: + Gia đình con có những ai? (Trẻ kể ) + Trong gia đình ai yêu con nhất? + Buổi sáng ai đưa con đến lớp? + Bố con đưa đi bằng phương tiện gì? - Sau mỗi câu trả lời của trẻ cô bổ sung và cho trẻ nhắc lại 1- 2 lần để kích thích ngôn ngữ của trẻ phát triển - Ngoài ra trong hoạt động đón, trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố, mẹ, như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn, bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời. Kết quả: Trẻ biết chào cô, chào ông bà, bố mẹ khi ra về, lời nói rõ ràng mạch lạc 17/17 cháu = 100% * Ở giờ ngủ trưa Trước khi cho trẻ ngủ cô có thể cho trẻ nằm xuống và đọc cho trẻ nghe về 1 số bài thơ, đồng dao ca dao hay những câu chuyện có nội dung nhẹ nhàng hoặc cô có thể hát ru những bài dân ca, bài hát mang tính chất du dương gần gũi với trẻ để trẻ cảm nhận được vần điệu của các bài thơ đó. Khi trẻ ngủ dậy cô tổ chức 1 trò chơi dân gian gì đó gây hứng thú cho trẻ mà trẻ vừa đọc lời vừa chơi trò chơi qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc và làm phong phú vốn từ cho trẻ. * Hoạt động trả trẻ: - Trong góc vận động của lớp tôi đã sử dụng những chiếc vòng thể dục màu xanh, đỏ, để chơi trò chơi “lái ô tô” . Khi trẻ chơi với vòng tôi sử dụng hệ thống câu hỏi để giúp ngôn ngữ của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn: + Đây là cái gì? (Cái vòng) + Vòng này có màu gì? (Màu đỏ) + Vòng này có màu gì? (Màu xanh ) + Vòng để làm gì? (để học, để chơi trò chơi ạ) + Con sẽ chơi gì với chiếc vòng? (Con lái ô tô) Kết quả: Trẻ phân biệt được màu xanh, đỏ, vàng qua các giờ học 16/17 cháu = 94%. 2.3.7: Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ: - Để vốn từ của trẻ phát triển tốt không thể thiếu được đó là sự đóng góp của gia đình. Việc giáo dục trẻ ở gia đình là rất cần thiết tôi luôn kết hợp chặt 17 chẽ với phụ huynh trao đổi thống nhất về cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và kế hoạch lịch sinh hoạt dạy học cho từng tháng, từng tuần cho phụ huynh nắm bắt được. - Vì đây là trẻ nhà trẻ, trẻ bắt đầu tập nói tôi trao đổi với phụ huynh về ý nghĩa phát triển vốn từ cho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hàng ngày phụ huynh phải dành nhiều thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ. - Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ rất hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô giáo trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm , sửa ngọng. - Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ, truyện có chữ, hình ảnh to, rõ nét , nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho trẻ làm quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp. - Sau khi phối hợp với phụ huynh một thời gian tôi thấy vốn từ của trẻ được phát triển khá rõ,đặc biệt nói ngọng cũng giảm đi đáng kể, trẻ phát âm chuẩn, rõ ràng và hoạt động một cách sôi nổi, tự tin giao tiếp trước mọi người không còn rụt rè, nhút nhát.Tôi thấy thực hiện được biện pháp này khoa học và hợp lý mang lại hiệu quả rất cao. Kết quả: Trẻ nói ngọng giảm đi đáng kể, trẻ phát âm chuẩn, rõ ràng 15/17 cháu = 88%. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường và với trẻ. * Đối với hoạt động giáo dục: sau khi áp dụng “Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24- 36 tháng đạt hiệu quả tại trường Mầm Non Nga Thắng - Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa” tôi thu được 1 kết quả khá khả quan so với kết quả khảo sát ban đầu tôi khảo sát: Phụ lục 2: Bảng khảo sát kết quả trên trẻ của lớp cuối năm học: Tổng số trẻ 17 Nội dung Kết quả Đạt Chưa đạt Khả năng nghe hiểu 16 trẻ = 94% 1trẻ = 6% Khả năng nói mạch lạc, đầy đủ câu 16 trẻ = 94% 1 trẻ = 6% Khả năng phát âm rõ lời 15 = 88% 2 =12% Khả năng diễn đạt ngôn ngữ giao tiếp 15 =88% 2 =12% 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan