Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 4 tuổi thông qua hoạt động k...

Tài liệu Skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 4 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện ở trường mn hưng lộc

.DOC
24
9
99

Mô tả:

MỤC LỤC NỘI DUNG………………………………………………………………..Trang 1. MỞ ĐẦU…………………………………………………………….…….....1 1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………..……..1 1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………...………...2 1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………….2 1.4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................2 2. NỘI DUNG......................................................................................................3 2.1. Cơ sở lý luận…………………………………………………………….......3 2.2. Thực trạng vấn đề……………………………………………………...........4 2.3. Các biện pháp thực hiện….………………………..……………………......5 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm…………………………….…….......18 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………………...........19 3.1. Kết luận……………………………………………………………………19 3.2. Kiến nghị………………………………………………………………….20 Tài liệu tham khảo……………………………………………………………… Danh mục…………………………………………………………………….…. Phụ lục…………………………………………………………………………... 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài: Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên, là nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có ích cho xã hội. Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí thức, có khoa học có tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giầu mơ ước và sáng tạo. Những phẩm chất ấy con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của toàn xã hội. Trẻ em hôm nay là những công dân của thế giới ngày mai, việc bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ là trách nhiệm của mỗi gia đình và của toàn xã hội. Đã từ lâu cộng đồng nhân loại đã nhận thức được điều đó và đi tới những biện pháp hữu hiệu để chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới, chương trình giáo dục trẻ mầm non, trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động phù hợp đối với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một cách chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm: “Học bằng chơi - Chơi mà học” Nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện về mọi mặt: “Đức - Trí - Thể - Mỹ - lao động” . Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ em mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng đặc biệt không thể thiếu được. Thông qua ngôn ngữ, lời nói của người lớn, trẻ làm quen với sự vật, hiện tượng và hiểu những đặc điểm, tính chất, cấu tạo, công dụng của các sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và học được từ tương ứng. Ngôn ngữ giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh. Từ ngữ giúp cho việc củng cố những biểu tượng đã được hình thành. Ngoài ra, ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp, nhất là đối với trẻ nhỏ thì đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình với các thành viên trong cộng đồng điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người. Đặc biệt đối với hoạt động kể chuyện là mô ̣t trong những hoạt động giúp trẻ làm quen thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ nghê ̣ thuâ ̣t, nó ảnh hưởng không nhỏ đến tâm hồn trí tuê ̣ và tình cảm ngây thơ của trẻ. Sự nhạy cảm về lời hay ý đẹp trong tác phẩm văn học, đă ̣c biê ̣t là phát triển ngôn ngữ . Thông qua các câu chuyện trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị 1 cho trẻ những hiểu biết về những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống. Thông qua kể chuyện rèn cho trẻ khả năng nghe, làm quen với ngôn ngữ, qua trao đổi đàm thoại với trẻ giúp trẻ phát âm ro ràng mạch lạc, khả năng ghi nhớ ngôn ngữ, hoàn cảnh. Thông qua kể chuyện giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, phát triển óc tưởng tượng, sáng tạo, biết yêu cái đẹp, đó là đô ̣ng lực thúc đẩy trẻ tham gia vào các hoạt đô ̣ng. Bộ môn văn học nói chung và văn học trẻ em nói riêng là kho tang văn học quý báu được khai thai không ngừng, phục vụ cho việc bồi dưỡng tâm hồn. Đặc biệt là các tác phẩm thơ, truyện dành cho trẻ mầm non với hình tượng gần gũi, ngôn ngữ phù hợp với nhận thức của trẻ được áp dụng theo từng lứa tuổi. Đã từng bước chắp cánh cho trẻ vươn tới bao ước mơ, bao điều tốt đẹp Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động kể chuyện và tình hình thực tế ở trường, lớp là giáo viên trực tiếp đứng lớp mẫu giáo 3 - 4 tuổi trong quá trình dạy trẻ hoạt động với văn học. Tôi rất băn khoăn, trăn trở, suy nghĩ là mình phải làm thế nào để những câu chuyện của cô đạt được những tác dụng về mọi mặt, mọi nội dung như mong muốn, khai thác được hết tác dụng trong mỗi câu chuyện để trẻ có thể lĩnh hội và cảm nhận hết được cái hay, cái đẹp trong mỗi câu truyện góp phần vào việc giáo dục đạo đức và hoàn thiện nhân cách trẻ. Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi, thông qua hoạt động kể chuyện ở trường mầm non Hưng Lộc” 1.2. Mục đích nghiên cứu Tìm ra những phương pháp hữu hiệu nhất nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi qua việc tổ chức cho trẻ chơi, qua tranh ảnh… giúp trẻ kể chuyện một cách diễn cảm và góp phần phát triển nhân cách của trẻ. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi. Trường Mầm non Hưng lộc. 1.4. Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm. + Phương pháp đàm thoại: Là phương pháp dùng lời nói và sử dụng hệ thống câu hỏi (Là sự trao đổi giữa cô và trẻ), cô hỏi, trẻ trả lời, từ đó giúp trẻ nhớ sâu hơn các nội dung của câu chuyện. + Phương pháp quan sát, phương pháp trực quan: Là phương pháp nhằm giúp trẻ quan sát các sự vật hiện tượng một cách trực tiếp, từ đó giúp trẻ ghi nhớ lâu hơn + Phương pháp khảo sát thực tế: Là phương pháp tác động trực tiếp vào các đối tượng để thấy được khả năng của đối tượng, từ đó giúp con người nghiên cứu có ý tưởng và sáng tạo hơn. + Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Là phương pháp điều tra khảo sát, quan sát thực tế, thu thập thông tin. 2 + Phương pháp xử lý thống kê, sử lý số liệu: Là sử dụng phương pháp toán để đánh giá kết quả tổng hợp những kinh nghiệm giảng dạy, từ đó rút ra những quy luật, hình thành và phát tiển của đề tài nghiên cứu. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận Văn học nói chung và kể chuyện cho trẻ 3 - 4 tuổi nói riêng là một hoạt động rất quan trọng đối với trẻ trong độ tuổi này, là một phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn tả mạch lạc, biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ làm quen với từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, tượng thanh. Giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập sáng tạo trong suy nghĩ. Vậy làm thế nào để cho trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua chuyện kể? Từ những vẻ đẹp nhỏ nhặt thường ngày trong cư xử mà nảy sinh ra những hành động cao thượng, nhân ái vì con người. Những tác phẩm văn học thông qua kể chuyện cho trẻ mầm non có ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục đến phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trẻ cảm nhận được thế giới các loài vật, cỏ cây hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ xung quanh trẻ mà trẻ nhìn thấy được cũng như những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ như: Làng quê, cánh đồng, dòng sông, khu phố, lớp học... Thông qua hoạt động kể chuyện trẻ bắt đầu nhận ra trong xã hội những mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn, tình cô và trẻ…Trẻ cũng dần nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với nhau trong lịch sử đấu tranh cách mạng, trong tình làng nghĩa xóm. Câu chuyện có thể cần đề cặp đến những lực lượng siêu nhân như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy, quỷ sứ và cả những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là đối tượng miêu tả của các tác phẩm chuyện làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần. Thông qua hoạt động kể chuyện là một chỉnh thể nghệ thuật, cần giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân vật; giữa lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngôn ngữ nhân vật, giữa không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm chuyện và hành động của các nhân vật trong chuyện. Chưa yêu cầu trẻ phải nhớ hết mối quan hệ phức tạp và chưa đòi hỏi trẻ phân biệt quan hệ chính phụ trong truyện mà chỉ nhằm giúp trẻ nhận ra tính liên tục của cốt truyện trong các mối liên quan đến nhân vật trung tâm của tác phẩm. Vậy, để trẻ cảm thụ tốt được điều đó mỗi giáo viên phải cố gắng trong chăm sóc giáo dục trẻ để đưa ra những phương pháp, biện pháp giáo dục trẻ phù hợp theo chương trình giáo dục mầm non hiện nay. Từ đó tôi nhận thấy rằng hoạt động làm quen với những câu chuyện có tầm quan trọng trong việc phát triển nhận thức, ý tưởng tình cảm của trẻ và qua cách kể chuyện giúp trẻ làm giàu vốn từ, rèn luyện khả năng phát âm và cách diễn đạt mạch lạc. Các tác phẩm chuyện chỉ có thể phát huy tác dụng của nó khi giáo viên biết chuyển tải được tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm chuyện thông qua hình thức nghệ thuật hấp dẫn, phong phú, đa dạng. Qua đó, giúp trẻ 3 khả năng ghi nhớ có chủ đích, những tình cảm qua các câu chuyện một cách tích cực. Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó nên dạy trẻ làm quen văn học nói chung và dạy trẻ kể chuyện nói riêng là rất quan trọng trong việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non. 2.2. Thực trạng vấn đề * Thuận lợi - Năm học 2018 - 2019, tôi được ban giám hiệu nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 3 - 4 tuổi B1 với tổng số là 27 cháu. - Lớp học được phân chia theo đúng độ tuổi nên thuận lợi cho việc rèn luyện và chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. - Là giáo viện trực tiếp đứng lớp, với sĩ số 27 trẻ, nhìn chung các cháu đều khỏe mạnh, nhanh nhẹn, hoạt bát, nên tôi nắm vững khả năng ngôn ngữ và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nhất là trẻ 3 - 4 trẻ - Bên cạnh đó nhà trường có đội ngũ cán bộ giáo viên có năng lực chuyên môn vững vàng, yêu nghề mến trẻ, luôn đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của nhà trường. Những năm học gần đây trường không những thu hút con em trong xã mà còn thu hút được trẻ ở các xã lân cận. - Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức cũng như năng lực chuyên môn cho giáo viên, thường xuyên xây dựng, tổ chức tiết mẫu, tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo chủ đề, để giáo viên được dự giờ, trao đổi những kinh nghiệm về chuyên môn và các đồng chí đồng nghiệp. - Được sự quan tâm của Đảng ủy, UBND và các bậc phụ huynh đã xây dựng ngôi trường hai tầng với khuôn viên sạch đẹp, khang trang, lớp học có tương đối đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động của trẻ. Đa số phụ huynh quan tâm đưa trẻ đến trường đúng độ tuổi, chăm sóc giáo dục trẻ theo khoa học, thực hiện tốt công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường và đa số rẻ có nề nếp thói quen trong sinh hoạt cũng như học tập, tích cực tham gia vào các hoạt động . * Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trương cũng gặp không ít khó khăn như: - Đồ dùng, đồ chơi tương đối đầy đủ, nhưng đang con hạn chế về đồ dùng phục vụ tiết dạy còn thiếu như vật mẫu, đồ dùng đồ chơi ít, máy chiếu ít. - Do một số trẻ sinh vào cuối năm nên tư duy của trẻ còn hạn chế, một số trẻ phát âm chưa được chuẩn, chưa mạch lạc, chưa ro ràng nhiều khi thiếu chính xác. Mặt khác, trẻ còn phát âm sai, nói ngọng, nói lắp, hoặc đọc sai đọc sai do ảnh hưởng ngôn ngữ tiếng địa phương và người lớn xung quanh trẻ. - Hưng lộc là một xã đông dân, kinh tế tuy nhiều thành phần nhưng vần còn nghèo, vì thế bố mẹ các cháu phải đi làm ăn xa, nên đa phần trẻ phải ở nhà với ông bà, các cháu ít được tiếp xúc với môi trường bên ngoài. Chính vì thế vần con 1 số cháu đang còn rụt rè, nhút nhát. Đây cũng là một trong những nguyên nhân, làm hạn chế việc phát triển ngôn ngữ của trẻ, thông qua việc cho trẻ làm quen tác phẩm văn học đặc biết đối với thể loại kể chuyện 4 Từ những khó khăn trên là một giáo viên chủ nhiệm lớp 3 - 4 tuổi, đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát trẻ lớp tôi với số trẻ là 27 cháu, về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ qua làm quen với tác phẩm văn học thông qua thể loại kể chuyện. Cụ thể cho thấy như sau: * Kết quả khảo sát của thực trạng: Để có được các biện pháp giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ phù hợp, hiệu quả tôi tiến hành khảo sát đánh giá thực trạng ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi mà tôi đang phụ trách kết quả như sau : Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng. B Nội dung khảo sát Trẻ hứng thú tham gia hoạt động. Khả năng nghe, hiểu, trả lời nội dung chuyện. Trẻ nói ro ràng, mạch lạc, vốn từ của trẻ. Trẻ tham gia kể chuyện, đóng kịch. Tổng số trẻ 27 Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu Tốt Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 4 14 5 18 15 55 3 11 0 0 27 4 14 6 22 14 51 3 11 0 0 27 3 11 5 18 15 55 4 14 0 0 27 5 18 6 22 13 48 3 11 0 0 Từ bảng khảo sát thực trạng tôi thấy kết quả trên trẻ còn rất hạn chế. Các tiêu chí đánh giá chung của hoạt động “Kể chuyện” chưa cao. Vì vậy tôi đã đi sâu vào nghiên cứu rút ra một số nguyên nhân như sau: * Nguyên nhân: + Đối với giáo viên: - Trang thiết bị đồ dùng phục vụ cho tiết dạy chưa khoa học thẩm mỹ, chưa sinh động và còn thiếu so với quy định. - Môi trường cho trẻ hoạt động (nhất là môi trường mở) cón nhiều hạn chế, hình thức chưa thu hút được nhiều trẻ tham gia hoạt động. + Đối với trẻ: - Trẻ còn nói tiếng địa phương nhiều, trẻ còn nói ngọng, nói lắp, chưa phát âm chuẩn nên gặp nhiều khó khăn khi kể lại chuyện. - Số trẻ trong lớp vẫn chưa đồng đều về chất lượng, số ít cháu còn nhút nhát và quá hiếu động. - Một số trẻ còn chưa hứng thú khi tham gia vào hoạt động kể chuyện. - Trẻ chưa mạnh dạn trong giao tiếp, do trẻ được nuông chiều thái quá… + Đối với phụ huynh - Một số phụ huynh nuông chiều trẻ, hay nậng trẻ theo tiếng địa phương. - Phụ huynh vẫn đang còn thờ ơ trong việc học của trẻ 2.3. Các biện pháp thực hiện * Biện pháp 1: Xây dựng nề nếp, thói quen cho trẻ. Ngay từ ngày đầu vào năm học tôi đã chú trọng đến việc xây dựng nề nếp và thói quen cho trẻ. Một số trẻ ở trong lớp rất hiếu động, hay nói chuyện riêng trong giờ học, tôi xếp những cháu nghịch ngồi cạnh những cháu ngoan. Luyện 5 cho trẻ những thói quen ngồi ngoan, chú ý, hứng thú trong giờ học, tạo cho trẻ cảm giác tự tin không sợ sệt, tạo không khí vui vẻ mạnh dạn khi phát biểu ý kiến. Hơn nữa trong giờ hoạt động tôi luôn luôn nhắc nhở trẻ luôn chú ý đến tư thế ngồi của trẻ, biết lắng nghe cô giáo khi đang giảng bài từ đó trẻ mới tập trung vào hoạt động và đạt được kết quả cao. Việc đưa trẻ vào các hoạt động và thông qua hoạt động để giáo dục trẻ ở mọi lúc, mọi nơi là một biện pháp tốt: Các hoạt động đón trả trẻ hàng ngày, hoạt động chơi tập, lao động vệ sinh…Đều là những dịp để trẻ bộc lộ cá tính cách ứng xử lời ăn tiếng nói của mình vì thế tôi luôn gần gũi để kịp thời phát hiện và uốn nắn những sai sót của trẻ trong hành vi, lời nói theo những tiêu chí của chuyên đề lễ giáo quy định. Giáo dục lễ giáo cho trẻ thường xuyên mọi lúc, mọi nơi là một trong những biện pháp chủ yếu đem lại những kết quả cao trong khả năng giao tiếp của trẻ. Chính vì thế tôi rất coi trọng đến việc tạo nề nếp thói quen cho trẻ và tôi đã thực sự thành công khi tổ chức hoạt động cho trẻ. Ví dụ: Trong lớp ngoài những trẻ ngoan, nghe lời cô giáo còn có một số trẻ rất hiếu động, hay nghịch không chú ý học bài thì bên cạnh việc khen ngợi những bạn ngoan ra tôi đặc biệt chú trọng việc tuyên dương đối với trẻ hay có thói quen nghịch như: Trong giờ học nếu trẻ đó ngoan giơ tay phát biểu bài dù là chưa đúng nhưng tôi vẫn động viên, khuyến khích trẻ bằng việc cho cả lớp tuyên dương trẻ một tràng pháo tay thật to. Hay cuối buổi học khi nêu gương, cắm cờ bé ngoan tôi nêu tên trẻ đó trước nếu hôm nay trẻ đó ngoan và cho trẻ đó lên cắm cờ bé ngoan trước. Chiều khi bố, mẹ trẻ đến đón tôi kể cho bố, mẹ trẻ nghe về những việc tốt hôm nay ở lớp của trẻ. Từ đó trẻ thấy thích thú khi được mọi người khen và trẻ sẽ ngoan hơn, chú ý hơn, tập trung trong giờ học. Qua việc xây dựng nề nếp thói quen cho trẻ, trẻ ngoan hơn và có thói quen nề nếp tốt hơn. * Biện pháp 2. Tạo môi trường cho trẻ hoạt động kể chuyện. Môi trường học tập cho trẻ góp phần tạo nên sự thành công trong công việc giáo dục trẻ làm quen với các hoạt động, các tác phẩm chuyện để trẻ đến với nội dung tác phẩm chuyện một cách nhanh nhạy, linh hoạt bởi hoạt động chủ đạo đối với nhà trẻ là hoạt động vui chơi, với chương trình giáo dục mầm non các góc mở được trang trí theo chủ đề, tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ khả năng, qua đó cung cấp, kỹ năng, thái độ cho trẻ, góp phần hình thành và phát triển khả năng kể chuyện cho trẻ tốt hơn. Mặt khác tôi luôn lồng ghép và tạo môi trường theo từng chủ đề. Ví dụ: Ở chủ đề “Trường mầm non” Đề tài chuyện“Đôi bạn tốt” Tôi trang trí tranh ảnh những con vật ngộ nghĩnh như: Con vịt, con gà...để cho trẻ hiểu được nội dung của chủ đề. Từ đó sẽ gây được hứng thú cho trẻ vào hoạt động kể chuyện. Ví dụ: Ở chủ đề “Thực vật - Tết và mùa xuân” Đề tài “Mùa xuân đã về”. Tôi đã cùng trẻ trang trí ở các góc cho nổi bật chủ đề đặc biệt các góc “kể chuyện cùng họa my” tôi trang trí tranh, ảnh sách báo có hình ảnh về các loại hoa như: Hoa đào, hoa mai, hoa cúc... 6 Với việc linh hoạt lồng ghép các hoạt động đã kích thích trẻ tự tìm hiểu, phát hiện ra các chức năng sử dụng đồ dùng, đồ chơi, tránh sự đơn điệu, nhàm chán, tạo cho trẻ sự hấp dẫn mới lạ, giúp cho trẻ dễ tiếp thu bài học. Các mảng tường trống cũng được tận dụng để trang trí phù hợp với chủ đề bé học, từ đó trẻ có thể nhận biết các hoạt động của bé ở trường qua các mảng tường trang trí của cô. Các sản phẩm của bé được trưng bày đó là một sự khích lệ với trẻ động viên để trẻ phấn đấu cố gắng trong các hoạt động. Tạo cho trẻ cảm nhận được “ Đi học là hạnh phúc và mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, làm cho trẻ thêm yêu trường, yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung đó chính là trách nhiệm của mỗi thày cô giáo nói chung và giáo viên mầm non nói riêng. Việc trang trí lớp học sao cho tự nhiên, biến không gian lớp học trở nên gần gũi, thân thiện có ý nghĩa giáo dục cho trẻ là việc làm không phải dễ. Bởi vậy tôi đã “ trang trí kết hợp giữa làm đẹp cảnh quan lớp học với yêu cầu phục vụ học tập của trẻ lớp mình”. Như vậy việc tạo cảnh quan thân thiện đối với trẻ giúp trẻ học tập một cách gần gũi thân thiện có tác dụng giúp trẻ đạt được các mục tiêu giáo dục. Và điều quan trọng hơn cả, thông qua việc cùng nhau trang trí lớp học hầu hết trẻ đều rất yêu thích đến trường vì nó đem lại cho trẻ nhiều điều bổ ích, như được bày tỏ những điều mình mong muốn, được trưng bày những sản phẩm mà mình đã làm ra và được làm chủ lớp học của mình. Qua đó giáo dục trẻ về các mối quan hệ khác nhau. Với cách làm này tôi thấy trẻ hứng thú vào hoạt động kể chuyện một cách sội động và hứng thú hơn. * Biện pháp 3 : Chuẩn bị nguyên vật liệu, cách làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng trực quan. Đối với trẻ 3 - 4 tuổi đặc điểm của trẻ là nhận thức từ trực quan đến trìu tượng cho nên nếu không có trực quan thì trẻ khó tưởng tượng được. Mặt khác, sự chú ý của trẻ còn phân tán chưa bền vững, đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn sẽ thu hút sự tập trung chú ý của trẻ hơn. Vì vậy, để giờ học đạt kết quả cao thì hình tượng trực quan là rất quan trọng đối với trẻ, lời nói cụ thể và có hình ảnh trực quan minh họa của giáo viên giúp trẻ cảm nhận được tác phẩm văn học một cách dễ hiểu nhất. Đồ dùng trực quan có thể là tranh ảnh, rối rệt, mô hình, sa bàn, vật thật, sân khấu… Để làm được đồ dùng trực quan phù hợp, sinh động trước tiên tôi chú ý đến: - Chuẩn bị nguyên vật liệu. Trẻ mầm non, tri giác của trẻ phần lớn bằng những vật thật và bằng tranh ảnh, để giờ kể chuyện đạt hiệu quả cao hơn thì đồ dùng trực quan là khâu quan trọng nhất. Chính vì thế sau khi nắm bắt được tình hình thực tế của hoạt động làm quen với tác phẩm văn học thông qua kể chuyện, tôi nghĩ để có đồ dùng đẹp, sinh động, hấp dẫn đối với trẻ thì nguyên vật liệu là điều đầu tiên cần phải có. Vì thế tôi đã tận dụng các nguyên liệu vật liệu có sẵn ở địa phương như: ống lon, chai nhựa, sách báo, xốp, vải vụn, cành cây khô, quần áo cũ, xốp, len, hạt đậu…để tạo ra đồ chơi phục vụ cho tiết dạy. 7 - Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn (Không có cạnh sắc nhọn) và vệ sinh cho trẻ (Không có bụi bẩn) - Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu chuyện, phía dưới có chữ to giúp cho việc phát triển từ của trẻ được thuận lợi. - Đồ vật thật có liên quan đến câu chuyện. - Cho trẻ xem các hình ảnh trên máy chiếu cũng góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ, kết hợp với tổ chức trò chuyện, đàm thoại. Ví dụ: Chủ đề: “Trường mầm non” kể cho trẻ nghe câu chuyện “Đôi bạn tốt” - Tôi chuẩn bị sa bàn, tranh ảnh để trẻ được quan sát. Với cách sử dụng linh hoạt, sáng tạo giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động nhằm phát triển vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Chủ đề: “Thế giới động vật” kể cho trẻ nghe cậu chuyện “Dê con nhanh trí” - Cô chuẩn bị: Chú dê làm bằng rối vải để trẻ quan sát - Với cách này cô đưa chú dê rối vải ra cho trẻ quan sát và hỏi trẻ đây là con gì, Sau đó dẫn dắt vào bài. Ví dụ: Chủ đề: “Thực vật – tết và mùa xuân” khi kể chuyện “Củ cải trắng” - Chuẩn bị: Máy chiếu có chưa nội dung và hình ảnh các nhận vật trong chuyện Với cách sử dụng bằng máy chiếu tôi tạo cho trẻ được sự lôi cuốn và ghi nhớ các nhân vật được nhanh hơn. - Cách làm đồ dùng phục vụ dạy và học Dựa vào từng chủ đề tôi làm đồ dùng đồ chơi phù hợp với chủ đề đó và mỗi chủ đề có một bộ đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui chơi tôi cho các trẻ vào hoạt động chơi để tạo ra những đồ chơi làm bằng lá cây, giấy vụn, hột hạt, vẽ và tô màu những bức tranh, những hình ảnh trẻ sưu tầm gợi mở cho trẻ tưởng tượng khi kể chuyện. - Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy, tôi hướng trẻ làm ra những con dối thật xinh xắn từ những câu chuyện cổ tích mà trẻ học được, sáng tạo ra những nhân vật mà trẻ yêu thích. Ví dụ: Chủ đề “Trường mầm non” khi kể chuyện “Đôi bạn nhỏ” tôi đã làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo từ những quả bóng và những mảnh vải vụn để thành những con rối đẹp như: Rối gà, rối vịt... để phục vụ cho câu chuyện . - Khi kể chuyện tôi dùng những tranh ảnh màu sắc đẹp để gây hứng thú cho trẻ nghe, xem để trẻ biết cách sử dụng và giữ gìn đồ chơi. - Tôi sử dụng các nguyên vật liệu mở như: thanh tre, bìa cứng, gỗ, hộp xốp, đất nặn... để làm thành những con vật xinh xắn, trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo ý thích. Ảnh 1: Cô làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ hoạt động kể chuyện Ngoài ra có những câu chuyện tôi sử dụng bằng mô hình và sa bàn, tôi còn chuẩn bị thêm sân khấu để biểu diễn, giao lưu kể chuyện. Tôi làm những con giống bằng vải vụn và bông cũ để phục vụ cho hoạt động kể chuyện, tôi còn khuyến khích, hướng dẫn để trẻ cùng làm với cô để tạo thành các nhân vật trong câu chuyện, bằng các trai lọ phế thải hay bằng bìa cứng, xốp, hột hạt… tôi đã V 8 hướng dẫn cho trẻ để trẻ cùng cô sáng tạo làm ra được những mô hình đẹp, sinh động, hấp dẫn gây được sự chú ý của trẻ vào giờ học, để giờ học mang lại kết quả cao hơn. Ảnh 2: Cô hướng dẫn trẻ cùng làm đồ dùng đồ chơi Từ những hình thức trẻ tôi đã lôi cuốn trẻ vào được tiết học và nhằm giúp trẻ nhớ các nhân vật trong câu chuyện qua đồ chơi được nhanh hơn, khi nhìn các con rối trẻ có thể liên tưởng được đó là nhân vật nào trong câu chuyện nào. - Cách sử dụng đồ dùng trực quan. + Đối với trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi đồ dùng trực quan là phương tiện không thể thiếu, bởi đồ dùng trực quan là phương tiện hữu hiệu để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Vì vậy mà cô phải chuẩn bị chu đáo đồ dùng trực quan trước khi dạy trẻ, đồ dùng trực quan đó là: (Vật thật, đồ chơi, tranh ảnh, máy chiếu, mô hình… ) Chuẩn bị các đồ vật đa dạng, đặc biệt các đồ vật gần gũi, đồ chơi có màu sắc, hình dạng phong phú, hấp dẫn đảm bảo tính khoa học, thẩm mỹ và an toàn. + Khi sử dụng đồ dùng trực quan cần sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, có thể sử dụng khi giới thiệu bài hoặc giảng giải nội dung, trích dẫn làm ro ý và kết hợp với lời nói minh họa phù hợp. Ví dụ: Chủ đề: “Bản thân” Đề tài chuyện “Ngôi nhà ngọt ngào” Tôi sử dụng mô hình ngôi nhà làm bắng xốp và bánh kẹo thật trrang trí xung quanh để dẫn dắc vào bài sau đó tôi sử dụng sa bàn chuyện. Khi sử dụng sa bàn tôi kể đến nhân vật nào thì tôi đưa từng nhân vật đó ra để giới thiệu dẫn dắt trẻ chú ý và lôi cuốn trẻ theo trình tự nội dung cốt chuyện, từ đó gây sự hứng thú cho trẻ trong khi học. Song với hình thức tổ chức hiện nay, thời đại công nghệ tiên tiến. Việc sử dụng màn hình, máy chiếu cũng là một hình thức sử dụng trực quan đồng thời cũng là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giờ hoạt động. Thông qua những cảnh quay, đoạn băng được dàn dựng, hay những thước phim hoạt hình đưa lên màn hình sẽ tạo ra sự thay đổi, sự mới lạ cho trẻ. Những hình ảnh được đưa lên diễn tả các hoạt động của các nhân vật, cảnh vật xung quanh của cốt chuyện rất sống động, màu sắc đẹp, của hình ảnh đã lôi cuốn trẻ, giúp trẻ hứng thú tích cực tham gia vào hoạt động kể chuyện và ghi nhớ tên chuyện, tên tác giả, nội dung cốt chuyện. Ví dụ: Chủ đề: “Phương tiện giao thông” Khi dạy trẻ câu chuyện “Xe lu và xe ca” tôi đã xây dựng hình ảnh về con đường có các loại phương tiện giao thông để trẻ quan sát và đàm thoại về nội dung câu chuyện, qua hình ảnh từ máy chiếu trẻ rất hứng thú vào hoạt động và dễ nhớ nội dung cốt chuyện. Tôi sử dụng máy tính có thể linh hoạt di chuyển các hình ảnh có sẵn của nội dung câu chuyện tới trẻ, hay ta có thể đưa hình ảnh đã quay sẵn phù hợp với nội dung câu chuyện như thế rất thu hút và gây hưng thú hơn cho trẻ. Ảnh 3: Cô sử dụng cong nghệ thong tin vào giờ kể chuyện Với hoạt động làm và sử dụng đồ dùng trực quan tôi đã nhận biết được tầm quan trọng trong tổ chức các hoạt động cho trẻ, mà đặc biệt là hoạt động kể chuyện. Chính vì thế tôi đã chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan và sử dụng một 9 cách linh hoạt, nên đã đạt được hiệu quả cao. Qua đó trẻ hiểu nhớ được tên và hành động của nhân vật. * Biện pháp 4: Rèn luyện giọng đọc, giọng kể hấp dẫn và diễn cảm, xây dựng hệ thống câu hỏi đa dạng, phát triển được tư duy sáng tạo ở trẻ Thực tế đã chứng minh cho ta thấy một câu chuyện hay, một bài thơ hay khi đưa đến người đọc có hấp dẫn không một phần phụ thuộc vào giọng đọc của người thể hiện nó. Với trẻ nhà trẻ cũng vậy, muốn trẻ hứng thú, tập trung vào nghe truyện trước hết cô phải kể diễn cảm, kể hay. Vì vậy tôi đã rèn luyện giọng kể bằng một số biện pháp sau: - Xác định đặc trưng cơ bản giọng của từng nhân vật: Thông thường, giọng của nhân vật nhỏ tuổi thường cao, trong, nhịp điệu thanh. Giọng của người già trầm ấm, nhỏ hơn, nhịp điệu chậm. Ngữ điệu của lời dẫn chuyện đều đều, thong thả. Lời dẫn chuyện trong các câu chuyện cổ tích thường kéo dài, âm phát ra từ cổ họng và vòm họng, đưa người nghe về thế giới huyền bí xa xưa. Mặt khác thông qua kể chuyện là một kho tàng kiến thức không thể thiếu được trong mọi hoạt động và giao tiếp của trẻ. Vì tất cả chúng ta đều hiểu biết và giao tiếp bằng ngôn ngữ. Thông qua những câu chuyện mà cô đọc và kể cho trẻ nghe để diễn tả được nội dung của tác phẩm mà cô muốn truyền đạt. Vì vậy, việc sử dụng ngôn ngữ đọc, kể diễn cảm, có sức thu hút, lôi cuốn trẻ say mê với tác phẩm văn học, giúp trẻ nhớ lâu, nhớ sâu tác phẩm. Đối với hoạt động kể chuyện để giúp trẻ cảm thụ tác phẩm chuyện và đạt kết quả tốt nhất. Khi cô kể phải thể hiện được vai của từng nhân vật trong chuyện, từ nhân vật trong chuyện để khi truyền thụ đến trẻ hấp dẫn, thu hút trẻ vào giờ học mà trẻ không bị nhàm chán. Khi thực hiện một hoạt động kể chuyện phải nói nhẹ nhàng, tình cảm, dễ nghe và chuẩn tiếng phổ thông. Để giọng kể được tốt hơn tôi đã luyện bằng cách: Mỗi buổi sáng, sau khi thức dậy, tôi thường luyện thanh quản bằng một một đoạn chuyện kết hợp với việc chuẩn bị đến trường mà không ảnh hưởng đến thời gian của mình. Biện pháp đó vừa giúp tôi luyện được giọng của mình lại vừa giúp tôi nhớ và thuộc câu chuyện đó một cách nhanh hơn. Để thực hiện được sắc thái tình cảm nhân vật, tôi tập thể hiện bằng ánh mắt theo từng nhân vật. Ngoài ra, tôi có thể luyện tập bằng cách soi gương để thể hiện cử chỉ điệu bộ, rèn ngữ điệu nhân vật sao cho phù hợp. Cũng có một cách để ta luyện giọng đó là ta lắng nghe chương trình “Kể chuyện đêm khuya” trên rađio hay các chương trình trên ti vi. Khi chúng ta nghe các nghệ sĩ kể truyện chúng ta chú ý đến giọng điệu cơ bản của tác phẩm văn học, ngữ điệu, cách ngắt giọng, nhịp điệu cường điệu của âm thanh ngôn ngữ để chúng ta học cách đọc, kể diễn cảm các tác phẩm chuyện. Ví dụ: Khi tôi kể cho trẻ nghe đề tài: chuyện “Chú Dê đen”. Cô thể hiện nhân vật chú Dê đen dũng cảm, giọng kể mạch lạc, ro ràng đanh thép, nét mặt hiên ngang. Chó sói giọng ồm ồm, to quát tháo Dê trắng, nét mặt chó sói dữ tợn. Dê trắng với tính cách nhút nhát thì giọng cô rụt rè, run run, nét mặt biểu lộ sự sợ hãi. 10 - Xây dựng hệ thống câu hỏi đa dạng, phát triển tư duy sáng tạo ở trẻ. Câu hỏi cô đưa ra sao cho đa dạng, hệ thống câu hỏi mở có tính kích thích, tư duy với trẻ. Tránh đặt những câu hỏi chỉ trả lời có hoặc không, hoặc chỉ trả lời kết quả đơn giản. Vì vậy tôi đã chuẩn bị hệ thống câu hỏi trước, câu hỏi đặt ra chính xác, phù hợp nội dung chuyện, dễ hiểu đối với trẻ. Ví dụ: Chủ đề “Bản thân”. Khi kể cho trẻ nghe câu chuyện "Ngôi nhà ngọt ngào" Tôi có chuẩn bị hệ thống câu hỏi như sau: + Các con vừa được nghe cô kể câu chuyện gì? + Trong câu chuyện có những nhân vật nào? + Bạn Hoa vµ b¹n Cường ®i vµo c«ng viªn chơi, hai bạn đã nh×n thÊy g×? + Hai bạn không thích ăn cơm, không thích ăn rau, mà hai bạn chỉ thích ăn gì? + Sau khi ăn xong hai bạn vác cái bụng lặc lè ra về thì bị làm sao? Đề nhiều cháu được trả lời, tôi chọn cùng một nội dung hỏi nhưng hỏi bằng nhiều cách khác nhau nhằm giúp trẻ làm quen với cách đặt câu hỏi và mở rộng hiểu biết về ngữ, nghĩa của câu. Khi tổ chức đàm thoại, để nhiều trẻ trong lớp được trả lời, quá trình trẻ trả lời đó chính là cơ hội để ngôn ngữ của trẻ phát triển, đồng thời kích thích trẻ suy nghĩ và tìm phương án và dần hình thành cho trẻ có nề nếp, ý thức học tập. Vì vậy trong đàm thoại, tôi luôn cho trẻ nhắc lại đáp án. Xong ở nhiều dạng khác nhau, tránh ngữ điệu, nhịp điệu trong lớp đều đều. - Tạo tình huống để trẻ đặt câu hỏi ngược lại cô. - Đối với trẻ 3 - 4 tuổi, việc đặt câu hỏi ngược lại là vấn đề khó với trẻ, xong tôi suy nghĩ cần tạo ra tình huống để trẻ hỏi, quá trình trẻ hỏi cô cũng là hình thức trẻ tập nói, rèn khả năng tư duy, hình thành cách đặt câu và tư duy logic ở trẻ. Bằng cách hướng dẫn như vậy nên trẻ được tập nói nhiều, cô luôn luôn tạo tình huống để trẻ tư duy và tìm phương án trả lời cô, như vậy trẻ đã sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt. Từ đó, vốn ngôn ngữ của trẻ phong phú hơn. Từ những biện pháp tự rèn luyện bản thân tôi thấy đã mang lại hiệu quả rất cao trong giờ dạy kể chuyện tôi thấy trẻ hứng thú nghe cô kể chuyện và tích cực đàm thoại nội dung câu chuyện. Trong tất cả các tác phẩm chuyện mà tôi định đưa ra cho trẻ cảm nhận tôi luôn xác định chuẩn giọng đọc, giọng kể cho câu chuyện, giọng đặc trưng cho từng nhân vật, từng tình huống trong chuyện. Và khi kể, đọc cho trẻ nghe hay khi đã hướng dẫn trẻ đọc, kể tôi cố gắng giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong giọng kể, lời thuật, phân biệt ngữ điệu lời nói các loại nhân vật, giúp trẻ nhận ra ngôn ngữ đời thường (khẩu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Qua tác phẩn chuyện, trẻ quen dần tính chất nhiều ý nghĩa và tinh luyện của ngôn ngữ văn hoá, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ nghĩa văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đạt. Qua biện pháp này, tôi thấy trẻ rất hứng thú, tích cực tham gia hoạt động . * Biện pháp 5: Linh hoạt sáng tạo trong tổ chức hoạt động kể chuyện. Thông qua việc nắm chắc phương pháp dạy các hoạt động nói chung và hoạt động “phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện” nói riêng tôi luôn tham khảo thêm nhiều tài liệu và nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy, chuẩn bị lời nói và soạn giáo án trước khi lên lớp một cách khoa học có lô gic, kết hợp 11 giữa đồ dùng trực quan tranh ảnh, vật thật có màu sắc đẹp, chất liệu bền, với các cử chỉ âu yếm gần gũi, lời nói nhẹ nhàng, phát âm chuẩn, chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu, sát thực với nội dung của từng bài, từng đề tài. Và đặc biệt tôi đã sử dụng các biện pháp, các thủ thuật khác nhau một cách linh hoạt, sáng tạo giúp trẻ hứng thú trong các hoạt động đạt hiệu quả cao. Ví dụ 1: Chủ đề: “Trường mầm non” Đề tài chuyện: “Đôi bạn nhỏ”. - Mục đích: Trẻ nhớ tên chuyện, các nhân vật trong chuyện, trẻ hiểu nội dung chuyện. - Chuẩn bị: Máy chiếu, sa bàn - Cách tiến hành: + Cho trẻ khám phá món quà: Tôi đưa ra hộp quà có bạn gà và bạn vịt + Tôi đưa ra từng con vật và hỏi trẻ + Con gì đây? (Con gà) + Còn đây là con gì? (Con vịt) À đúng rồi. đây là bạn gà và bạn vịt đấy, hôm nay cô cũng có một câu chuyện nói về đôi bạn gà và vịt đấy! để biết câu chuyện như thế nào cả lớp cùng lắng nghe cô kể nhé! - Cô kể lần 1: Hỏi trẻ tên câu chuyện, tên tác giả. + Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì? Của tác giả nào ? - Cô kể ần 2: (kể kết hợp trình chiếu babol). Giảng nội dung, giảng từ khó. - Lần 3: (Tôi kể kết hợp sa bàn). Đàm thoại nội dung; Giáo dục trẻ. - Kết thúc cho trẻ chơi trò chơi. “Một con vịt”. Qua đó phát triển khả năng phát âm và phát triển vốn từ và trẻ hứng thú tham gia hoạt động. Ảnh 4: Trẻ lên khám phá món quà Ví dụ 2: Chủ đề “Bản thân” đề tài “Ngôi nhà ngọt ngào” - Mục đích: Trẻ nhớ tên chuyện, tên các nhân vật trong chuyện, trẻ hiểu nội dung truyện. - Chuẩn bị: Tranh vẽ nội dung chuyện, mô hình ngôi nhà ngọt ngào. - Cách tiến hành: Cho trẻ đi thăm quan mô hình ngôi nhà. + Trong ngôi nhà ngọt ngào có những gì? (Bánh kẹo, ...) Cô cũng có câu chuyện nói về ngôi nhà ngọt ngào được làm từ rất nhiều nguyên liệu như: sô cô la, bánh kẹo đấy, để biết nội dung câu chuyện như thế nào, bây giờ các con hãy ngồi ngoan và lắng nghe cô kể nhé! - Cô kể lần 1: Hỏi tên câu chuyện, tên tác giả + Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì? Của tác giả nào? - Cô kể lần 2: (kể kết hợp tranh minh họa). Giảng nội dung, từ khó. + Trong câu chuyện có những nhân vật nào? (Trẻ kể) + Bạn Hoa và bạn cường đã phát hiện ra ngôi nhà ngọt ngào ở đâu? + Ngôi nhà ngọt ngào được làm từ nguyên liệu gì? - Lần 3: Hưởng ứng trẻ kể chuyện theo tranh chữ to cùng cô. - Kết thúc cô cho trẻ chơi trò chơi “Bóng tròn to” Ảnh 5: Cô kể chuyện kết hợp tranh minh họa 12 Ví dụ 3: Chủ đề “Thực vật – têt, mùa xuân” Đề tài: Chuyện: “Sự tích các loài hoa” - Mục đích: Trẻ nhớ tên chuyện, tên các nhân vật trong chuyện. Trẻ hiểu nội dung chuyện. - Chuẩn bị: Tranh vẽ có nội dung chuyện, sa bàn, mô hình vườn hoa, mũ các loài hoa - Cách tiến hành: Tôi cho trẻ hát bài hát “Màu hoa” + Các con vừa hát bài hát gì? (Màu hoa) + Trong bài hát nói đến những màu hoa gì? (Hoa tím, hoa vàng...) + Cô giáo cho các bạn đi đâu? (Đi thăm vườn hoa) Cũng có câu chuyện nói về những loài hoa có màu sắc rất đẹp, để biết được nội dung câu truyện như thế nào, bây giờ các con cùng lắng nghe cô kể nhé! - Cô kể lần 1: Hỏi trẻ tên câu chuyện, tên tác giả. + Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì? Của tác giả nào? - Cô kể lần 2: (kể chuyện kết hợp tranh minh họa). Giảng nội dung, từ khó. - Lần 3: Tôi kể chuyện kết hợp sa bàn. + Trong câu chuyện có những nhân vật nào? + Trong câu chuyện có những loại hoa nào? + Ai đã ban tặng cho cây cối các loài hoa? + Thần sắc đẹp đã ban tặng hương thơm cho những loại hoa nào? + Thần sắc đẹp không bạn tặng hương thơm cho cây hoa nào? Và cứ như thế tôi đàm thoại cùng trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Ví dụ 4: Chủ đề: “Thế giới động vật” Đề tài chuyện: “Cô vịt tốt bụng” - Mục đích: Trẻ nhớ tên chuyện, các nhân vật trong chuyện. Trẻ hiểu nội dung chuyện - Chuẩn bị: Máy chiếu, sa bàn. - Cách tiến hành: Cho trẻ mô phỏng tiếng kêu của vịt và gà... + Tôi hỏi trẻ bạn vừa làm tiếng kêu của con vật gì? + À bạn vừa làm tiếng kêu của con vịt đấy. Cô cũng có câu chuyện nói về bạn gà và vịt đấy, đó là câu chuyện “Cô vịt tốt bụng” của tác giả Minh Ánh, bây giờ các con hãy ngồi ngoan và lắng nghe cô kể nhé! - Cô kể lần 1: Hỏi tên chuyện và tên tác giả. + Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì? Của tác giả nào? - Cô kể lần 2: (Kể kết hợp trình chiếu babol). Giảng nội dung, từ khó. - Cô kể lần 3: Kết hợp sa bàn. + Đàm thoại nội dung, giáo dục trẻ. Qua cách sử dụng máy chiếu một cách linh hoạt, sáng tạo đã gây sự hứng thú cho trẻ, giúp trẻ nhớ nhân vật trong chuyện một cách nhanh hơn và đạt hiệu quả cao trong hoạt động kể chuyện. Ví dụ 5: Chủ đề “Phương tiện giao thông” đề tài chuyện “Vì sao thỏ cụt đuôi” 13 - Mục đích: Trẻ nhớ tên chuyện, các nhân vật trong chuyện. Trẻ hiểu nội dung chuyện - Chuẩn bị: Tranh có nội dung câu chuyện, sa bàn, con rối - Cách tiến hành: Gây hứng thú bằng cách tôi đưa con thỏ được làm bằng con rối cho trẻ quan sát. + Xin chào tất cả các bạn, các bạn có biết mình là ai không?(Bạn thỏ) Hôm nay mình sẽ mang đến tặng cho các bạn một câu chuyện nói về bạn thỏ vì không nghe lời bạn của mình mà tự ý băng qua đường, và để biết được nội dung câu chuyên như thế nào bây giờ các bạn hãy ngồi ngoan và lắng nghe mình kể câu chuyện “Vì sao thỏ cụt đuôi” - Cô kể lần 1: Hỏi trẻ tên chuyện, tên tác giả. + Minh vừa kể cho các bạn nghe câu chuyện gì? Của tác giả nào? - Cô kể lần 2: Tôi kể kết hợp tranh minh họa. Giảng nội dung, từ khó. - Cô kể lần 3: (Kết hợp sa bàn con rối), đàm thoại nội dung, giáo dục. Qua đó tôi giáo dục trẻ biết chấp hành luật an toàn giao thông, khi tham gia giao thông phải đi đúng phần đường của mình, khi đi phải đi bên tay phải, không được tự ý sang đường khi không có người lớn đi cùng. - Kết thúc cho trẻ chơi trò chơi “Lái ô tô” kết hợp trên nền nhạc bài hát "Em tập lái ô tô". Nhờ có tranh ảnh kết hợp với sử dụng rối. Nên tiết kể chuyện “Vì sao thỏ cụt đuôi”. Trẻ hứng thú, say mê nghe cô kể chuyện hơn, trẻ nhớ tên các nhân vật trong chuyện nhanh hơn, hiểu nội dung câu truyện sâu sắc hơn. Qua việc linh hoạt sáng tạo trong tổ chức hoạt động kể chuyện bằng nhiều hình thức khác nhau, tôi đã tạo cho trẻ hứng thú khi tham gia vào hoạt động và giúp trẻ hiểu nội dung, trả lời được các câu hỏi và nhớ nhân vật trong các tác phẩm truyện được nhanh hơn. * Biện pháp 6: Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm Đối với trẻ lứa tuổi mầm non hiện nay trong mọi hoạt động đã chuyển sang quan điểm “Lấy trẻ làm trung tâm” trong tất cả các hoạt động trẻ phải được coi là trung tâm cho mọi hoạt động giáo dục. Vì hoạt động “Lấy trẻ làm trung tâm” giúp trẻ hứng thú và linh hoạt tự giác trong mọi hoạt động giáo dục. Bởi mỗi trẻ là một cá thể riêng biệt, chúng khác nhau về thể chất và tâm lý. Do đó mỗi trẻ em có hứng thú, cách học và tốc độ học tập khác nhau và chúng đều có thể thành công. Trẻ học và chơi tốt nhất khi có người lớn hỗ trợ và mở rộng những gì mà trẻ đang hứng thú và thực hiện. Vì vậy với trẻ mầm non giờ học được tiến hành tổ chức và hướng dẫn của giáo viên nhằm giúp trẻ lĩnh hội các tri thức mới, đồng thời hình thành và rèn luyện kỹ năng nhận thức, kỹ năng xã hội. Để đạt được điều này, giáo viên cần nắm được sự hứng thú, nhu cầu, trình độ, khả năng của từng trẻ trên lớp. Trên cơ sở đó khi tổ chức hoạt động sẽ lựa chọn được nội dung, phương pháp phù hợp với từng nhóm, từng cá nhân trẻ. Để vận dụng được quan điểm “Lấy trẻ làm trug tâm” vào việc tổ chức hoạt động ở trường mầm non làm quen tác phẩm văn học thông qua kể chuyện. Ví dụ: Trong tiết dạy tôi lồng ghép tổ chức hội thi “Kể chuyện cùng họa my” Chủ đề “Thế giới động vật” Đề tài chuyện “Dê con nhanh trí”. Tôi hướng 14 trẻ vào buổi giao lưu, cô là người dẫn chương trình. Đến với buổi giao lưu hôm nay, cô xin gới thiệu gồm có 3 đội chơi đến từ lớp mẫu giáo 3 tuổi B1 và cho từng đội lên tự giới thiệu về đội mình bằng 1 câu vè hay câu ca dao, đồng dào nào đó. + Đội chơi thứ 1: Đội voi con + Đội chơi thư 2: Đội thỏ con. + Đội chơi thừ 3: Đội dê con. Và không thể thiếu được trong buổi giao lưu đó là thành phần ban giám khảo. Đến với buổi giao lưu, các đội chơi sẽ trải qua ba phần: Phần 1: Bé giới thiệu đội chơi Phần 2: Bé thi kể chuyện Phần 3: Quà tặng âm nhạc. Tôi hướng dẫn trẻ vào từng phần chơi, đối với phần thi thứ nhất trẻ tự đặt ra câu hỏi về đội mình để đội bạn trả lời. Một phút cho các tổ thảo luận với nhau để đưa ra câu trả lời. Đội nào trả lời câu hỏi đúng nhất sẽ nhận được một phần quà của chương trình. Sau khi thảo luận cô hướng dẫn trẻ thực hiện các phần thi còn lại. Qua biện pháp lấy trẻ làm trung tâm trẻ phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo và trẻ tích cực, hứng thú tham gia hoạt động hơn. *Biện pháp 7: Phát triển ngôn ngữ qua kể chuyên thông qua mọi lúc mọi nơi và các hoạt động khác. Làm quen với tác phẩm văn học đây là một hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ lời nói mạch lạc, ro ràng, nói đủ câu, vì vậy tôi luôn vận dụng ở mọi lúc mọi nơi để dạy trẻ, một phần để cũng cố kiến thức, phần khác để rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ. + Giờ đón trẻ: Với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 3 - 4 tuổi chóng nhớ, mau quên cô giáo cho trẻ xem tranh ảnh, đĩa hình về những câu truyện mà trẻ đã được học và những câu truyện trẻ chuẩn bị được làm quen. Từ đó gợi cho trẻ những hiểu biết về sự vật mà trẻ sắp được làm quen. Ví dụ: Chủ đề Gia đình. Tôi mở băng hình câu chuyện “Tích chu” cho trẻ xem và trò chuyện cùng trẻ: - Các con đang xem câu chuyện gì ? - Trong chuyện có những ai?... - Tích chu sống với ai? - Bà đã hóa thành con gì? - Tích chu đã làm gì để giúp bà trở lại thành người? + Giờ trả trẻ: Tôi thường kể lại cho trẻ nghe những câu chuyện trong chủ đề nhằm giúp trẻ nhớ lại các câu chuyện ngắn đơn giản và nhớ được tên các nhân vật trong các tác phẩm chuyện. + Giờ hoạt động ngoài trời: Trẻ được ngồi dưới tán cây nghe cô kể chuyện cổ tích, những câu chuyện gắn với cuộc sống hàng ngày của trẻ. + Qua hoạt động góc trẻ được tham gia chơi rất hồn nhiên mạnh dạn có thể chơi trò chơi “cô giáo” ở góc phân vai: Một cháu làm cô giáo dạy các cháu kể chuyện nhằm giúp trẻ nhớ lại trình tự câu chuyện 15 Ví dụ: Chơi về chủ đề “Thực vật – têt, mùa xuân” ở góc học tập xem sách chuyện tranh chữ to tạo cho trẻ cảm giác là trẻ có thể đọc được quyển chuyện đó hoặc có thể biết được quyển chuyện đó nói về cái gì? Trẻ có thể dựa vào chuyện để khám phá ra các nhân vật, chuyện tranh theo chủ đề. Trong quá trình trẻ hoạt động tôi đã quan sát trẻ hoạt động tôi nhận thấy rằng hoạt động góc đã thực sự lôi cuốn trẻ hoạt động sáng tạo tự tin, thả hồn của trẻ vào tác phẩm văn học hơn, lời nói của trẻ lại ro ràng và mạch lạc hơn. + Khám phá khoa học: Ở chủ đề “Gia đình”, đề tài “Gia đình bé”. Cô trò chuyện với trẻ về gia đình. Gia đình con có những ai? Có bao nhiêu người? Thuộc gia đình đông con hay ít con? Gia đình lớn hay gia đình nhỏ? Trong giờ học cô giáo dục trẻ yêu thương những người trong gia đình và biết giúp đỡ bố mẹ, ông bà. Qua các hoạt động khác tôi tích hợp cho trẻ làm quen văn học vào những lúc trò chuyện với trẻ theo đề tài. Đưa những câu chuyện bên cạnh việc cung cấp vốn từ cho trẻ còn giúp trẻ tìm hiểu về xung quanh. Hình thành cho tre tình cảm đối với con người, trong cuộc sống, giúp cho các giờ học sinh động hấp dẫn, tránh sự nhàm chán, trong giờ học chính trẻ lĩnh hội kiến thức dễ dàng. + Hoạt động âm nhạc: Ví dụ: Với chủ đề “Gia đình” qua đề tài: Dạy hát “Cháu yêu bà” tôi dẫn dắt trẻ hướng vào nội dung bài hát bằng cách kể tóm tắt câu chuyện “Tích chu” và trò chuyện qua về nội dung câu chuyện để trẻ có thêm các thành viên trong gia đình, rồi cho trẻ kể tên các thành viên trong gia đình bé trẻ. + Hoạt động tạo hình: Ví dụ: Với chủ đề “Thực vật – tết, mùa xuân” qua đề tài “Vẽ và tô màu rau củ quả mà bé thích” Trước khi cho trẻ quan sát vật mẫu tôi kể tóm tắt câu chuyện “Củ cải trắng” và trò chuyện qua về nội dung câu chuyện để trẻ có thêm kiến thức về loài rau, củ, quả thần kỳ rồi cho trẻ kể tên các loại rau, củ, quả mà trẻ biết. + Làm quen với toán: Khi dạy trẻ nhận biết nhóm có 3 đối tượng. Đếm đến 3 và nhận biết đến số 3. Tôi có thể hỏi trẻ trong câu chuyện “Dê con nhanh trí” Có mấy nhân vật, yêu cầu trẻ đếm các nhân vật để gây hứng thú vào bài. Qua các hoạt động tôi tích hợp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua kể chuyện, tôi thấy trẻ hứng thú phấn khởi khi đến giờ hoạt động và kết quả trên trẻ đạt hiệu quả cao hơn so với yêu cầu của giờ hoạt động. * Biện pháp 8. Tổ chức hội thi “Bé kể chuyện cùng họa my” qua ngày hội ngày lễ tổ chức tại lớp. Để thu hút, lôi cuốn trẻ vào giờ học tôi lựa chọn các hình thức tổ chức phù hợp, hấp dẫn như qua tổ chức hội thi “Bé kể chuyện cùng họa my”, tham quan và đặc biệt là chọn những hình ảnh thật, đẹp và những nhân vật ngộ nghĩnh sáng tạo đưa vào công nghệ thông tin để trẻ hòa nhập, hóa thân vào các nhân vật trong tác phẩm mà tôi lồng ghép được. Để rồi từ đó trẻ chăm chú xem, lắng nghe cô giới thiệu dẫn đến trẻ nắm bắt được nội dung hoạt động một cách chủ động. - Hoặc Tôi còn tổ chức “Hội thi”, “Bé kể chuyện cùng họa my” vào các ngày như: “Ngày hội bé đến trường 5/9”, “Ngày nhà giáo việt nam 20/11.”... 16 Ví dụ Lễ hội 8/3: “Cô giáo như mẹ hiền” Mỗi dịp 8/3 đến thì cô trò 3 - 4 tuổi ở trường Mầm Non Hưng Lộc do tôi phụ trách lại phấn khởi nhiều công việc chuẩn bị cho lễ hội. Việc chuẩn bị không phải diễn ra trong 1 ngày mà suốt 1 tuần với nhiều công việc như trang trí lớp, trang trí sân khấu, làm thiệp, vẽ, cắt, xé, dán tranh trang trí lớp, làm dây xúc xích, chuẩn bị nhạc cụ, vòng hoa đội đầu…và đối với trẻ thì cứ đến giờ chơi thì ai nấy đều hí hoáy với những sản phẩm của mình, của bạn, phụ giúp cô. Công việc tưởng chừng như nhỏ ấy lại tăng thêm niềm say mê, phấn khởi cho các bạn nhỏ gấp bội! Không chỉ được tự tay mình làm những sản phẩm có ý nghĩa để tặng cô, tặng bà, mẹ, mà trẻ còn được cô giáo trò chuyện, cho xem tranh, hình ảnh về ngày lễ hội 8/3; được cô giáo dạy cho hát múa, đọc thơ, kể chuyện, chơi những trò chơi có nội dung về ngày 8/3. Với sự chuẩn bị tích cực như vậy thì ngày 8/3 thực sự trở thành ngày hội, vui tươi và ý nghĩa đối với các thiên thần nhỏ trường Mầm Non Hưng Lộc. Đến với ngày hội này, các bé không còn rụt rè, ngại ngùng mà bạn nào cũng tự tin hát múa, kể chuyện, chơi đùa thể hiện hết khả năng của mình. Và đó chính là món quà quý giá nhất mà các bạn nhỏ dành tặng cô giáo, bà và mẹ trong ngày hội 8-3 này. Và sau mỗi hoạt động kể chuyện trong tuần tôi lại tổ chức cho trẻ kể chuyện cùng họa my và mời đại diện phụ huynh đến dự. - Cách tổ chức thi: Trang trí phông màn và ti vi có băng thể hiện nội dung câu chuyện để khắc sâu cho trẻ nhớ. - Mỗi trẻ thể hiện hay và được thưởng một món quà từ quỹ phụ huynh - Cô gợi ý cho trẻ kể diễn cảm đúng giọng điệu của nhân vật. - Tôi đã làm như vậy các cháu hứng thú hơn trong mỗi lần tổ chức hội thi kể chuyện và phụ huynh cũng quan tâm hơn. Qua tổ chức hội thi “Bé kể chuyện cùng họa my” tôi thấy trẻ đã phát huy được hết khả năng của mình. Đặc biệt tôi đã phát hiện ra những cháu có năng khiếu như trẻ biết kể chuyện diễn cảm hơn. *Biện pháp 9. Phối kết hợp với phụ huynh Sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường là biện pháp vô cùng cần thiết bởi ở lớp cô và trẻ hoạt động liên tục với nhiều nội dung đã được quy định của nghành nên không có nhiều thời gian dành cho việc rèn trẻ. Bởi vậy để giúp phụ huynh hiểu ro kiến thức phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện thì cần có sự hỗ trợ của phía nhà trường và gia đình trong việc rèn luyện trẻ được tốt hơn. - Làm bản tin về chương trình dạy theo chủ đề trong tuần để phụ huynh biết và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm cho trẻ khi ở nhà. - Tôi trao đổi và vận động phụ huynh cố gắng dành thời gian để tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói, khi trò chuyện với trẻ phải nói ro ràng mạch lạc, phát âm đúng câu đúng từ cho trẻ bắt chước. - Tôi trao đổi với phụ huynh khi giao tiếp với trẻ tránh không nên nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những ngôn ngữ không chính xác. 17 - Giáo viên thường xuyên trao đổi với phụ huynh vào giờ đón, trả trẻ: Động viên phụ huynh dành thời gian kể chuyện, đọc chuyện cho cháu nghe trước khi đi ngủ, lắng nghe trò chuyện với con giúp con phát triển ngôn ngữ được ro ràng, mạch lạc hơn. Từ đó nhận ra sự phát triển ngôn ngữ, tình cảm của trẻ như thế nào theo từng tháng. - Tuyên truyền dưới hình thức: Bảng tuyên truyền, thay đổi nội dung và hình thức phù hợp với từng chủ đề. Ví dụ: Chủ đề “Gia đình” trang trí góc lớp, bảng tuyên truyền với những hình ảnh về những người thân trong gia đình bé, những câu thơ, câu chuyện, bài hát... Với hình thức này giúp phụ huynh kịp thời nắm bắt được các tiết học, đồng thời tuyên truyền với phụ huynh về tham khảo thêm sách bào về những câu chuyện phù hợp với lứa tổi để kể cho trẻ nghe để từ đó trẻ có thêm những hiểu biết về nội dung của câu chuyện. - Đối với giáo viên cần có kế hoạc để bồi dưỡng những cháu còn yếu kém. Ngoài việc giảng dạy trên tiết học, tôi thường xuyên chia đối tượng khá, trung bình, yếu để luyện cho tường đối tượng theo khả năng ở mọi lúc mọi nơi. Ví dụ: Nhóm trẻ khá tôi luyện với khả năng cao hơn, cháu trung bình cho trẻ nhớ được các câu chuyện, thơ ngắn dễ nhớ, đối với cháu yếu cần luyện tập nhiều hơn về ngôn ngữ cho trẻ để trẻ nắm bắt được các cậu truyện và nhân vật trong chuyện cùng các bạn khá Đối với trẻ nhút nhát: Phối hợp với gia đình động viên trẻ về nhà hát, múa, kể chuyện cho ông, bà, bố, mẹ nghe. Đối với trẻ nói ngọng, nói lắp cô cho trẻ phát âm các từ khó nhiều lần, thường xuyên sửa và uốn nắn cho trẻ, và cô thường xuyên kể đi kể lại những câu chuyện ngắn dễ thuộc cho trẻ nghe sao cho trẻ kể chuyện cùng cô và các bạn. Để từ đó giúp cho trẻ có kỹ năng giao tiếp một cách tốt hơn, tự tin hơn trong mỗi giờ hoạt động - Tổ chức sinh hoạt văn nghệ cuối tuần và thông qua tổ chức sinh nhật, ngày hội, ngày lễ để trẻ có thể tự mình đứng lên kể chuyện hay đọc thơ, hát múa cho các bạn cùng nghe tạo được tính mạnh dạn, tự tin cho trẻ trước mỗi đám đông. Ảnh 6: Hình ảnh cô trao đổi với phụ huynh 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Bảng 2: Kết quả khảo sát sau khi áp dụng các biện pháp. Nội dung khảo sát Trẻ hứng thú tham gia hoạt động. Khả năng nghe, hiểu, trả lời nội dung chuyện. Trẻ nói ro ràng, mạch lạc. vốn từ của trẻ. Trẻ tham gia kể chuyện, đóng Tổng số trẻ 27 Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu Tốt Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 8 29 10 37 9 33 0 0 0 0 27 8 29 9 33 10 37 0 0 0 0 27 9 33 9 33 10 37 0 0 0 0 27 11 40 7 25 9 33 0 0 0 0 18 kịch. Nhìn vào bảng trên kết quả sau khi thực hiện áp dụng các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện ở trường mầm non Hưng Lộc - xã Hưng Lộc cho thấy: Số trẻ hiểu và tiếp thu bài tốt, khá được tăng lên ro rệt. Số cháu trung bình giảm, cháu yếu kém không còn. Số lượng trẻ hứng thú tham gia hoạt động kể chuyện tăng lên ro rệt. + Đối với bản thân: Có kỹ năng tạo được môi trường phong phú phù hợp với nội dung của từng chủ đề, có kỹ năng tổ chức tốt môi trường hoạt động văn học một cách tự tin và linh hoạt. Biết tìm tòi và sưu tầm sách báo, tranh ảnh phù hợp với từng chủ đề. Tích cực làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc dạy và học đặc biệt là hoạt động văn học mang tính thẩm mỹ và khoa học + Đối với đồng nghiệp: Với các đồng chí, đồng nghiệp có thể học hỏi đúc rút kinh nghiệm đưa vào hoạt động làm quen với tác phẩm văn học để ngày càng mang lại kết quả cao trong quá trình giảng dạy. + Đối với nhà trường: Sáng kiến kinh nghiệm được nhân rộng và được đồng nghiệp đúc rút kinh nghiệm đưa vào bài dạy để đạt được kết quả cao. Những biện pháp tôi đã áp dụng trong sáng kiến phù hợp với điều kiện của lớp tôi và nhà trường, địa phương. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận: Qua một thời gian nghiên cứu tài liệu, tìm tòi, học hỏi và qua việc thực hiện các phương pháp nói trên tôi tự rút ra bài học kinh nghiệm cho mình như sau: Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của trẻ, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước: - Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ để có biện pháp giáo dục phù hợp. Vận dụng các biện pháp giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đến trẻ cá biệt, luôn tạo ra niềm tin, sự hứng thú cho trẻ. - Phải luyện giọng đọc kể diễn cảm phối hợp với ánh mắt, cử chỉ điệu bộ minh họa phù hợp với nội dung tác phẩm chuyện. Nhằm thu hút sự chú ý tập trung của trẻ. - Biết lồng ghép các nội dung hợp lý trên các tiết học và hoạt động trong ngày một cách nhẹ nhàng không áp đặt trẻ. - Phải biết xử lý tốt các tình huống sư phạm, luôn tìm cách tạo hình huống cho trẻ để trẻ có cơ hội bộc lộ năng khiếu, tạo cơ hội để trẻ được thực hiện sở thích của mình. - Tạo cơ hội để trẻ được sửa sai những điều trẻ chưa thực hiện được. - Cần phát huy tính tích cực, thu hút sự chú ý và tạo hứng thú cho trẻ bằng các thủ thuật như trò chơi, câu đố, thơ, hát, hò, vè... - Sáng tạo làm nhiều đồ dùng, đồ chơi tự tạo đẹp, đảm bảo an toàn khi trẻ tiếp xúc, đảm bảo tính trực quan thẩm mĩ để giới thiệu các thủ pháp nghệ thuật 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan