Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn một số biện pháp nâng cao năng lực phân tích tâm lý nhân vật trong tác phẩm...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao năng lực phân tích tâm lý nhân vật trong tác phẩm tự sự (chương trình chuẩn lớp 12).

.DOC
22
171
90

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG III SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC PHÂN TÍCH TÂM LÝ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ” (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN LỚP 12) Người thực hiện: Hoàng Thị Uyên Chức vụ : Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực (môn) : Ngữ văn THANH HÓA NĂM 2013 A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài: 0 Với văn học, thế giới nội tâm của con người mãi là mảnh đất màu mỡ và bí ẩn luôn mời gọi những tìm kiếm, khám phá. Trên tinh thần đó, văn xuôi Việt Nam thời kỳ từ cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975 xuất hiện nhiều cây bút quan tâm đến số phận cá nhân con người, tập trung đi vào vũ trụ lòng người với tất cả sự phong phú, tinh tế vốn có của nó như Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Khải, Nguyên Hồng…v...v. Họ vừa kế tiếp văn học quá khứ - nối tiếp những thành tựu đã đạt được ở “Chinh phụ ngâm” (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm), “Cung oán ngâm khúc” (Nguyễn Gia Thiều” và đặc biệt là kiệt tác truyện Kiều (Nguyễn Du)… vừa cập nhật trào lưu văn học thế giới ở thế kỷ XX với những Hê- minhuê, Rơmazcơ, Sô lô khôp… Vậy mà khi đứng trước các tác phẩm vừa hay vừa khó trong chương trình như vậy, học sinh lớp 12 - lớp cuối cấp - vẫn giữ thói quen không đọc (hoặc chỉ đọc qua chưa hết chuyện), chỉ soạn bài qua loa chiếu lệ, đối phó. Hơn nữa do việc học vất vả cộng thêm với xu hướng chọn khối thi nên phần lớn các em học sinh học tủ, học lệch dẫn đến tình trạng thờ ơ với bộ môn hay hiểu hời hợt tác phẩm, khi làm bài phân tích nhân vật thì nói chung chung, kể lể cốt truyện miễn sao dài 2-3 trang giấy. Với đối tượng học sinh trung bình trở xuống, các em phụ thuộc máy móc vào bài văn mẫu huặc hoang mang trong việc định hướng cách làm bài. Thế còn về phía các thầy cô thì sao? Đội ngũ giáo viên của chúng ta dần được hoàn thiện do được đào tạo chính quy có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm vững vàng; do qua các lớp bồi dưỡng thường xuyên; do ứng dụng đổi mới trong dạy học văn nhưng vẫn còn hiện tượng dạy chay – dạy mà chưa đọc kỹ, đọc trọn ven tác phẩm. Quan trọng hơn nhiều giáo viên chưa nắm vững đặc điểm của nhân vật trong tác phẩm tự sự, thiếu kiến thức lý luận văn học về phân loại nhân vật nên tỏ ra long ngóng khi tìm hiểu giải pháp tiếp cận nhân vật một cách có hệ thống, có cơ sở khoa học. Với tư cách là người trực tiếp đứng trên bục giảng, trước thực trạng trên, chúng tôi băn khoăn - tìm một giải pháp hữu hiệu nhằm giúp học sinh nắm được kiến thức nền, kiến thức cơ bản về tác phẩm qua các nhân vật thiên về đời sống nội tâm một cách nhanh nhất, dễ nhất. II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Thực tế giảng dạy và tìm hiểu học sinh cho thấy: Việc tìm hiểu và tiếp cận tác phẩm của học sinh trong giờ đọc văn còn lúng túng, mang tính chất thụ động, chưa phát huy được vai trò chủ động sáng tạo của mình. Do đó ấn tượng về tác phẩm chưa đủ rộng, đủ sâu và chưa thực vững chắc. học sinh phản ứng chậm trước câu hỏi, rụt rè trong phát biểu ý kiến, còn nông cạn do lười đọc tài liệu, xem nhẹ kiến thức chìa khóa trong tiếng Việt, làm văn, lí luận văn học. Mặt khác giáo viên cũng ham nói, tham kiến thức, sợ thiếu thời gian nên không để học trò phát biểu thỏa đáng... Như vậy trong giờ đọc hiểu một tác phẩm văn chương vấn đề quan trọng nhất là phải “đẩy” học sinh vào cuộc “tự khám phá tác phẩm”. Từ đó các em có thể tự tìm kiếm, chiếm lĩnh và cảm thụ được cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương, tiếp nhận tác phẩm đúng hướng một cách tích cực sáng tạo. Đây là một 1 công việc khá phức tạp, đòi hỏi quá trình nghiên cứu tìm tòi, thể nghiệm công phu của các nhà phương pháp và đông đảo giáo viên phổ thông. Để khắc phục những nhược điểm ấy, cần có sự nỗ lực cả từ phía người học và người dạy trong một quá trình lâu dài. Là một giáo viên dạy văn, từ khi bước chân lên bục giảng tôi đã luôn trăn trở, học hỏi và suy nghĩ để đổi mới phương pháp giảng dạy trong từng tiết dạy, bài dạy. Ở đây tôi xin đề xuất ý kiến của mình về “Một số biện pháp nâng cao năng lưc phân tích tâm lí nhân vât trong tác phẩm tự sự” (chương trình chuẩn lớp 12). Hy vọng có thể góp phần đa dạng hóa các phương pháp, biện pháp dạy học theo tinh thần đổi mới. B. Giải quyết vấn đề I. Cơ sở lí luận: Để đạt được điều đó, chúng tôi, trước hết, vận dụng kiến thức làm văn đó học ở lớp 11- kỹ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự một cách sinh động, sáng tạo. Sau đó, không thể không kể đến kiến thức lý luận văn học về phân loại nhân vật. Vậy, nhân vật văn học là gì? Đó là “Con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học”. “Nhân vật là phương tiện khái quát hiện thực, tức là qua đó nhà văn thể hiện nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc đời; tức là nhân vật trở thành “phương tiện khái quát các tính cách, số phận của con người và các quan niệm về chúng” . Có thể phân loại nhân vật văn học từ các góc độ sau: Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính và nhân vật phụ. Dựa vào thể loại văn học, ta có nhân vật trữ tình, nhân vật kịch. Dựa vào cấu trúc hình tượng, nhân vật được chia thành nhân vật chức năng (hay mặt lạ), nhân vật loai hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Tất nhiên, sự phân chia chỉ có tính tương đối. Ở đây, chúng tôi đi sâu vào cách phân loại cuối cùng - phân loại theo phương thức xây dựng nhân vật, với các kiểu sau: Nhân vật chức năng (trong văn học cổ đại, trung đại): “không có đời sống nội tâm, các phẩm chất đặc điểm nhân vật cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối, hơn nữa, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng nhất định, đúng một số vai trò nhất định”. Nhân vật loại hình: “là loại nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, đạo đức của một loại người nhất định của một thời”. Nhân vật tính cách: “ trong nghĩa hẹp, tính cách là một loại nhân vật được miêu tả như một nhân cách, một cá nhân có cá tính nổi bật. Trong nhân vật tính cách, cái quan trọng không chỉ là cái đặc điểm, thuộc tính xã hội này nọ mà người ta có thể liệt kê ra được. Tính cách cũng thể hiện ở tương quan giữa các thuộc tính đó với nhau, tương quan giữa các thuộc tính đó với môi trường, tình huống. Nhân vật tính cách thường có mâu thuẫn nội tại, những nghịch lí, những chuyển hóa và chính vì vậy tính cách thường có một quá trình tự phát triển và nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính nó. Theo đó, điểm quan trọng nổi 2 bật trong cấu trúc nhân vật tính cách là yếu tố tâm lý và hạt nhân của loại nhân vật này là tính cách (khác với khái niệm “loại” ở nhân vật loại hình) Nhân vật tư tưởng: “cấu trúc của nó là một tư tưởng, một ý thức”. Từ đó, soi vào các tác phẩm tự sự được đọc và học thêm trong chương trình lớp 12 THPT (phần Văn học Việt Nam thời kỳ cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975), ta thấy có các loại nhân vật sau: Nhân vật loại hình: - ông lái đò (Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân) Nhân vật tinh cách: - Tràng, bà, cụ Tứ (“Vợ nhặt” – Kim Lân) - Mị (“Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài) - Tnú (“Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành) Như trên đã nói, sự phân biệt loại hình trên đây chỉ mang tính chất tương đối, loại này có khi bao hàm yếu tố của loại kia, nhưng cần thấy nét ưu trội trong cấu trúc của tổng loại để ý thức được sự đa dạng trong cấu trúc nhân vật và khả năng phản ảnh hiện thực của chúng. Vậy nên có thể thấy nhân vật ông lái đò ở “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân vừa là nhân vật loại hình vừa là nhân vật tư tưởng. Trong số các nhân vật tính cách ấy, chúng tôi chia làm hai dạng: Nhân vật thiên về đặc điểm, phẩm chất: Tnú, Việt, Chiến. Nhân vật thiên về đời sống nội tâm: Mị, Tràng, bà cụ Tứ. Nội dung đề tài sẽ xoay quanh nhóm nhân vật thiên về đời sống nội tâm: Nhân vật văn học (đặc biệt là nhân vật chính, nhân vật trung tâm luôn thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm, dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Vì vậy việc phân loại, phân nhóm nhân vật cũng không năm ngoài mục đích hiểu rõ hiểu đúng nội dung và hình thức tác phẩm theo yêu cầu giáo dục trong nhà trường. Đó là xét nhân vật trong tác phẩm tự sự – tác phẩm kể chuyện với ba đặc trưng cơ bản: tình tiết, lời kể và nhân vật. Vậy nên khi giảng dạy truyện trong nhà trường phổ thông, ta phải căn cứ vào những đặc trưng thể loại ấy. Cụ thể là: “Làm cho học sinh nắm vững được sự phát triển của tình tiết trong tác phẩm tức là nắm được cốt truyện” bằng cách kể lại, phân tích các chặng đường phát triển của nó tức là phân tích bố cục. “Làm cho học sinh cảm và hiểu được các ý vị trong lời kể của tác giả (hay của người kể chuyện)” qua phong cách ngôn ngữ riêng với sức mạnh gợi tả của từ ngữ kết tinh những nhận xét, suy ngẫm từ vốn sống dồi dào ở nhà văn. “Làm cho học sinh cảm thụ được sâu sắc, đánh giá được đúng đắn nhóm vật trong tác phẩm” bằng cách: Tìm hiểu các chi tiết mưu tả, tự sự, nhận xét về nhân vật. Chẳng hạn cách nói đầy ám ảnh về chân dung của Mị ngay ở đầu tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài: lúc nào “cũng cuối mặt, mặt buồn rười rượi”…. Rồi những lời nhà văn đánh giá về nhân vật: Mị khổ hơn cả thân trâu thân ngựa, Mị “lựi lũi như con rùa nuôi nơi xú cửa”… như đó lột tả nỗi cực nhọc về thân xác, nỗi đau đớn về tinh thần của kẻ sống tê liệt và câm lặng. Hơn nữa, phải biết phát hiện và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp, phân loại theo trình tự hợp lý làm làm rõ tính cách nhân vật ở: dung nhan - lai lịch - lời nói - hành động - tâm trạng (cái “khung” chung). 3 Để rồi từ đó “ tổng hợp các mặt phân tích về nhân vật thành một nhận thức khái quát, nêu bật được ý nghĩa và tác dụng nhận thức cũng như giáo dục của nhân vật gợi ra những vấn đề liên hệ, suy nghĩ, thảo luận, tranh luận về nhân vật”. Nếu lấy trọng tâm việc tìm hiểu tác phẩm là phân tích nhân vật thì có thể khai thác tình tiết, lời kể xen lẫn, song song với quá trình khai thác nhân vật -linh hồn của những tác phẩm văn chương. Sau nữa, chúng tôi cũng dựa vào quan niệm của đại thi hào Nga thế kỷ XIX LepTônxtôi: “Con người cũng như dũng sông: nước trong mọi con sông như nhau và ở đâu cũng thế cả, nhưng mỗi con sông khi thì hẹp, khi thì chảy siết, khi thì rộng, khi thì êm đềm, khi thì trong veo, khi thi lạnh, khi thì đục, khi thì ấm. Con người cũng vậy, mỗi người mang trong mình những mầm mống mọi tính chất của con người và khi thì thể hiện tính chất này, khi thì thể hiện tính chất khác và thường là hoàn toàn không giống bản thân mình tuy vẫn cứ là chính mình” Vậy ra, con người luôn tồn tại ở trạng thái “động”, đang phát triển, luôn biến chuyển không ngừng như một dòng sông chảy trôi với tất cả những biến thái tinh vi trong tâm hồn ở các thời điểm khác nhau. Tuy nhiên, đây không phải là một hiện tượng hỗn loạn mà thường có quy luật của nó. Mà một trong những quy luật ấy là sự tương tác giữa con người với môi trường, hoàn cảnh sống, với xã hội. Xuất phát từ mục đích giúp học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản một cách nhanh chóng, sau đó dễ nhớ, dễ thuộc nhằm phục vụ kỳ thi tốt nghiệp rồi nâng cao để thi đại học và các trường chuyên nghiệp sắp tới, do trình độ và thời gian hạn chế, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu nhóm nhân vật nghiêng về diễn biến tâm trạng, trong đó có thực nghiệm cụ thể qua phân tích: Diễn biến tâm lý và tính cách của nhân vật bà cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt… Theo nghĩa rộng, tâm lý là thế giới tinh thần của con người cái khác biệt con người và con vật, cái làm nên con người bên trong con người vô hình. Tâm lý bao gồm tư duy với trực giác, tiềm thức, vô thức, bản năng …nhiều khi khó nắm bắt, khó lý giải bởi không phải lúc nào biểu hiện bên ngoài cũng khớp với trạng thái nội tâm con người. Do đó, “phân tích tâm lý gần như là phẩm chất cơ bản nhất trong những phẩm chất đem lại sức mạnh cho tài năng sáng tạo”(N.Sernưpxki). Nếu tâm lý là toàn bộ sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người bao gồm nhận thức, tình cảm, ý chí …biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ của mỗi con người thì tâm trạng được biểu hiện theo nghĩa hẹp hơn – là trạng thái tình cảm, tâm lý nhất định. Nói đến diễn biến (diễn biến tâm lý, diễn biến tâm trạng…) là nói đến quá trình vận động, biến đổi, phát triển không theo một đường thẳng định sẵn mà có những bất ngờ, đột biến, mâu thuẫn nhưng hợp lý trong nội tâm con người. Như sự biến chuyển logic, từ ý nghĩ sẽ đến hành động, dòng tâm tư bên trong sẽ biểu hiện ra thành những việc làm cụ thể bên ngoài…cứ thế sẽ dẫn tới sự thay đổi các đặc điểm, phẩm chất của nhân vật. 4 Theo đó, tính cách con người, tính cách nhân vật cũng không phải nhất thành bất biến mà cũng luôn vận động không ngừng. Xây dựng, tái hiện qua trình tâm lý ấy là biểu hiện tài năng của nhà văn và giúp học sinh cảm nhận, lĩnh hội được điều đó quả là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp nhưng cũng không kém phần thú vị của người giáo viên văn học. Một số năm gần đây, học sinh được làm quen với các mô hình phân tích nhân vật sau (nhóm nhân vật gắn với nội tâm): Ngoại hình – nội tâm… Cách giới thiệu nhân vật – lai lịch – diễn biến tâm trạng… Hoàn cảnh nhân vật – diễn biến tâm trạng. Ngoại hình – cung cách sinh hoạt – nội tâm… Dù là cái khung nào chăng nữa thì đều đề cập đến thế giới tâm hồn nhân vật trong trạng thái vận động không ngừng của nó như trọng tâm, hạt nhân không thể thiếu của việc tìm hiểu tác phẩm. Trước vấn đề này, chúng ta mạnh dạn áp dụng một hướng khai thác giúp người học định hình được cách phân tích nhóm nhân vật vốn “khó học” này. Xin lưu ý rằng: trong giờ giảng văn, giáo viên cần chủ động phối hợp với các phương pháp đặc thù phải đọc diễn cảm, giảng bình, gợi mở, dựng câu hỏi nêu vấn đề…phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. II . Các giải pháp tổ chøc thực hiện: 1. Tìm những “mốc” trong cuộc đời nhân vật: Mốc ở đây có thể là sự kiện hay thời điểm quan trọng tạo ra những bước ngoặt, những thay đổi quan trọng, căn bản, có khi đột ngột ở nhân vật. Đây là những tình huống có vấn đề, là cơ sở của quá trình tâm lý. Chẳng hạn : Với Tràng: Tình cờ “nhặt vợ”, Buổi sáng đầu tiên khi có vợ Vợ Tràng: Trước, trong và sau khi theo Tràng về nhà. Với Mị : Buộc làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pa Tra, Đêm tình mùa xuân, Cởi trói cho A Phủ và sau này Mị và A Phủ gặp cán bộ A Châu ở Phiềng Sa... Sau khi học sinh tiến hành những chuẩn bị cần thiết (đọc, tóm tắt tác phẩm - phần đọc hiểu; xác định nhân vật chính, nhân vật trung tâm; tìm chi tiết quan trọng; tìm tư tưởng chủ đề… Giáo viên có thể gợi ý, hướng dẫn các em chỉ ra cái mốc đó bằng hệ thống câu hỏi gợi mở. Ví dụ như: Trước khi nhặt vợ Tràng có cuộc sống như thế nào? Kết thúc tác phẩm Tràng đó có nhiều thay đổi (Tràng ý thức được bổn phận, trách nhiêm của mình với gia đình vợ con, thấy gắn bó với ngôi nhà và Tràng thấy mình nên người ). Điều đó có đúng không? Chính sự gặp gỡ giữa hai loại “mốc” đó giúp phần tạo nên sự chân thực, sinh động, cụ thể của nhân vật mà “ở đây xung đột nghệ thuật – bao gồm cả xung đột tâm lý nhân vật và xung đột xã hội - lich sử - đạt đến độ căng thẳng nhất và tính cách các nhân vật được bộc lộ rõ nhất” . Điều khiến chúng ta quan tâm là những thay đổi nào từng giờ từng phút đang diễn ra ở nhân vật. 2. Khám phá những thay đổi ở nhân vật: 5 Phải thừa nhận rằng linh hồn của tác phẩm tự sự là nhân vật. Khi nói đến các truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (T ô Hoài), “Vợ nhặt” (Kim Lân) không thể không nhắc đến những Mị, bà cụ Tứ…bởi đây là nơi nhà văn gửi gắm cách cảm, cách nghĩ của mình về con người, về cuộc đời một cách sâu sắc nhất, tập trung nhất; bởi đây là nơi ký thác những thông điệp nghệ thuật được thể hiện trong tác phẩm. Với các nhân vật này, ta thường gặp các yêu cầu phân tích: Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị của Tràng, bà cụ Tứ. Diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật như một dòng sông “chảy trôi”, cần thấy rằng có hai hướng vận động: Hướng xuôi chiều: những thay đổi bình thường, kế tiếp như những giọt nước nối tiếp làm đầy cốc nước. Hướng ngược chiều: Những thay đổi có vẻ khác thường, dị biệt đầy nghịch lí. Sự kết hợp nhuần nhuyễn hai hướng đó cùng khả năng phân tích hợp lí khi lách vào tận đáy tâm linh nhân vật sẽ tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm, góp phần khẳng định sự tinh tế nhạy cảm cũng như tài năng của nhà văn. Để khai thác những điểm sáng thẩm mĩ như thế, chúng ta cần chú trọng ba điểm sau: a. Chú ý những tác động dẫn đến những thay đổi, biến chuyển ở nhân vât. Có lẽ là điểm mấu chốt của mối quan hệ biện chứng giữa con người với hoàn cảnh sống. Tạm thời chúng tôi đưa ra ba loại tác động sau: Tác động của môi trường nói chung (tác động thiên tạo). Tác động qua các nhân vật khác (tác động nhân tạo). Qua lời nói, cử chỉ, hành động hoặc một sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó... Do chính dòng tâm tư của mình thôi thúc (tác động tự thân). Loại tác động này có thể chiếm ưu thế ở nhân vật A mà không có hoặc không là chủ yếu ở nhân vật B. Tuy nhiên một nhân vật có thể đồng thời chịu sự chi phối của cả ba loại trên. Chăng hạn: Khi mùa xuân về trên đỉnh núi cao, cái cô Mị héo hon, câm lặng, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” kia dường như “tỉnh” ra, trẻ lại bởi đất trời như có men say lòng người với vẻ đặc biệt của nó – cỏ gianh vàng ửng, gió và rét giữ dội, những chiếc váy hoa như những con bướm sặc sỡ; bởi hơi rượu nồng nàn đưa lòng người từ cõi quên về cõi nhớ; bởi tiếng sáo gọi bạn tình cứ mời gọi, thúc giục, trách móc giận hờn…như một ám ảnh không sao dứt đi được… b. Phát hiện những chuyển biến của nhân vật về trạng thái tâm lí, tình cảm, cách hành động, tính cách... Hãy so sánh để tìm ra nhưng thay đổi cơ bản của nhân vật, sự thay đổi ấy có căn cứ là các chi tiết nghệ thuật bởi vì “Đối với việc khắc họa nhân vật tính cách, việc miêu tả tâm lí, cá tính đóng vai trò cực kỳ quan trọng”. Chi tiết đó có thể chỉ là ý nghĩ ngẫu nhiên, bất chợt hoặc là ngôn ngữ của nhân vật; có khi lại thể hiện cảm nhận của nhân vật về sự vật, hiện tượng đời sống; có khi là đánh giá của nhân vật khác (về nhân vật đang xét). Chi tiết đó có thể mô tả ngoại 6 hình, hành động, cách ứng xử…hay có thể trực tiếp hoặc gián tiếp bộc lộ trạng thái tinh thần của nhân vật… Chăng hạn: Diễn biến tâm trạng của Tràng khi “nhặt vợ” rồi đưa vợ về nhà được Kim Lân thể hiện qua các chi tiết nào? Hãy phân tích? Kim Lân diễn tả khá tinh tế, khi thì gián tiếp qua các chi tiết miêu tả nét mặt, cử chỉ, lời nói… khi thì trực tiếp ở các hình ảnh bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác…Chỉ với bốn bát bánh đúc viên và vài câu bông đùa mà đã có người theo về làm vợ! Tình thế oái oăm ấy khiến cho ban đầu “anh chàng cũng chợn” vì bất ngờ, bị động; vì lo sợ, băn khoăn “thóc gạo này cái thân mình biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Thế rồi sau đó Tràng đành tặc lưỡi “chặc, kệ!” như chấp nhận một sự đã rồi, như phó thác cho số phận. Vậy là, hắn lấy vợ trong một tình huống bất đắc dĩ. Nhưng khi đưa vợ về nhà, tâm lý Tràng có gì biến đổi?. Lúc này, một mặt anh Tràng rạng rỡ hẳn lên: Khi thì tủm tỉm cười nụ, khi thì hai mắt sáng lên lấp lánh, khi thì mặt cứ vênh lên tự đắc với mình… Phải chăng nhà văn đã gợi lên rất chuẩn xác tâm lý ngỡ ngàng, phấn khởi, cái “khấp khởi mừng thầm” của một chàng trai xấu sí, thô kệch nay đã lấy được vợ, hơn nữa lại có vợ theo? Cử chỉ của Tràng cũng có cái gì vụng về ngượng nghịu với vẻ “lật đật chạy theo người đàn bà như người xấu hổ chạy chốn” rồi lại “cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa vào tay kia…” nhưng cũng không dấu nổi sự hãnh diện và những nốt nhạc của niền vui sướng đang ngân lên trong lòng khi “thích chí ngửa cổ cười khanh khách”. Đặc biệt là những đối thoại kiểu như: “Gì hả?”“Không”, “Sắp đến chưa? “ Sắp”. Hay: “ Nhà có ai không? “Có một mình tôi”. Đối thoại tâm tình giữa hai vợ chồng mới chỉ toàn những ý vẫn vơ, vụn vặt không đâu; lời lẽ nhát gừng, cộc lốc, chuyện nọ xọ chuyện kia… là do lạ lẫm, e dè? Do chất dân quê mộc mạc, giản dị? Hay là do những cảm xúc mới đang hình thành, len lỏi từ nơi sâu thẳm nhất của con tim khiến họ bối rối, không thể diễn tả thành lời? Tâm tư da diết ấy đó đến lúc được bộc bạch trực tiếp: “Trong một lúc, Tràng hình như quên hết những cảnh sống ờ chề, tối tăm hàng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ có tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ấm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve trên sống lưng. Trạng thái tâm lí, tình cảm và cảm giác của da thịt quyện làm một. Đây là cái “mới mẻ, lạ lắm, hay là niền hạnh phúc tràn ngập tâm hồn Tràng – cảm giác về sự đổi đời, niềm tin vào tương lai ngay trong không khí chết chóc, thảm đạm này?” Cũng có thể từ các chi tiết cụ thể để chỉ cho học sinh thấy những biến chuyển nhanh chóng ở người đàn bà - vợ nhặt của Tràng nhờ khả năng biến cải tuyệt vời của hạnh phúc gia đình. Từ sự cong cớn, trâng tráo, chỏng lỏn “như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh” đến vẻ duyên dáng đáng yêu, thèn thẹn hay đáo để “trên đường về nhà chồng” đến việc “nén một cái thở dài” trước cái nhà “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những bụi cỏ dại và đặc 7 biệt là sự đoan trang, thùy mị rất “hiền hậu, đúng mực” trong con mắt Tràng. Theo chiều trôi chảy không ngừng của cá tính, nội tâm nhân vật, thường thì các chi tiết được sắp xếp theo trình tự thời gian. Cần suy ngẫm, tìm tòi để vạch ra ý nghĩa của từng chi tiết đặc sắc, tiêu biểu, giàu giá trị thẩm mỹ và nhân văn. Bắt đầu từ ngôn từ, bám vào ngôn từ như thế cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản của phân tích tác phẩm, tránh việc nói suông, nói chung chung, qua loa, dùng những từ đao to búa lớn mà sáo rỗng hoặc xu hướng kể lể dài dòng… thường gặp ở học sinh. c. Phát hiên những thay đôi mang tính đôt phá của nhân vât . Đến đây chung ta có thể dừng lại để lý giải cắt nghĩa về các trạng thái, các quy luật tâm lý - được thể hiện ở nhân vật. Đành rằng cơ sở của việc cắt nghĩa này chính là hạt nhân khách quan nằm trong chính tác phẩm nhưng không thể phủ nhận yếu tố chủ quan của từng người tiếp nhận nó.Căn cứ để đánh giá là: Bên ngoài nhân vật: những tiền đề chuẩn bị, những điều kiện dự báo, những tác động…có xác đáng không? Bên trong nhân vật: quá trình tâm lí diễn ra có phù hợp với lô gic nội tại trong việc phát triển tính cách nhân vật, có phù hợp với đặc điểm con người ở thời đại, giai cấp, dân tộc…đó không? Chẳng hạn như có thể suy nghĩ thế nào về những chuyển biến ghê gớm, dữ dội ở nhân vật Mị? Sự thay đổi có hợp lý không”? “vì sao”? Từ một kẻ tê dại nay Mị lại có một hành động nổi loạn: muốn đi chơi xuân – biểu hiện của sự thức tỉnh, dấu hiệu của sự hồi sinh một tâm hồn tràn trề sức sống, khát khao hạnh phúc, khát khao tự do.Từ một cái xác không hồn, vô cảm cùng cực, Mị lại thấy thương rồi cắt dây trói giải thoát cho A Phủ…Đó là những hành động “nhảy vọt” trong tâm lí, tính cách của nhân vật. Nó bất ngờ, đột ngột, không thể đoán trước nhưng lại hợp lí bởi: Có những tác động hoàn toàn xác đáng. Phù hợp với lô gíc nội tại trong chính nội tâm nhân vật. Vi dụ như: Một cô Mị xuân sắc, tràn trề sinh lực ngày xưa ; một cô Mị dám dùng cái chết để phản kháng cảnh con dâu gạt nợ... nay “muốn đi chơi xuân”, nay “vùng bước đi” theo tiếng sáo gọi bạn tình dù tay chân bị trói cứng lại với tất cả ý thức về nhân phẩm, với tất cả sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Một cô Mị tình nguyện làm nương ngô để trả nợ thay cho bố mẹ cũng chính là cô Mị giàu đức hi sinh và lòng vị tha, sẵn sàng chêt để cứu một người cùng cảnh ngộ. Một cô Mị dũng cảm cứu người lẽ nào lại không giám tự cứu chính mình? (vùng chạy theo A Phủ).Vậy ra, “bên trong hình ảnh của con rùa lui lũi nơi xó cửa kia, đang còn một con người. Sức sống âm ỉ, khát vọng hạnh phúc cháy bỏng có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đó chai cứng vì đau khổ nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi, nó lại cháy lên từ dưới lớp tro bùn” Đó phải chăng là sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân dân miền núi, của nhân dân Việt Nam tự bao đời. Thứ sức mạnh bất diệt ấy đó hun đúc nên tinh thần đấu tranh bất khuất chảy trong huyết quản dân tộc, đó đưa họ đến với cách mạnh như một tất yếu. 3. Đánh giá về nhân vật: 8 a. Về nội dung tư tưởng Cần lần lượt trả lời hai câu hỏi sau: Qua diễn biến tâm lý, tính cách của nhân vật (qua cuộc đời và số phận của nhân vật) tác phẩm đó đặt ra vấn đề cơ bản nào? Nhà văn đó nhận thức, lí giải và bày tỏ thái độ gì trước vấn đề đó? Giáo viên cần nhấn mạnh với học sinh rằng: “nếu như chủ đề là nơi thể hiện khả năng nắm bắt nhạy bén của nhà văn đối với những vấn đề của cuộc sống thì tư tưởng là hạt nhân quan trọng của tác phẩm, như trái tim trong một cơ thể sống – chịu sự tác động và quy định của thế giới quan, vốn sống, tài năng của tác giả, tư tưởng, chủ đề quyết định giá trị, tầm vóc của tác phẩm văn học. Với các tác phẩm tự sự cụ thể tìm tư tưởng chủ đề ấy qua các nhân vật chính, nhân vật trung tâm”. (Phần trích học trong SGK Văn 12, tập 2, sách chỉnh lí và hợp nhất năm 2000, Nxb Giáo dục thể hiện phần lớn hoặc gân trọn ven tư tưởng, chủ đề của tác phẩm - với các truyện ngắn và một số khía cạnh nào đó nổi bật trong tư tưởng, chủ đề của tác phẩm- trong tiểu thuyết). Ta hãy lấy ngay ví dụ ở tác phẩm “Vợ nhặt”, qua nhân vật Tràng nhà văn muốn gửi gắm bức thông điệp nào? Giữa năm đói quay, đói quắt, người chết như ngả rạ, “không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cũng queo bên đường”. Tràng lại lấy vợ – nhặt vợ như người ta nhặt một mớ rau mớ cỏ hoặc một vật dụng bỏ đi. Ở đây, tác phẩm lên án xã hội thực dân nửa phong kiến tàn bạo đó đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà khi ấy, giá trị con người trở nên rẻ rúng. Ở đây, nhà văn cũng khẳng định: người lao động, trong bất kì hoàn cảnh nào cũng khao khỏt tình thương yêu, khao khát hạnh phúc gia đình. Những biến đổi tâm lí của Tràng khi cùng vợ trở về nhà đã nói ở phần trên như nói lên rằng: anh trai nghèo ấy đang chứa chan một niềm vui sướng vô bờ, chứa chan một niềm tin yêu cuộc sống… Qua đó, Kim Lân cũng khẳng định: con người, dù bị đẩy vào tình huống bi đát, phải sống trong sự đầy đọa của cái chết vẫn luôn hướng về sự sống, luôn tin ở tương lai. Hơn nưa, tình thương, sự đồng cảm với người đàn bà cùng cảnh ngộ có sức mạnh lớn lao giúp Tràng vượt lên tất cả những khổ đau cơ cực của hiện tại bởi “trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên…” Đó là một quan điểm nhân đạo sâu sắc và cảm động được phát biểu đầy sức thuyết phục thông qua hình tượng nhân vật. Từ đó ta càng thấm thía một điều: cái đói, cái khát không thể làm giảm đi giá trị của tính người, tình người; bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng quý hơn tất cả, ngay cả khi có chừng người ta không cần gì hơn miếng ăn… Diễn biến tâm trạng của Tràng ở buổi sáng hôm sau đó hé mở một điều: từ một kẻ ngố, quê kệch, thô mộc anh đã trở thành một con người nhạy cảm, nhạy cảm với từng đổi thay nhỏ nhất của cảnh vật xung quanh. Phải chăng đây là tâm trạng của con người thấy được hạnh phúc gia đình làm biến cải cuộc đời mình? Lần đầu tiên, Tràng có cảm giác: “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn 9 bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Đến đây, người đọc mới vỡ lẽ một điều: sự gắn bó trong cảnh khổ đau, tình thương yêu và hạnh phúc gia đình khiến con người ta như trưởng thành hơn, yêu đời hơn, sống có trách nhiệm hơn – tức là đã nên người, hoàn thiện nhân cách. Bởi thế, tư tưởng chủ đề của truyện được nâng lên một tầng cao mới. b. Về nghệ thuật Đây là chỗ bộc lộ những đặc điểm riêng, phong phú, đa dạng của từng tác phẩm cùng với khả năng, sở trường của từng nhà văn. Trong khuôn khổ đề tài này, người viết chỉ nhấn mạnh vào nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật qua các khía cạnh chủ yếu sau: Sử dụng ngôn ngữ: Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả: là lời văn của tác giả, người trần thuật nhằm tái hiện và bình phẩm các hiện tượng của thế giới trong ý nghĩ khách quan vốn có của chúng theo ý đồ của nhà văn. Những đoạn tả cảnh thiên nhiên – giới thiệu lai lịch nhân vật…trong “Vợ chồng A Phủ”, với cách dẫn dắt tình tiết khéo léo tạo ra sự biến hóa, hấp dẫn của cốt truyện; ngôn ngữ trần thuật tự nhiên, đảo lộn trật tự thời gian hợp lý khi kể truyện…trong “Vợ nhặt” nhằm nhấn mạnh tình huống truyện độc đáo, tránh cảm giác nhàm chán… Cũng không thể bỏ qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật: Là loại lời nói trực tiếp của nhân vật trong một hoàn cảnh giao tiếp nào đó, nó ít nhiều biểu lộ cá tính và trạng thái tinh thần của người phát ngôn. Nghe đối thoại của Tràng – vợ Tràng – bà cụ Tứ cũng đủ biết đây là những người hiền lành, thật thà, tốt bụng, giàu nghị lực và lòng nhân ái…vốn quen sống mộc mạc, chất phác của dân quê, như hạt lúa củ khoai vậy… Đó là thành công không thể phủ nhận của tác giả. Bên cạnh đó là lời nửa trực tiếp – giọng tác giả hòa quện vào giọng nhân vật đến mức khó tách bạch rạch ròi. Ở dạng này, nhà văn trực tiếp phơi bày, phân tích tâm lý nhân vật: “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!...(“Vợ chồng A Phủ”). Ưu thế nổi bật trong ngôn ngữ nghệ thuật của Tô Hoài chính là chỗ này. Nhờ nó, người đọc như được ru vào thế giới nội tâm của nhân vật từ lúc nào không biết nữa – tự nhiên, hợp lý chứ đâu phải sự săp sếp công phu của kĩ sảo, tiểu sảo. Và từ đó dòng tâm tư nhân vật cứ thế chảy trôi như nó vốn có vậy. Ở những tác phẩm này, lời nói trực tiếp được sử dụng một cách điêu luyện, tinh tế khiến ngôn ngữ trần thuật mang tính phức điệu: lời của tác giả mà ý thức lại của nhân vật, ngữ điệu là của nhân vật. Bằng lối này, nhà văn có khả năng trực tiếp miêu tả thế giới bên trong của nhân vật qua phân tích khách quan của mình. Sau đó là độc thoại nội tâm: “Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn của nhân vật, là ý nghĩ thầm kín là lời tự nhủ thầm hoặc nhân vật tự nói 10 to lên với mình”. Ở đây, chúng tôi quan tâm độc thoại nội tâm là lời nói trực tiếp của nhân vật. Với mục đích bộc lộ đời sống tinh thần của nhân vật làm rõ con người bên trong của nó, độc thoại nội tâm bên trong chức năng hướng ngoại – thể hiện cách nhìn người, nhìn đời – thì quan trọng hơn cả là chức năng hướng nội – tái hiện tính tự phát của dòng cảm xúc và ý thức để nhân vật tự ý thức, tự soi lại mình, tự phê phán và đánh giá…với tất cả những dằn vặt, giằng xé, mâu thuẫn…đan xen. Trên cơ sở đó, hãy cùng khám phá cõi lòng của Mị qua ngôn ngữ cất lên tự một đáy lòng đang thổn thức: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cứng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đến mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…Mị phảng phất nghĩ như vậy”.Có thể dùng những câu hỏi định hướng sau: • Những độc thoại nội tâm ấy đã phản ảnh sự thật khách quan (hiện thực) nào? Cách đánh giá của nhân vật? • Qua đó, nhân vật đó tự ý thức được những điều thực sự sâu xa và mới mẻ để rồi tâm lí có sự phát triển đột biến. Em có ý kiến gì chăng? Quá khứ chợt hiện về với bât công, tội ác khiến Mị xót xa, đau đớn, phẫn uất. Mình đó cam phận nhưng con người đàn ông kia…Lòng thương chợt bưng dậy, lóe sáng trong cái con người tưởng như vô cảm kia…tất cả thôi thúc Mị, dẫn đến “nút thắt” bất ngờ: hành động cắt dây trói cho A Phủ… Như vậy, độc thoại nội tâm đã đưa các trạng thái cảm xúc phát triển đến cao trào, thúc đẩy ý nghĩ biến thành những việc làm mang tính đột biến trong cuộc đời nhân vật. Một thủ pháp nghệ thuật nữa được các nhà văn sử dụng là xây dựng những chân dung tâm lí: Ngoại hình củaTràng; dáng vẻ của Mị …đều hé mở một cái gì đó về cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật. Chẳng hạn, đằng sau cái vẻ ngoài thô kệch của Tràng được gợi lên từ “hai con mắt gà gà, nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạch ra”, “cái đầu trọc nhẵn”… Kim Lân muốn làm toát lên điều gì ẩn chứa ở nhân vật? Thêm vào đó, nhiều quá trình tâm lí phức tạp cũng được diễn tả hợp lí, không kém phần tinh tế. Bằng công cụ sắc bén là ngôn ngữ hình tượng; văn học gần như chiếm ưu thế tuyệt đối trong việc khám phá chiều sâu khôn cùng của vũ trụ lòng người. Về vấn đề này, văn xuôi Việt Nam thời kì sau cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975 đã đạt được những thành tựu bước đầu. Ở các nhân vật đang xét, có thể hướng học sinh vào những điểm: Anh “Tràng thừa tiêu chuẩn ế vợ”, giữa nạn đói năm 1945 lại nhặt vợ (có vợ theo), từ chỗ nhẫu nhiên bỗng đùa, “chợn” nay lại thấy hạnh phúc ngập tràn. Đó là vì đâu? Một cô Mị trẻ trung, xinh đẹp đầy sức sông nay trở thành “con rùa lùi lũi nuôi nơi xó cửa”. Tại sao con người gần như tê liệt hoàn toàn ấy lại nẩy ra ý định đi chơi xuân, cứu A Phủ cùng chốn khỏi Hồng Ngài. (có thể sơ đồ hóa như 11 sau: Mị – tràn trề sinh lực – tê dại – hành động nổi lọan: muốn đi chơi xuân – vô cảm, tê dại hơn trước – giải thoát cho A Phủ). Trong các quá trình đó, nhà văn không chỉ khai thác các trạng thái tâm lí thông thường mà còn nắm bắt những hiện tượng tâm lí khác thường, đặc biệt, tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn tình, lòng Mị “đang sống về ngày trước… nhưng” mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng…Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ, trăng trắng”. Hãy lí giải hành động này? trong Mị có hai con người: con người tâm linh đã lột xác, “phơi phơi trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước” còn con người thể xác thì đứng dậy, bật dậy như một cái máy, theo thói quen, theo bản năng chăng? Hay là khi ý thức về sự sống đó trở về, con người ta càng thấm thía thân phận nô lệ? Với điều này, quả là ngòi bút Tô Hoài đó đạt đến độ sâu sắc khi khám phá quy luật của lòng người vốn không dễ gì thấy được. Chẳng hạn: Khi có ý định muốn đi chơi, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Hành động này thật có lí. Nó là biểu hiện đích thực của sự hồi sinh tâm hồn. Khi người ta muốn làm đẹp là khi đó ý thức về nhân phẩm, về giá trị con người ở mình. Nhất là ở tình huống này đi chơi xuân, gặp bạn tình. Đằng sau những động tác trang điểm có vẻ giản đơn kia là cả sự khao khát, sự đợi chờ ; là cả tình cảm nồng nàn, say mê…của người con gái khi đến với tình yêu. Hơn ai hết, Kim Lân cũng phát hiện khả năng biến đổi kỳ diệu của hạnh phúc gia đình ở người phụ nữ được đánh thức làm con, làm vợ, làm mẹ qua người vợ nhặt của Tràng. Ông tỏ ra rất tường tận tâm lí của người mẹ già đôn hậu, hết lòng vì con ở chỗ day dứt vì bổn phận làm mẹ chưa tròn và những việc làm cụ thể giúp con tạo dựng cuộc sống mới…Đây đích thực là mẹ của nông thôn Việt Nam, được chắt ra từ những cảnh đời lam lũ vất vả, nhọc nhằn mà vẫn không thiếu tình người này. Trên đây chỉ là một vài hướng đánh giá mang tính gợi mở, gợi ý, không phải là những công thức “quy lát”. Quan điểm của người viết là: Tôn trọng, rất thận trọng nhưng sáng tạo, phát hiện của học sinh (đặc biệt là các ý kiến có cơ sở, có giá trị) Có thể lồng phần này khi phân tích, tránh tách bạch rời rạc theo kiểu chia nội dung – nghệ thuật. Tránh thái quá trong nhân xét, cần chân thành, trung thực, khách quan… xuất phát từ cảm nhận của chính mình, từ chính tác phẩm. 4. Phát biểu những cảm nghĩ của bản thân về nhân vật: Theo quan hệ vòng tròn giữa cuộc sống, nhà văn, tác phẩm và người đọc, xuất phát từ ý tưởng hiểu – cảm nhận – khám phá - lĩnh hội – tác động trở lại đời sống…của tiếp nhận văn học, chúng tôi cho rằng cần chú ý xem cái gì sẽ đọng lại ở học sinh trong và đặc biệt sau một giờ giảng văn? Kết quả của giáo dục là một quá trình, là một nhân cách, vậy hãy để các em nói lên những suy nghĩ của riêng mình. Đây sẽ là những bông hoa muôn sắc, không thể có khuôn mẫu, nó 12 phong phú như chính thế giới tâm hồn của con người. Có thể có những hướng phát biểu sau: Cảm xúc, ấn tượng nổi bật, độc đáo về nhân vật?. Bài học rút ra? Liên hệ với các nhân vật khác (nhân vật ở các tác phẩm khác cùng đề tài, cùng thời kì - giai đoạn văn học, có nét giống – khác biệt…) Liên hệ với thực tế cuộc sống… Học sinh cũng có thể phát biểu về những hạn chế không tránh khỏi của những tác phẩm thời kì này (lí giải, bình luận theo cảm nhận riêng) ở những biến đổi tâm lí cũng đơn giản, chưa khai thác triệt để độc thoại nội tâm với khả năng ưu việt của nó trong việc thể hiện thế giới tinh thần của con người, nhân vật trắng đen rõ ràng – tính cách theo mô hình định sẵn, kết thúc có hậu…như những ước lệ, công thức do quan niệm: con người mới không phức tạp, CNXH không có bi kịch nên việc phản ảnh còn phiến diện, xuôi chiều. Do đó chưa có những nhân vật văn học, tác phẩm văn học xứng đáng với tầm cỡ lịch sử… II. GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM Tiết 62 ĐỌC VĂN : VỢ NHẶT ( Kim Lân ) I. Mục tiêu cần đạt: - Kiến thức: + Hiểu được tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra. + Hiểu được niềm khát khao hạnh phúc gia đình, niềm tin bất diệt vào cuộc sống và tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa những con người lao động nghèo khổ ngay trên bờ vực thẳm của cái chết. + Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật của thiên truyện: sáng tạo tình huống, gợi không khí, miêu tả tâm lí, dựng đối thoại. - Kĩ năng: Củng cố nâng cao kĩ năng đọc - hiểu truyện ngắn hiện đại - Thái độ: Trân trọng cảm thông trước khát vọng hạnh phúc của con người; biết ơn cách mạng đã đem lại sự đổi đời cho những người nghèo khổ, nạn nhân của chế độ cũ. II. Chuẩn bị của thầy và trò: GV: SGK, SGV, chuẩn kiến thức kĩ năng, soạn bài chu đáo, dự kiến giáo án phù hợp với đối tượng HS, sưu tầm tranh ảnh minh họa. HS: SGK, soạn kĩ bài, đọc tác phẩm, tóm tắt truyện, nắm chắc lí thuyết làm văn có liên quan… III. Tiến trình bài giảng: A. Kiểm tra bài cũ: - Ý nghĩa nhan đề tác phẩm "Vợ nhặt" - Tình huông truyện "Vợ nhặt"? B. Bài mới: 13 Hoạt động của thầy và trò HĐI. Hướng dẫn HS tìm hiểu diễn biến tâm trạng các nhân vật. - Tg giới thiệu nhân vật người vợ nhặt qua nhưng chi tiêt nào nào?Nhân vật này có điểm gì đặc biệt? -Phân tích những đổi thay trong tâm trạng và hành động của người vợi nhặt? -Trên đường về biểu hiện của thị ra sao? - Thị ra mắt mẹ chồng trong tư thế ntn? Em có thể lí giải vì sao thị lại cố gắng như vậy? -Sự thay đổi ở thị trong buổi sáng hôm sau ntn? Nhận xét của em về người vợ nhặt? GVG:Thị là người phụ nữ vô danh nhưng không vô nghĩa. Thị là hiện thân của hạnh phúc bé nhỏ nhưng quý giá vô ngần. Tg muốn thể hiện một niềm tin đầy ý nghĩa nhân văn. Tình thương và mái ấm gia đình có đủ sức mạnh để cảm hóa con người. Kiến thức cơ bản 3. Diễn biến tâm trạng các nhân vật: a. Người vợ nhặt: - Không rõ lai lịch, không có cả tên tuổi. - Xuất hiện ở kho thóc lê la nhặt hạt rơi hạt vải - Ngoại hình héo hon, tàn tạ. Thị là điển hình cho những thân phận bần cùng, đói rách phải tha phương cầu thực để kiếm miếng ăn. - Ấn tượng chung: Là người phụ nữ chao chát, chỏng lỏn. Vì đói mà quên cả giữ kẻ, đánh mất cả sĩ diện thẹn, thẹn thùng. Tự làm quen, đòi ăn, theo không Tràng. - Diễn biến tâm trạng và hành động: + Trên đường theo Tràng về, cái vẻ "cong cớn" biến mất, chỉ cũn người phụ nữ xấu hổ, ngượng ngừng và cũng đầy nữ tính: *“Thị cắp hẳn cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn” * Khi nhận thấy những cái nhìn tò mò của người xung quanh, “thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước níu cả vào chân kia” + Thị ra mắt mẹ chồng trong tư thế khép nép, chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường” và tâm trạng lo âu, băn khoăn, hồi hộp. Rất đúng tâm trạng của người con dâu mới về nhà chồng. -Cử chỉ: Hiền thục đúng mực. - Nói năng: Vâng dạ, lễ phép - Thị đã tìm thấy được sự đầm ấm của gia đình nên hoàn toàn thay đổi: trở thành một người vợ đảm đang, người con dâu ngoan khi tham gia công việc nhà chồng một cách tự nguyện, chăm chỉ. - Chính chị cũng thắp lên niềm tin và hi vọng của mọi người khi kể chuyện ở Bắc Giang, Thái Nguyên phá kho thóc Nhật chia cho người đói. => Góp phần tô đậm hiện thực nạn đói và đặc biệt là giá trị nhân đạo của tác phẩm(dù 14 Hoạt động của thầy và trò - Nhân vật Tràng được tác giả giới thiệu ntn? Tràng có vợ trong hoàn cảnh nào? - Tâm trạng đầu tiên của Tràng là gì? - Cái chặc lưỡi của Tràng có những ý nghĩa gì? GVG: Bên ngoài là sự liều lĩnh, nông nổi, nhưng bên trong chính là sự khao khát hạnh phúc lứa đôi. Quyết định có vẻ giản đơn nhưng chứa đựng tình thương đối với người gặp cảnh khốn cùng. - Trên đường về nhà thái độ của Tràng thay đổi ntn? - Em hãy cho biết diễn biến tâm trạng của Tràng khi dẫn thị về nhà ra mắt mẹ? - Tâm trạng của Tràng trong buổi sáng hôm sau ntn? Nhận xét về nhân vật Tràng? GVG Những biểu hiện trong suy nghĩ và hành động của Tràng thể hiện sự thay đổi số phận và tính cách của anh. Từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Sự phục sinh trong tâm hồn. Tràng đã thấy hết giá trị lớn lao của hạnh phúc. Kiến thức cơ bản trong hoàn cảnh nào, người phụ nữ vẫn khát khao một mái ấm gia đình hạnh phúc). b. Nhân vật Tràng: - Có vẻ ngoài thô kệch, xấu xí, thân phận nghèo hèn, … - Nhưng có tấm lòng hào hiệp, nhân hậu: sẵn lòng cho người đàn bà xa lạ một bữa ăn giữa lúc nạn đói, sau đó đưa về đùm bọc, cưu mang. - Lúc đầu Tràng cũng có chút phân vân, lo lắng: “thóc gạo ...còn đèo bồng.” - Nhưng rồi, sau một cái “tặc lưỡi”, Tràng quyết định đánh đổi tất cả để có được người vợ, có được hạnh phúc. - Trên đường về: + Tràng không cúi xuống lầm lũi như mọi ngày mà "phởn phơ" khác thường, "cái mặt cứ vênh vênh tự đắc với mình". + Anh rất vui, lòng lâng lâng khó tả: “hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh” + Cũng có lúc “lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai bên kia người đàn bà” + Sự xuất hiện của người vợ như mang đến một luồng sinh khí mới: “Trong một lúc...tình nghĩa với người đàn bà đi bên”. + Lần đầu tiên hưởng được cảm giác êm dịu khi đi cạnh cô vợ mới: “Một cái gỡ mới mẻ, lạ lắm...trên sống lưng.” - Buổi sáng đầu tiên có vợ: + Tràng cảm nhận có một cái gì mới mẻ: “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra” + Tràng thay đổi hẳn: hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà, hắn thấy có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này” - Tràng biết hướng tới một cuộc sống tương lai tốt đẹp hơn: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và 15 Hoạt động của thầy và trò - Tác giả đã giới thiệu hình ảnh bà cụ Tứ như thế nào? - Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ khi Tràng đưa vợ về ra mắt mẹ? - Sau đó bà xử xự ntn với người con gái mà con trai bà mới dẫn về? Kiến thức cơ bản lá cờ đỏ bay phấp phới” => Những con người đói khát gần kề cái chết vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau và luôn có niềm tin vào tương lai. c. Bà cụ Tứ: - Một bà lão già nua, ốm yếu, lưng khòng vì tuổi tác. - Tâm trạng bà cụ Tứ: - Lúc đầu: + Khi nghe tiếng reo, nhận thấy thái độ vồn vã khác thường của con: phấp phỏng, biết có điều bất thường đang chờ đợi. + Đến giữa sân nhà, “bà lão đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn”, đặt ra hàng loạt câu hỏi:" Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? ...ai thế nhỉ?” + Bà lập cập bước vào nhà, càng ngạc nhiên hơn khi nghe tiếng người đàn bà xa lạ chào mình bằng u. - Sau lời giãi bày của Tràng. + Bà cúi đầu nín lặng, không nói và hiểu ra. Trong lòng chất chứa biết bao suy nghĩ: “Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy cũng hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”  Buồn tủi khi nghĩ đến thân phận của con phải lấy vợ nhặt.  Lo vì đói, vợ chồng nó có sống qua nổi cái nạn đói này không.  Thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới lấy đến con trai mình mà không tính đến nghi lễ cưới.  Tủi vì chưa hoàn thành bổn phận người mẹ lo vợ cho con trai. Mừng cho con trai mình có được vợ nhưng không giấu nỗi lo lắng khi nghĩ đến tương lai của con. + Nén vào lòng tất cả, bà dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình: "ừ, thôi thì các con phải duyên, phải số với nhau, u cũng mừng lòng". + Từ tốn căn dặn nàng dâu mới: 16 Hoạt động của thầy và trò - Bữa sáng hôm sau, bà cụ có những thay đổi gì? - Trong bữa cơm đầu tiên bà cụ Tứ nói những chuyện gì? – - Qua đó cho ta có cảm nhận gì về suy nghĩ của người mẹ nghèo này? - Em có nhận xét gì về bà cụ Tứ? HĐIII. Thảo luận nhóm - Nhận xét về nghệ thuật viết truyện của Kim Lân? (cách kể chuyện, cách dựng cảnh, đối thoại, nghệ thuật miêu tả tâm lí ngân vật, ngôn ngữ,…) Nhóm nhỏ: theo bàn Thời gian: 5p Kiến thức cơ bản  Bà an ủi động viên, gieo vào lòng con dâu niềm tin. + Tuy vậy, bà vẫn không sao thoát khỏi sự ngao ngán khi nghĩ đến ông lão, đứa con gái út. + Cũng như những bà mẹ nhân từ khác, lòng bà đầy thương xót cho con dâu và mong sao cho con dâu mình hoà thuận: “Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi” + “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”  Xót thương, lo lắng cho cảnh ngộ của dâu con. - Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới: +“Sáng hôm sau, bà cảm thấy “nhẹ nhỏm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” + Cùng với nàng dâu, bà thu dọn, quét tước nhà cửa, ý thức được bổn phận và trách nhiệm của mình. +Bữa cơm ngày đói thật thảm hại nhưng “cả nhà ăn rất ngon lành”  Sự xuất hiện của nàng dâu mới đã đem đến một không khí đầm ấm, hoà hợp cho gia đình. + Bà toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui, chuyện làm ăn với con dâu  tìm mọi cách để nhen nhóm niềm tin, niềm hi vọng cho các con. => Bà là một người mẹ có tấm lòng nhân hậu, bao dung, đầy hi sinh, tiêu biểu của người mẹ nghèo VN. 4. Vài nét về nghệ thuật: - Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn. - Cách kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, hấp dẫn: + Cách dẫn dắt câu chuyện tự nhiên, giản dị, chặt chẽ + Khéo léo làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật. - Dựng cảnh chân thật, sinh động, đặc sắc: cảnh chết đói, cảnh bữa cơm ngày đói,… 17 Hoạt động của thầy và trò HĐIV. Hướng dân HS tông kêt - Hãy khái quát lại bài học và tổng kết trên hai mặt: nội dung và hình thức? - HS: Dựa vào gợi ý của GV, suy nghĩ, xem lại toàn bài và phát biểu Kiến thức cơ bản - Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế nhưng bộc lộ tự nhiên, chân thật. - Ngôn ngữ nông thôn mộc mạc, giản dị, gần với khẩu ngữ nhưng được chọn lọc kĩ, tạo nên sức gợi III. Tổng kết: 1. Nội dung: - Giá trị nhân đạo: Truyện thể hiện được thảm cảnh của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945. - Giá trị nhân đạo: Đặc biệt thể hiện được tấm lòng nhân ái, sức sống kì diệu của con người ngay bên bờ vực thẳm của cái chết vẫn hướng về sự sống và khát khao tổ ấm gia đình. 2. Nghệ thuật: Vợ nhặt tạo được một tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, đối thoại sinh động. C. Củng cố - Hướng dẫn tự học: - Tóm tắt truyện và phân tích ý nghĩa nhan đề "Vợ nhặt" - Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ - Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 1.Trước khi thực hiện: - Học sinh tiếp nhận tác phẩm còn thiếu tính tích cực chủ động. - Học sinh chưa mạnh dạn trình bày và phát biểu ý kiến cũng như những cảm nhận của học sinh về nhân vật, nhà văn. - Sức sống của tác phẩm thiếu bề rộng và chiều sâu trong tâm hồn các em. - Cụ thế: Lớp Số lượng 12T9 34 Giỏi SL 0 Khá % % SL 10 % 34% Trung bình SL 19 % 55,88% Yếu SL 5 % 14,7% 2. Sau khi thực hiện: Sau gần một năm thực hiện ở khối lớp 12, kết quả đạt được: Bài giảng đã phát huy và vận dụng có hiệu quả những kiến thức lí luận văn học và làm văn trong một giờ giảng tự sự. Đó là thành công đáng ghi nhận qua việc thực hiện đề 18 tài. Từ đó học sinh được củng cố một hướng đi đúng khi tìm hiểu tác phẩm văn chương: phân tích theo đặc trưng thể loại. Ngoài ra, giờ giảng văn bài “Vợ nhặt "do chúng tôi thực hiện cũng gợi hứng thú ở các em khi gợi lên chất văn tiềm ẩn, khả năng cảm thụ, thẩm thấu trong mỗi em...Giờ học thực sự thú vị khi: học sinh hăng hái phát biểu, ý kiến của mỗi em ít nhiều đã có nét riêng sáng tạo, có em đưa ra cách hiểu mới lạ, táo bạo và có cơ sở. Học sinh đã có thể tự phát hiện, khám phá ra cách nhìn, cách cảm nghĩ riêng độc đáo của nhà văn, thích hợp với chuẩn mực giá trị cá nhân và chuẩn mực giá trị văn hóa xã hội. Nhờ đó chức năng giáo dục thẩm mĩ của nhà văn được khơi sâu. Cụ thể: Lớp Số lượng 12T9 34 Giỏi SL 5 % 14,70% Khá SL 14 % 41,17% Trung bình SL 15 % 44,12% Yếu SL 0% % 0% C. KẾT LUÂN. I. Bài học kinh nghiệm Dạy Văn thật khó, rất khó, nhất lại là dạy văn cho HS lớp 12, ở lứa tuổi 18,19 – ngưỡng cửa của tuổi trưởng thành với bao biến động tâm lí tinh tế, phức tạp. Nếu chỉ thuyết giảng kiến thức văn chương theo kiểu “rót nước” thì chưa đủ mà người thầy cần xây dựng lối dạy riêng, với những phương pháp thích hợp. Bài học kinh nghiệm – theo thiết nghĩ của tôi rút ra qua đề tài này là: 1. Kết hợp hài hòa kiến thức tiếng Việt, Làm văn, Lí luận văn học với giảng văn cho HS. Muốn học tốt trước hết cần củng cố cho các em kĩ năng về phân tích nhân vật trong các tác phẩm tự sự, đặc biệt là cách tìm hiểu các nhân vật thiên về đời sống nội tâm chứ không phải các nét tính cách trọn vẹn, đầy đặn. Nên lưu ý điều này trong các giờ ôn tập tiến tới chuẩn bị thi tốt nghiệp (và thi chuyên nghiệp). 2. Nhất thiết HS phải soạn bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Để kiểm tra đôn đốc việc này có thể giao cho cán bộ lớp, cán sự bộ môn. Cuối mỗi kì, GV có thể thu, chấm điểm của một số em nhằm nhắc nhở động viên. 3. Cần tính đến sự vừa sức với các đối tượng HS trong quá trình giảng dạy để điều chỉnh dung lượng kiến thức và phương pháp lên lớp hợp lí. Chẳng hạn với các lớp khối A,B, nên hạn chế những vấn đề khó, sử dụng vừa phải các câu hỏi cảm thụ, phân tích…mà tăng lờn những câu hỏi gợi mở, phát hiện chi tiết… Ngay trong một lớp học cũng cần có sự phân loại HS nhằm tạo ra những tiết học hấp dẫn, tránh tình trạng thấy quá nhàm chán – “biết rồi khổ lắm nói mãi” hoặc lơ mơ không hiểu kiểu “vịt nghe sấm”. Muốn vậy có thể đưa ra kiến thức hợp với trình độ của đa số HS trong lớp, với các em khá, giỏi GV gợi ý để các em tự khám phá bộc lộ mình (ngay trên lớp hoặc tiếp tục về nhà suy nghĩ) qua việc đặt giả thiết, tình huống nào đó… 4. Tăng cường sử dụng câu hỏi tái tạo, câu hỏi nêu vấn đề, xoáy vào các điểm sáng thẩm mĩ trong tác phẩm, ở nhân vật với hai mục đích: 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất