Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ tự học cho học sinh lớp 11a1 ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ tự học cho học sinh lớp 11a1 – trường thpt dtnt ngọc lặc

.DOC
23
7
120

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT DTNT NGỌC LẶC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 11A1 TRƯỜNG THPT DTNT NGỌC LẶC Người thực hiện: Hoàng Thị Liên Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác Chủ nhiệm THANH HOÁ NĂM 2019 MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 1.1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1 1.2. Mục đích nghiê cứu.......................................................................................2 1.3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................2 1.4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................2 2. NỘI DUNG......................................................................................................3 2.1. Cơ sở lí luận...................................................................................................3 2.2. Thực trạng vấn đề..........................................................................................4 2.2.1. Về hoạt động dạy học ở trường THPT DTNT Ngọc Lặc...........................4 2.2.2. Thuận lợi.....................................................................................................5 2.2.3. Khó khăn ...................................................................................................5 2.3. Giải pháp tiến hành .......................................................................................8 2.3.1. Nâng cao nhận thức của học sinh về vai trò, ý nghĩa của tự học...............8 2.3.2. Bồi dưỡng động cơ tự học cho học sinh ....................................................9 2.3.3. Rèn kĩ năng tự học cho học sinh..............................................................10 2.3.4. Bồi dưỡng các phương pháp tự học cho học sinh ...................................12 2.3.5. Bồi dưỡng năng lực, khả năng tự quản của của tập thể lớp, của ban cán sự lớp.......................................................................................................................13 2.3.6. Phối hợp với giáo viên bộ môn không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực tự học của học sinh...............................................................................................................14 2.3.7. Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong nhà trường để quản lí tốt các giờ tự học của học sinh.......................................................................................15 2.3.8. Phát động các phong trào thi đua “học tốt”, “đôi bạn cùng tiến”, “học sinh nghèo vượt khó học giỏi”,… trong các hoạt động của lớp để kích thích năng lực tự học và tự khẳng định mình của học sinh........................................................15 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm...........................................................16 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................18 3.1 Kết luận....................................................................................................... 18 3.2. Kiến nghị.....................................................................................................18 3.2.1. Đối với Nhà trường..................................................................................18 3.2.2. Đối với giáo viên..................................................................................18… TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Để thích nghi với yêu cầu học tập ngày nay, giáo dục ngoài việc cung cấp kiến thức còn phải cung cấp cho học sinh kĩ năng tự học, tự chiếm lĩnh tri thức một cách chính quy và bài bản hơn. Các nhà nghiên cứu giáo dục cũng khẳng định tự học là con đường tối ưu để nâng cao tri thức, nhân cách của mỗi con người. Để tự học được tốt, chẳng những học sinh phải học tập chủ động, tự chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bằng cố gắng của chính mình mà người dạy phải quan tâm hàng đầu việc dạy cách học, chú trọng cá nhân hóa việc học, phát triển ở học sinh kĩ năng và năng lực học tập độc lập, hướng việc học có mục đích, có kế hoạch đặc biệt là biết cách điều chỉnh các hoạt động học tập để đạt hiệu quả. Trong quá trình dạy học, người học vừa là đối tượng tác động, lại vừa là chủ thể của quá trình đó. Bằng hoạt động học tập nói chung, hoạt động tự học nói riêng, người học tự hình thành và phát triển nhân cách của mình. Tác động của người dạy chỉ có thể được phát huy khi thông qua hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Bàn về vấn đề tự học, tự sáng tạo của học sinh, Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy, sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”. Trong khoản 2, Điều 5, chương I của Luật giáo dục nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2009) đã xác định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Thực tiễn cho thấy công tác dạy học ở các trường trung học phổ thông dân tộc nội trú Ngọc Lặc, tổ chức hoạt động tự học và quản lý hoạt động tự học có những đặc trưng riêng, mọi sinh hoạt và học tập của học sinh đều diễn ra trong khuôn viên của nhà trường nên công tác quản lý hoạt động tự học của học sinh được tập trung, đảm bảo thời gian tối đa cho hoạt động tự học. Tuy nhiên, việc quản lý hoạt động tự học của học sinh cũng gặp nhiều khó khăn hơn, đòi hỏi phải có những biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh một cách hệ thống, hiệu quả với sự phối hợp chặt chẽ từ Ban giám hiệu đến giáo viên và các lực lượng khác trong nhà trường. Trường THPT DTNT Ngọc Lặc được giao nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số của 11 huyện miền núi phía tây tỉnh Thanh Hóa, tạo nguồn cán bộ cho địa phương sau này. Để nâng cao chất lượng giáo dục, nhà trường xác định cần phải xây dựng, tổ chức và quản lý tốt hoạt động tự học của học sinh. 1 Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động tự học, trong quá trình làm tác chủ nhiệm, tôi luôn quan tâm đặc biệt đến hoạt động tự học cho học sinh và bước đầu đã thu được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được thì thực tế cho thấy hoạt động tự học của học sinh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, chưa thực sự có biện pháp giáo dục và quản lí hoạt động tự học của học sinh một cách phù hợp, do đó phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của lớp, của nhà trường. Nguyên nhân chủ yếu là do học sinh chưa có kỹ năng, phương pháp tự học một cách khoa học, hợp lý. Nhiều học sinh thực hiện tự học không đúng mục đích, còn học đối phó, ngủ gật hay nói chuyện, làm việc riêng,... Có nhiều biểu hiện yếu kém trong nhận thức, thái độ cũng như kỹ năng, phương pháp và năng lực tự học của học sinh. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên còn chậm, cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học thiếu, không đồng bộ… Từ thực tế trên, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ tự học cho học sinh lớp 11A1 – Trường THPT DTNT Ngọc Lặc” đây là vấn đề có tính chiến lược trong việc giáo dục năng lực tự học cho học sinh. Từ đề tài, tôi đưa ra một số giải pháp mà bản thân đã áp dụng trong năm học 2018- 2019, góp phần giải quyết một vấn đề có tính cấp thiết trong công tác chủ nhiệm lớp. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Đề xuất một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ tự học của học sinh. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Các biện pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng giờ tự học của học sinh lớp 11A1 trường THPT DTNT Ngọc Lặc. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Trong đề tài, tôi vận dụng phối hợp các nhóm phương pháp sau đây: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp sưu tầm và nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, tổng hợp và khái quát hóa các tài liệu. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, kết hợp với phương pháp quan sát, phương pháp tổng kết kinh nghiệm. Chủ yếu sử dụng xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp. - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Thống kê học lực, hạnh kiểm của học sinh trước và sau khi áp dụng đề tài. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận Nói đến học tập là nói đến hình thức dạy - học và tự học. Việc học phải đi đôi với việc dạy và việc dạy phải hướng đến người học, đó là quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh. Xét cho cùng, trong quá trình dạy học là giúp học sinh tự học để hoàn thiện và phát triển nhân cách của cá nhân nhằm đáp ứng với 2 các chuẩn mực và nhu cầu trong sự phát triển chung của thời đại. Tự học gắn với cuộc đời của mỗi con người. Một số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục đã đề cập đến vấn đề tự học dưới nhiều hình thức khác nhau. 2.1.1. Trên thế giới - Ngay từ thời cổ đại, Khổng Tử (551 - 479 TCN), Aristot là các nhà sư phạm kiệt xuất đã cho rằng: Dạy và học là phải trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh và đòi hỏi học sinh phải biết kết hợp với suy nghĩ, biết năng động trong học tập. Cần cố gắng gợi mở để học sinh tự học trong hoạt động học tập của mình. - Đến thời cận đại, nhà sư phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc J. A. Komenxky (1592-1670) đã khẳng định: “Không có khát vọng học tập thì không thể trở thành tài năng”. Năm 1657, ông đã hoàn thành tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ đại” trong đó nêu rõ: “Việc học hành, muốn trau dồi kiến thức vững chắc không thể làm một lần mà phải ôn đi ôn lại, có bài tập thường xuyên phù hợp với trình độ”. - Trong giai đoạn hiện đại, các nhà giáo dục học đi sâu nghiên cứu khoa học giáo dục và đã khẳng định vai trò to lớn của tự học. J.J.Rousseau (1712 - 1778) khi xây dựng quan điểm dạy học cũng cho rằng: “cần hướng cho học sinh tự nắm lấy kiến thức bằng cách tự tìm hiểu, tự khám phá, tự tìm tòi và sáng tạo,...” - Như vậy, tự học như là một phương thức để con người lĩnh hội tri thức của nhân loại. - Từ những thập niên 30 - 40 của thế kỷ XX, trong cuốn “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo” nhà sư phạm nổi tiếng Makiguchi cho rằng “Giáo dục xét như một quá trình hướng dẫn tự học, động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc của bản thân và của cộng đồng”. 2.1.2. Ở Việt Nam - Truyền thống hiếu học và tự học đã được khẳng định qua các vị khoa bảng như Nguyễn Du, Chu Văn An, Lê Quý Đôn... Các thế hệ cha ông chúng ta đã vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức bằng nổ lực học tập và tự học. - Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam là một tấm gương sáng về tinh thần tự học và tự rèn luyện. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, Bác Hồ đã căn dặn: “Về cách học, phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo thêm vào”. Tư tưởng của Người về giáo dục đã được vận dụng, quán triệt trong các Nghị quyết của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II – Ban Chấp hành Trung ương (BCH TW) Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Đổi mới phương pháp dạy học… nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học”, “Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên, rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên...”. - Khi phát biểu chỉ đạo đối với ngành giáo dục, Nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng Đỗ Mười đã nhấn mạnh: Tự học – tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi người trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau; đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam. Chất lượng và hiệu 3 quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. - Như vậy, từ lâu tự học đã được bàn luận và quan tâm của rất nhiều nhà khoa học, quản lý giáo dục. Có thể thấy, giáo dục tinh thần tự học cho các thế hệ học sinh là việc làm cấp thiết và có tác dụng to lớn. 2.2. Thực trạng vấn đề 2.2.1. Về hoạt động dạy học ở trường THPT DTNT Ngọc Lặc Cũng như các trường THPT khác, hoạt động dạy học ở trường trung học phổ thông dân tộc nội trú Ngọc Lặc được thực hiện theo chương trình giáo dục trung học phổ thông do Bộ giáo dục và đào tạo quy định. Trường THPT dân tộc nội trú Ngọc Lặc là trường chuyên biệt, là nơi tập trung học tập và sinh hoạt của học sinh người dân tộc thiểu số đến từ các xã, huyện trên địa bàn tỉnh. Học sinh thuộc nhiều dân tộc thiểu số khác nhau, mỗi dân tộc đều có tiếng nói, phong tục và những nét văn hóa riêng. Nói cách khác, đây là môi trường đa sắc tộc, đa ngôn ngữ. Mọi hoạt động như: Học tập, lao động và sinh hoạt hàng ngày đều diễn ra trong khuôn viên của nhà trường và nằm trong mối quan hệ tập thể. Thời gian dành cho các hoạt động học tập, văn nghệ-thể dục thể thao so với trường phổ thông nhiều hơn. Học sinh trường THPT DTNT Ngọc Lặc được học hai buổi trên ngày, ngoài tổ chức hoạt động dạy học chính khóa vào buổi sáng như các trường phổ thông khác thì học sinh còn được tổ chức học buổi hai vào các buổi chiều. Đó là những buổi học mở rộng, nâng cao kiến thức hoặc tự học của học sinh hoặc là các hoạt động ngoại khóa văn nghệ-thể dục thể thao. Ngoài hai buổi học trên, học sinh còn được tổ chức tự học tập trung tại các lớp học vào buổi tối. Vì vậy, hoạt động dạy học ở trường THPT DTNT cũng có những đặc trưng riêng. Hoạt động dạy học phải phù hợp với đặc điểm nhận thức và tâm sinh lý của học sinh dân tộc thiểu số. Với môi trường học tập tập trung như vậy nên hình thức tự học của học sinh trường trung học phổ thông dân tộc nội trú Ngọc Lặc rất đa dạng, phong phú, học sinh có thể tự học một mình, học trao đổi nhóm với bạn hay với giáo viên, học có giáo viên hướng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp. Do được tổ chức, quản lí của nhà trường nên thời gian dành cho hoạt động tự học được lên kế hoạch và sắp xếp một cách cố định. Đối với học sinh trường trường THPT DTNT Ngọc Lặc, thời gian học tập trong ngày được thực hiện theo quy định của nhà trường. Thời gian dành cho hoạt động học tập hàng ngày của học sinh được quy định: Giờ học chính khóa buổi sáng từ 7 giờ 00 đến 10 giờ 30, buổi chiều từ 14 giờ 00 đến 16 giờ 30 là giờ tự học hoặc tự học có sự hướng dẫn của giáo viên, giờ tự học buổi tối từ 19 giờ 30 đến 22 giờ. Như vậy, thời gian trong ngày dành cho nhiệm vụ học tập là khoảng 9 giờ. Trong đó khoảng 4 giờ dành cho học tập chính khoá theo chương trình, còn lại là thời gian dành cho tự học ngoài giờ lên lớp vào buổi chiều và buổi tối. 2.2.2. Thuận lợi 4 Trường THPT DTNT Ngọc Lặc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ có những điều kiện thuận lợi như sau: -Tuy mới thành lập được 2 năm nhưng Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo, động viên của cấp ủy chính quyền địa phương, sự giúp đỡ đầu tư, hướng dẫn chỉ đạo của Sở GD&ĐT Thanh Hóa; được cấp ủy chính quyền và nhân dân địa phương và các bậc cha mẹ học sinh tin tưởng, ủng hộ và tạo điều kiện cho nhà trường hoàn thành nhiệm vụ. - Đội ngũ giáo viên, nhân viên trong đơn vị trẻ, có trình độ chuyên môn đạt chuẩn, nhiệt tình, hăng hái vượt khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ; có niềm tin trong công việc, thương yêu học sinh. Thực hiện tốt các cuộc vận động, phong trào thi đua của ngành cũng như trường đề ra; năng động trong đổi mới phương pháp, có tinh thần cầu thị nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao chất lượng giáo dục. - Học sinh trong nhà trường với 95% là con em các dân tộc thiểu số, với bản tính hiền lành, thật thà chất phát. Có tinh thần khắc phục khó khăn, hiếu học và mong muốn tiến bộ. Không có học sinh mắc các tệ nạn xã hội; luôn vâng lời cha mẹ và thầy cô giáo. Đa số học sinh là con em dân tộc có tỷ lệ cao xếp loại đạo đức ở mức khá, tốt; chất lượng đánh giá xếp loại văn hóa khá ổn định Cơ sở vật chất của nhà trường đảm bảo đầy đủ cho việc tổ chức hoạt động dạy và học, các lớp học tập trung học chính hóa trong một ca, thời gian còn lại thuận lợi cho tổ chức các hoạt động phụ đạo học sinh yếu kém, hoạt động ngoại hóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề. Nhà công vụ đầy đủ đảm bảo cho cán bộ, giáo viên, nhân viên sinh hoạt và công tác; nhà trường có đầy đủ các phòng học bộ môn, phòng máy vi tính tạo điều kiện thuận lợi cho giảng dạy và học tập. Hệ thống thông tin được lắp đặt đảm bảo thuận tiện trong tiếp nhận thông tin và báo cáo. Môi trường xã hội của nhà trường thuần khiết, không chịu nhiều sự tác động của xã hội. Trong địa bàn không có các dịch vụ có ảnh hưởng xấu đến nhà trường như các trò chơi, các quán giải trí internet,... 2.2.3. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, hoạt động tự học trong nhà trường còn gặp những khó khăn sau đây: Hoạt động học tập đối với học sinh, về thái độ học tập số đông học sinh chưa xác định được động cơ học tập, chưa có được niềm tin trong học tập; với đặc điểm người dân tộc ít người, nhiều học sinh còn chưa mạnh dạn trong học tập và giao tiếp. Ý thức học tập trên lớp ở nhiều học sinh còn mang tính chất thụ động, việc hợp tác trong học tập chưa cao, hoạt động tương tác giữa thầy và trò chỉ dừng lại trong khuôn khổ nội dung tiết học. Đa số học sinh chưa có phương pháp học tập, việc thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà còn chưa đầy đủ, nhiều em thường xuyên không làm hết bài tập về nhà. 5 Thực tế cho thấy học sinh có thói quen ngày mai học môn gì thì hôm nay học môn đó, chứ chưa xếp lịch tự học hợp lí, không có mục đích đặt ra từ trước, không có ý chí tự mình phải khép vào khuôn khổ thực hiện việc học tập, thích thì học và không thích thì thôi. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng tự học của học sinh. Qua trao đổi với một số giáo viên, tôi thấy rằng việc sử dụng quỹ thời gian cho hoạt động tự học hiện nay là chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra trong qua trình đổi mới phương pháp dạy học. Việc dạy thêm, học thêm của một số bộ môn do nhiều nguyên nhân khác nhau đã lấy đi nhiều thời gian của các em, nên quỹ thời gian còn lại là rất ít chỉ đủ để xem lại lý thuyết bài cũ, bên cạnh đó thì một số em chỉ biết giải trí chơi đùa qua phim ảnh, internet... và có chăng tự học chỉ đủ để nhằm đối phó với kiểm tra và thi cử. Hoạt động giảng dạy của giáo viên, chủ yếu thực hiện giảng dạy nội dung bài học theo nội dung chương trình, thời gian học tập chủ yếu trên lớp học, kiến thức học tập chủ yếu là lý thuyết; phương pháp giảng dạy cứng nhắc thiếu linh hoạt, vai trò của người học chưa thật sự được chú trọng. Công tác chuẩn bị cho giảng dạy chưa được kỹ lưỡng, thiết bị và đồ dùng dạy học chưa được sử dụng một cách thường xuyên. Chưa tạo được sự hứng hởi trong học tập, các môn học chưa tạo ra sức hấp dẫn về kiến thức cho học sinh. Trong giờ lên lớp, giáo viên bộ môn đã tiến hành kiểm tra các nội dung tự học của học sinh qua kiểm tra việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới. Tuy nhiên, việc kiểm tra các nội dung tự học của học sinh trong giờ lên lớp chính khóa ở một số giáo viên, một số bộ môn chưa được tiến hành thường xuyên nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng của giờ tự học. Tài liệu tham khảo và sách bài tập còn ít, việc học bài chủ yếu dựa vào sách giáo hoa và tài liệu do giáo viên cung cấp. Việc học tập ngoài giờ học chưa được tập trung chú ý, việc học bài và làm bài ở nhà chưa được thực hiện một cách thường xuyên, phương pháp tự học chưa có kết quả học tập đạt yêu cầu ở mức độ thấp. Ngoài giờ lên lớp theo quy định, nhà trường lập kế hoạch phân công giáo viên, giáo vụ, cán bộ lớp, đội cờ đỏ và các đoàn thể kiểm tra các giờ tự học của học sinh. Nội dung kiểm tra bao gồm kiểm tra sĩ số, nền nếp học tập và nội dung học tập. Công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học của nhà trường được sự phối hợp giữa nhiều lực lượng, được tiến hành hàng ngày vào các buổi tự học của học sinh. Vì vậy, kết quả đánh giá hoạt động tự học mang tính khách quan, chính xác. Tuy nhiên, công tác kiểm tra đánh giá chất lượng hoạt động tự học của nhà trường còn hạn chế. Việc kiểm tra chưa đi sâu vào kiểm tra nội dung học tập, chưa đánh giá được nội dung tự học và mức độ hoàn thành các nội dung tự học, mà chủ yếu là kiểm tra sĩ số, kiểm tra việc chấp hành thời gian tự học. Đội ngũ cán bộ lớp chưa phát huy hết vai trò trong công tác quản lý điều hành lớp tự học. Vẫn còn tình trạng học sinh học đối phó, chạy lộn xộn, nói chuyện, 6 làm việc riêng, ngủ gật,… trong giờ tự học. Do vậy nhìn chung hiệu quả các giờ tự học chưa cao. Học sinh ngủ gật trong giờ tự học. Học sinh nói chuyện, ngồi chơi, làm việc riêng trong giờ tự học. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm về học lực và hạnh kiểm của học sinh lớp 11A1 như sau: Giỏi/Tốt Khá TB Yếu Sĩ số SL % SL % SL % SL % Học 30 1 3,33 16 53,33 13 43,34 0 0 lực Hạnh 30 25 83,3 5 16,67 0 0 0 0 kiểm 7 Qua bảng số liệu cho thấy số lượng học sinh có học lực trung bình còn cao, số học sinh có hạnh kiểm khá còn nhiều. Điều này chưa tương xứng với nội lực hiện có của lớp - Lớp 11A1 là lớp chọn ban A của trường. Nguyên nhân thì có nhiều, có thể kể tới là do hiệu quả giờ tự học của lớp chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của chương trình đề ra. Những tuần đầu năm học lớp thường xuyên xếp ở tốp cuối về mọi mặt. 2.3. Giải pháp tiến hành 2.3.1. Nâng cao nhận thức của học sinh về vai trò, ý nghĩa của tự học Nâng cao nhận thức cho học sinh về vai trò, ý nghĩa của tự học, kích thích niềm hứng thú, say mê tự học của học sinh; xây dựng bầu không khí học tập tích cực, tạo hứng thú học tập, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; Tôi phân tích, chỉ ra cho học sinh thấy được tự học có vai trò, ý nghĩa như sau: - Nắm chắc, hoàn thiện và hiểu sâu kiến thức. - Nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ, phát huy trí thông minh. - Mở rộng vốn hiểu biết, tự bổ sung kiến thức và phát triển toàn diện con người. - Phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo, tự giác trong học tập. - Nâng cao khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát. - Nâng cao khả năng vận dụng kiến thức vào bài tập, vào thực tế. - Nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập và có kết quả cao trong kiểm tra, thi cử. - Hình thành tính kỷ luật tự giác và rèn luyện phong cách làm việc khoa học. - Chuẩn bị những khả năng để học tập suốt đời. - Hình thành, biến đổi và phát triển nhân cách. Tôi tuyên truyền nâng cao nhận thức, giáo dục và bồi dưỡng động cơ tự học cho học sinh thông qua sinh hoạt lớp, các buổi giáo dục truyền thống về nhà trường, các hoạt động ngoại khóa. Nhờ vậy, các em đã thấy được tầm quan trọng của tự học và cả lớp cùng quyết tâm tự học hiệu quả. Học sinh lớp 11A1 quyết tâm học tập có hiệu quả trong giờ tự học.. 8 2.3.2. Bồi dưỡng động cơ tự h00ọc cho học sinh Động cơ tự học hay còn gọi là động lực tự học là những yếu tố tâm lý có tác dụng thúc đẩy chủ thể vượt qua khó khăn, trở ngại hoạt động học tập. Động cơ tự học giúp người học giải quyết được các nhiệm vụ học tập một cách chủ động. Trong hoạt động tự học của học sinh, động cơ học tập là một yếu tố không thể thiếu, nó có vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của học sinh. Động cơ tự học có nguồn gốc bên trong và bên ngoài. Nguồn gốc bên trong là bản thân học sinh có nhu cầu, ý chí vượt khó, nỗ lực để đạt được nhiệm vụ của hoạt động tự học một cách tự giác trên cơ sở mục tiêu của hoạt động tự học. Động cơ tự học có nguồn gốc bên ngoài bao gồm sự động viên, chia sẻ của thầy cô giáo và gia đình; việc đánh giá khách quan, công bằng của thầy cô đối với học sinh, môi trường và điều kiện cơ cở vật chất của lớp học… Ý thức được điều đó, tôi luôn gần gũi động viên, quan tâm, khích lệ đến từng thành viên trong lớp. Nắm bắt tâm tư tình cảm, nguyện vọng của học sinh. Giúp các em biết mình là ai, mình có những điểm mạnh, điểm yếu gì. Ước mơ sau này của em? Làm thế nào để em đạt được nó? Qua đó, tôi hình thành và bồi dưỡng động cơ tự học cho từng em. Tinh thần học tập của học sinh khi đã xác định được động cơ học tập. Biện pháp nâng cao nhận thức, giáo dục, bồi dưỡng động cơ tự học cho học sinh là biện pháp quan trọng hàng đầu đóng vai trò là nền tảng cho các biện pháp khác, bởi vì bản thân mỗi học sinh là một chủ thể của hoạt động nhận thức, do đó học sinh cần phải nêu cao tính tự giác, tích cực, chủ động tham gia vào hoạt động tự học thì mới mang lại hiệu quả cao trong học tập. Ngược lại, nếu học sinh không có nhận thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của hoạt động tự học sẽ dẫn tới động cơ học tập không rõ ràng, không có ý chí vươn lên thì chắc chắn kết quả sẽ không đạt được như mong muốn. 9 Như vậy, để nâng cao nhận thức, hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học sinh, ngoài việc làm cho bản thân học sinh phải tích cực, cố gắng thì các yếu tố khách quan khác cũng đóng vai trò rất quan trọng. Vai trò quan trọng nhất phải kể đến đó là giáo viên chủ nhiệm, người trực tiếp tham gia vào truyền thụ kiến thức và hướng dẫn học sinh kỹ năng, phương pháp tự học; việc bồi dưỡng kỹ năng, phương pháp tự học cho học sinh sẽ giúp học sinh tự học tốt hơn. Khi kết quả học tập của học sinh được nâng cao, nó sẽ tác động trở lại làm nảy sinh lòng ham hiểu biết, niềm say mê hứng thú tự học cho học sinh, từ đó kết quả học tập của học sinh ngày càng tốt hơn. 2.3.3. Rèn kĩ năng tự học cho học sinh Trong hoạt động tự học, việc xác định mục tiêu, xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan trọng là cần phải có hệ thống kỹ năng tự học. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi lẽ muốn có kết quả cao trong học tập trước hết học sinh phải có kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động, muốn nắm vững tri thức thì việc rèn luyện hệ thống kỹ năng tự học một cách thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chính kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong để học sinh biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và làm cho học sinh tự tin vào bản thân mình. Để đạt kết quả tốt trong tự học, học sinh cần rèn luyện để hình thành và nắm vững những kỹ năng nhất định. Kỹ năng tự học bao gồm: Kỹ năng lập kế hoạch tự học, kỹ năng tổ chức thực hiện kế hoạch tự học, kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động tự học. Ngoài ra, trong hoạt động tự học, học sinh cần hình thành các kỹ năng sống như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng chia sẻ,… Trong đó, các kỹ năng chủ yếu của hoạt động tự học có vai trò quan trọng, bao gồm: - Kỹ năng lập kế hoạch tự học: Đó là khả năng xây dựng một kế hoạch tự học khoa học, hợp lý trên cơ sở điều kiện hiện có, đáp ứng nhu cầu tự học cũng như yêu cầu của hoạt động học tập trong mối quan hệ với hoạt động dạy học. Kế hoạch tự học rất quan trọng nó giúp học sinh định hướng các nội dung trong học tập, nhưng qua thực tế cho thấy thường chỉ những học sinh có lực học khá, giỏi mới có kế hoạch tự học mà phần lớn các em cũng chỉ có kế hoạch học tập theo ngày. Còn lại phần lớn học sinh không có kế hoạch tự học, các em quan niệm kế hoạch tự học là thời khoá biểu, là thời gian tự học theo quy định của nhà trường hoặc ngoài giờ quy định và thực hiện thời khoá biểu. Chính vì nhận thức chưa được đầy đủ về ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của việc lập kế hoạch tự học, nên học sinh chưa có thái độ tích cực, tự giác, nghiêm túc trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học. Do đó, tôi đặc biệt quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh xây dựng và thực hiện kế hoạch tự 10 học. Trong quá trình lập kế hoạch tôi lưu ý cho học sinh phải chú ý một số điểm sau: - Thứ nhất, học sinh phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó có thể là kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho từng môn, từng phần. Kế hoạch phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình. - Thứ hai, khi lập kế hoạch, các em phải chọn đúng trọng tâm, cần xác định được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. - Kỹ năng tổ chức thực hiện kế hoạch tự học: Muốn thực hiện thành công kế hoạch mình đã tạo lập, học sinh cần có một số kỹ năng sau: + Tiếp cận thông tin: lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, làm thí nghiệm… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt. + Xử lí thông tin: việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình này có thể được tiến hành thông qua các kỹ năng ghi chép, phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh… + Vận dụng tri thức, thông tin: thể hiện qua việc vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình huống, viết bài thu hoạch… + Trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức thông qua các hình thức: thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức. - Kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động tự học: Đây là kỹ năng rất cần thiết để giúp người học biết tự kiểm tra mức độ chiếm lĩnh kiến thức của mình so mục tiêu và kế hoạch học tập đã đề ra, từ đó người học có thể điều chỉnh phương pháp học tập của mình cho phù hợp với những điều kiện hiện có. Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự đánh giá được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái gì mình chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, học sinh cần: - Tự trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa bằng cách xác định yêu cầu của câu hỏi, dự kiến câu trả lời, tái hiện các kiến thức liên quan, tập trình bày câu trả lời trước nhóm hoặc trước lớp để tìm ra chỗ sai từ đó khắc phục. - Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè. 11 - Làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm kiếm sau đó tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm… 2.3.4. Bồi dưỡng các phương pháp tự học cho học sinh Phương pháp tự học có một ý nghĩa hết sức quan trọng, vì phương pháp tự học có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập của học sinh. Muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tự học, đồng thời phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, đòi hỏi học sinh không những có mục đích, động cơ học tập đúng đắn mà phải có phương pháp tự học phù hợp với từng bộ môn. Có nhiều phương pháp tự học nhưng về cơ bản có thể kể đến một số phương pháp tự học mà được nhiều người học sử dụng và đem lại hiệu quả cao, như: - Phương pháp nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu học tập (ghi nhật ký, trích ghi, tóm tắt,...). - Phương pháp luyện tập. - Phương pháp ôn tập. - Phương pháp thảo luận nhóm. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp thí nghiệm, thực hành (đối với những môn khoa học tự nhiên-kỹ thuật). - Phương pháp tự đánh giá. Phương pháp thảo luận nhóm được học sinh thường xuyên sử dụng. Như vậy, muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tự học đòi hỏi học sinh phải có phương pháp tự học phù hợp. Biết kết hợp nhiều phương pháp tự học khác nhau. Có phương pháp tự học tốt sẽ giúp học sinh thực hiện được mục tiêu của học tập. Do đó, tôi tích cực hướng dẫn, bồi dưỡng phương pháp tự học cho học sinh trong các tiết sinh hoạt cuối tuần và cả các tiết học chính khóa. 12 Ngoài phương pháp tự học thì phương tiện, cơ sở vật chất như: Thiết bị đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo, phòng chức năng,...cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng hoạt động tự học của học sinh. 2.3.5. Bồi dưỡng năng lực, khả năng tự quản của của tập thể lớp, của ban cán sự lớp. Ngay từ ngày đầu, để xây dựng được đội ngũ cán bộ lớp năng động, nhiệt tình, trách nhiệm, tôi đã tham khảo tất cả học bạ của học sinh lớp mình chủ nhiệm, căn cứ vào nhận xét của giáo viên trong học bạ để tìm ra những học sinh có năng lực bầu vào từng vị trí cụ thể. Không chỉ thế, tôi để cho học sinh chủ động xung phong vào từng chức vụ mà các em có thể đảm nhiệm. Sau một thời gian, qua sự quan sát đối với từng học sinh, tôi sắp xếp lại đội ngũ cán bộ lớp phù hợp với năng lực, cá tính của học sinh. Tiếp theo, tôi tiến hành bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý lớp cho đội ngũ cán bộ lớp. Biến các em thành con chim đầu đàn trong mọi hoạt động của lớp. Từ đó các em có uy tín và tiếng nói với các thành viên trong lớp. Nhờ vậy mà công tác tự quản của ban cán sự lớp đạt hiệu quả cao. Đặc biệt tôi chú trọng đến việc xây dựng phong trào tự quản trong học sinh, hướng dẫn học sinh tự tiến hành kiểm tra, đánh giá theo các hình thức: Tự kiểm tra theo kế hoạch cá nhân, kiểm tra giữa các cá nhân trong bàn, trong tổ hay giữa các tổ trong lớp. Vì thế, từ chỗ tự học “đối phó”, các em đã có ý thức tự học tốt hơn, hiệu quả hơn. 2.3.6. Phối hợp với giáo viên bộ môn không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực tự học của học sinh. Để thúc đẩy phong trào tự học trong học sinh, tôi đã phối hợp với các giáo viên bộ môn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức, sự chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Một số phương pháp, biện pháp dạy học tích cực như: dạy học nêu và giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, hoạt động nhóm, dạy học dự án, phương pháp vấn đáp, phương pháp đóng vai… được chúng tôi sử dụng nhiều. Điểm cốt lõi của các phương pháp dạy học nêu trên - phương pháp dạy học tích cực - chính là hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào người dạy. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì chúng tôi phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp truyền thống giảng giải thụ động. Với vai trò người tổ chức, thiết kế, hướng dẫn học sinh trong hoạt động học tập, lao động sư phạm của người giáo viên là lao động đặc thù mang tính sáng tạo cao, quyết định chất lượng giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách cao đẹp của học sinh. Chúng tôi phải thường xuyên tìm hiểu, nghiên cứu, sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại kết hợp với phương pháp dạy học truyền thống một cách có nghệ thuật, phù hợp, đắc địa. Sức hấp dẫn của tri thức, vẻ đẹp của tri thức được khơi gợi lên, tạo hứng thú học tập cho học sinh chính là 13 nhờ ở nghệ thuật dạy học, ở phương pháp dạy học của giáo viên. Giờ dạy học trên lớp phải là giờ mà hoạt động học của học sinh được giáo viên thiết kế, tổ chức, kiểm tra, đánh giá một cách khoa học, phù hợp tạo cho các em có hứng thú học tập, có nhu cầu khám phá, phản biện và biết giải quyết vấn đề. Việc đổi mới phương pháp dạy học trên lớp của giáo viên sẽ thúc đẩy học sinh tự học, thông qua các câu hỏi, bài tập tự học mà giáo viên giao trong quá trình lên lớp, tự học ngoài giờ lên lớp sẽ tích cực hoá hoạt động học tập của người học, là tiền đề quan trọng thúc đẩy tính tự giác, tích cực tự học của học sinh. Để việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên được thuận lợi, đồng thời tạo điều kiện để học sinh tự học một cách tốt nhất thì cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học là vô cùng quan trọng. Thực tế đã cho thấy, không thể đổi mới phương pháp dạy học, cũng như nâng cao chất lượng học tập của học sinh khi không có sự hỗ trợ tích cực của cơ sở vật chất, các phương tiện, thiết bị dạy học. Vì vậy việc nâng cấp, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị để phục vụ cho dạy và học là hết sức quan trọng và cần thiết. Bên cạnh đó một yếu tố quan trọng nữa đó là công tác kiểm tra, đánh giá; đổi mới công tác kiểm tra đánh giá hoạt động tự học sẽ có tác dụng tích cực đối với hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động tự học của học sinh. Thông qua kiểm tra, đánh giá sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh hình thành động cơ, thái độ, thói quen, tinh thần trách nhiệm cao trong tự học, giúp học sinh cố gắng vươn lên. Đồng thời qua kiểm tra, đánh giá giúp chúng tôi có cơ hội kiểm nghiệm việc đổi mới phương pháp dạy học của mình, từ đó chúng tôi lựa chọn được phương pháp giảng dạy cho phù hợp với từng bài và phù hợp với đặc trưng của bộ môn. 2.3.7. Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong nhà trường để quản lí tốt các giờ tự học của học sinh. Bên cạnh làm tốt công tác tự quản của lớp, tôi luôn luôn chú ý đến việc phối hợp với giáo vụ, đoàn thanh niên, giáo viên trực an ninh, cờ đỏ để quản lí tốt các giờ tự học. Hàng ngày, tôi trao đổi với các lực lượng để lấy thông tin, kịp thời điều chỉnh những vấn đề phát sinh. Nhờ vậy, hoạt động tự học của lớp luôn được đánh giá tốt và duy trì ổn định. 2.3.8. Phát động các phong trào thi đua “học tốt”, “đôi bạn cùng tiến”, “học sinh nghèo vượt khó học giỏi”,… trong các hoạt động của lớp để kích thích năng lực tự học và tự khẳng định mình của học sinh. Đầu năm học, tôi phát động các phong trào thi đua “học tốt”, “đôi bạn cùng tiến”, “học sinh nghèo vượt khó học giỏi”, cho các em đăng kí tham gia. Mỗi em ít nhất phải tham gia một phong trào. Cuối tháng, cuối kì, cuối năm học tôi cùng tập thể lớp bình chọn những học sinh xuất sắc nhất để trao thưởng. Các em rất hào hứng và nhiệt tình tham gia. Kết quả trong lớp có nhiều gương mặt điển hình tiên tiến được công nhận. Qua đó thúc đẩy phong trào học tập của lớp đi lên. Cũng qua đó tôi phát hiện được nhiều em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đã 14 biết vươn lên, nỗ lực cố gắng hết sức để đạt thành tích cao trong học tập, nên kịp thời có những món quà cả về vật chất lẫn tinh thần để động viên các em kịp thời. Những gương mặt tiêu biểu của tháng 11 được nhận phần thưởng. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Sau một năm áp dụng những giải pháp trên, tôi nhận thấy những chuyển biến tích cực từ phía học sinh, các em đã trưởng thành hơn rất nhiều so với ngày đầu năm học. Tất cả học sinh trong lớp đều có năng lực tự học tốt. Phong trào học tập của lớp dẫn đầu toàn khối. Không còn tình trạng nói chuyện, làm việc riêng, ngủ gật, … trong giờ tự học. Cụ thể: Lớp được nhà trường công nhận là lớp tiên tiến xuất sắc. Lớp có 3 học sinh đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp tỉnh các môn văn hóa (1 giải ba môn Vật lí, 1 giải khuyến khích môn Hóa học, 1 giải khuyến khích môn Ngữ văn). Chi đoàn được Đoàn trường tặng Giấy khen có thành tích xuất sắc trong hoạt động Đoàn và phong trào thanh niên. Chi đoàn có 01 đoàn viên được Đoàn trường tặng giấy khen. Kết quả học lực và hạnh kiểm của học sinh cuối năm học: Giỏi/Tốt Khá TB Yếu Sĩ số SL % SL % SL % SL % Học 30 7 23,33 23 76,67 0 0 0 0 lực Hạnh 30 30 100 0 0 0 0 0 0 kiểm 15 Phần thưởng cuối năm cho học sinh tiên tiến Phần thưởng học sinh giỏi cấp tỉnh của nhà trường (Lớp 11A1 có 3 học sinh). 16 Phần thưởng học sinh giỏi toàn diện (Lớp 11A1 có 7 học sinh). Phần thưởng của Đoàn trường 17 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1 Kết luận Tự học là con đường tốt nhất để nâng cao học vấn và trình độ tư duy của học sinh một cách bền vững và hiệu quả. Tự học cũng là nhu cầu và lợi ích của học sinh và là yếu tố quan trọng để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Do đó, người giáo viên cần xác định những biện pháp nâng cao năng lực tự học cho học sinh. Với nhận thức đó, đề tài đã tập trung nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực tiễn, nhằm đề ra các biện pháp có tính khả thi trong công tác quản lý hoạt động tự học dành cho học sinh lớp chủ nhiệm 11A1 trường THPT DTNT Ngọc Lặc. Từ nghiên cứu cơ sở lý luận và và cơ sở thực tiễn, đề tài đã đề xuất một hệ thống 8 biện pháp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động tự học của học sinh các dân tộc ít người, góp phần giải quyết mâu thuẫn giữa thực trạng giáo dục với mục tiêu, yêu cầu đặc thù của các trường DTNT theo các định hướng đổi mới của ngành GD&ĐT. Trong quá trình áp dụng đề tài, tôi nhận thấy đề tài có thể được áp dụng với nhiều đối tượng học sinh, không chỉ riêng học sinh nội trú. 3.2. Kiến nghị 3.2.1. Đối với Nhà trường - Tiếp tục quan tâm giáo dục động cơ ý thức học tập cho học sinh ngay từ đầu năm học và trong suốt năm học nhằm giúp học sinh ý thức rõ nhiệm vụ học tập. - Tập huấn cho toàn thể giáo viên về phương pháp dạy - tự học. Quy chế hoá yêu cầu đối với giáo viên trong việc sử dụng phương tiện thiết bị dạy học. - Nghiên cứu cải tiến quy trình đổi mới phương pháp dạy học gắn lý thuyết với thực tiễn, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Cải tiến chế độ kiểm tra, ra đề kiểm tra, đề thi phải gắn với nội dung tự học. - Kế hoạch kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học của học sinh phải dưới nhiều hình thức khác nhau. Huy động toàn bộ các lực lượng trong nhà trường tham gia quản lý hoạt động tự học của học sinh. - Đầu tư kinh phí hoàn thiện cơ sở vật chất, các phương tiện thiết bị hỗ trợ cho hoạt động tự học. - Bên cạnh công tác chuyên môn, cần tổ chức các buổi trao đổi, thảo luận về công tác chủ nhiệm để nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục học sinh nội trú. 3.2.2. Đối với giáo viên - Áp dụng các phương pháp dạy học tích cực phát huy cao độ tính tích cực, độc lập của học sinh trong học tập. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan