SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT TRIỆU SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VIỆC DẠY HỌC TÍCH HỢP CÁC KIẾN THỨC
ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thủy
Chức vụ:
Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường TH Triệu Thành
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lí
THANH HOÁ NĂM 2017
1
MỤC LỤC
MỤ
C
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2
NỘI DUNG
TRANG
Lời mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
- Giải pháp 1: Nâng cao kiến thức địa lí về mùa và các
tháng trong từng mùa của năm cho GV để sửa sai kiến thức
gợi ý ở BT1 –Trang 2 Vở bài tập TV2 tập 2
- Giải pháp 2: Nâng cao hiệu quả việc dạy tích hợp các kiến
thức khoa học, lịch sử, địa lí trong dạy học Tiếng Việt cho
học sinh trong một số bài học khác
- Giải pháp 3: Nâng cao kiến thức liên môn cho GV về các
lĩnh vực khoa học, lịch sử, địa lí, kĩ thuật, … để GV có thể
tự tin giảng dạy các kiến thức này khi dạy học Tiếng Việt
theo quan điểm tích hợp.
- Giải pháp 4: Tạo môi trường dân chủ, đối thoại giữa thầy
với trò, trò với trò.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
1
1
2
2
2
2
2
3
4
4
6
7
8
8
9
9
9
2
1. Mở đầu
1.1Lí do chọn đề tài
Từ lâu, việc tích hợp các kiến thức khoa học tự nhiên (như Toán học, Vật
lí, Hóa học) và khoa học xã hội (như Lịch sử, Địa lí, …) vào dạy học Tiếng Việt
đã được các nhà soạn sách giáo khoa rất chú trọng nhằm nâng cao sự hiểu biết
về thế giới xung quanh cho học sinh lại tiết kiệm thời gian và gây được hứng thú
học tập cho các em bởi học sinh – nhất là học sinh tiểu học vốn rất tò mò và ham
hiểu biết. Bởi vậy, việc dạy tích hợp kiến thức các môn học vào môn Tiếng Việt
là rất phù hợp không chỉ bởi thời lượng dành cho môn Tiếng Việt chiếm hơn
30% thời lượng chương trình dạy học mà còn bởi việc dạy tích hợp kiến thức
khoa học vào với việc dạy học Tiếng Việt sẽ giúp việc tiếp thu kiến thức của học
sinh nhẹ nhàng hơn, không căng thẳng hay khô cứng như khi học bài riêng rẽ
theo môn học.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó không phải dễ, nhất là các kiến thức
tự nhiên, lịch sử, địa lí vốn cần sự hiểu biết sâu, rộng của giáo viên thì mới có
thể dạy kiến thức cho học sinh một cách chính xác; không nên dạy theo quan
niệm truyền miệng hay suy đoán theo cảm nhận chủ quan của giáo viên. Chỉ cần
giáo viên hiểu sai vấn đề thì lập tức sự truyền thụ kiến thức sẽ làm “hỏng” cả
một thế hệ học sinh vì niềm tin khi tiếp nhận thông tin lần đầu tiên thường là
niềm tin vững chắc nhất rất khó xóa mờ hay thay đổi bởi những thông tin trái
chiều sau đó mặc dù có thể những thông tin tiếp nhận lần sau mới là thông tin
chính xác.
Trong chương trình SGK TH hiện hành, ở môn Tiếng Việt ta có thể thấy
tất cả các chủ điểm đều được thể hiện rõ quan điểm tích hợp kiến thức liên môn
(Khoa học, Lịch sử, Địa lí) khi dạy học Tiếng Việt, đặc biệt là các chủ điểm
như: Bốn mùa, Chim chóc, Muông thú, Sông biển, Cây cối (Lớp 2); Bầu trời và
Mặt đất, Bắc – Trung - Nam (Lớp 3); Khám phá thế giới (Lớp 4); Nhớ nguồn
(Lớp 5), ... Ngay tên gọi chủ điểm cũng đã giúp chúng ta phần nào thấy được sự
tích hợp kiến thức liên môn đó. Đi sâu vào từng bài học, chúng ta càng thấy rõ
sự tích hợp kiến thức thể hiện nhẹ nhàng, sâu lắng qua nội dung bài đọc; qua sự
phân tích, giảng giải của giáo viên. Tôi rất tâm đắc cách xây dựng chương trình
và nội dung môn Tiếng Việt theo quan điểm như vậy.
Tuy nhiên, trong quá trình dự giờ thao giảng của giáo viên và sau đó phát
phiếu hỏi trắc nghiệm với nội dung: “Theo đồng chí, mùa xuân gồm những
tháng nào trong năm? Tương tự với các mùa khác?” thì tất cả GV đều trả lời:
“Mùa xuân gồm các tháng Giêng, tháng Hai, tháng Ba; ba tháng tiếp theo là
mùa hạ, và cứ như vậy 3 tháng cuối năm gồm tháng Mười, tháng Một và tháng
Chạp là mùa đông”, tôi phát hiện ra một điều đặc biệt nghiêm trọng là: Hầu như
GV còn nhầm lẫn giữa kiến thức khoa học với quan niệm truyền miệng trong
dân gian nên trong quá trình dạy học còn truyền thụ cho học sinh hoặc là qua
loa, máy móc theo chú giải trong SGK, hoặc là theo sự suy đoán cảm nhận của
bản thân thông qua sự “nghe nói” từ người khác. Nguyên nhân là do GV tiểu
3
học được đào tạo theo mô hình “Ông thầy tổng thể” (cái gì cũng biết một tí
nhưng không sâu, nhiều khi nắm không vững, không chắc); nguyên nhân thứ hai
do tài liệu hướng dẫn giảng dạy ở các nhà trường còn thiếu nhiều, việc tìm kiếm
kiến thức để nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực trên chủ yếu GV phải tìm trên
Internet nhưng không phải nguồn nào cũng đáng tin cậy; nguyên nhân thứ ba là
do GV quá tin tưởng vào người biên soạn sách cộng với kiến thức của mình lơ
mơ nên không phát hiện ra cái sai của sách. Chính vì vậy, tôi rất băn khoăn, trăn
trở khi phát hiện ra một số kiến thức về khoa học, lịch sử, địa lí được tích hợp
trong môn Tiếng Việt không chỉ bị GV hiểu sai, dạy sai về kiến thức mà ngay cả
người biên soạn sách cũng gợi ý sai cho giáo viên. Đặc biệt là nội dung bài dạy
Luyện từ và câu (Tiết 1 – Tuần 19 – SGV TV2 Tập 2 trang 8) (Tôi sẽ nói kĩ hơn
ở phần thực trạng). Sau thời gian nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp và chỉ
đạo chuyên môn, tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề: “Một số biện pháp chỉ đạo nâng
cao hiệu quả việc dạy học tích hợp các kiến thức địa lí tự nhiên trong dạy
học Tiếng Việt cho học sinh tiểu học” để đồng nghiệp và các nhà giáo dục xem
xét, nghiên cứu, khắc phục hiện trạng và rút kinh nghiệm cho việc xây dựng
chương trình và biên soạn sách giáo khoa mới ở giai đoạn tiếp theo.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Từ việc tìm ra những sai sót về kiến thức và những hạn chế trong quá
trình dạy tích hợp liên môn của chương trình SGK TV tiểu học để tìm ra cách
điều chỉnh dạy học cho đúng kiến thức và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả việc dạy học tích hợp các kiến thức địa lí tự nhiên trong dạy học Tiếng Việt
cho học sinh tiểu học.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sự thể hiện quan điểm tích hợp kiến thức địa lí tự nhiên trong
chương trình TV tiểu học, ở từng bài học cụ thể và các phương pháp nâng cao
hiệu quả việc dạy học tích hợp ấy trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết; PP điều tra khảo sát thực tế, thu
thập thông tin; PP thống kê, xử lý số liệu; PP thực hành; Tổng kết kinh nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Mục tiêu môn Tiếng Việt ở Tiểu học được chương trình SGK hiện hành
đưa ra là:
1. Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói,
đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi
Thông qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư
duy.
2. Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con
người, về văn hóa Việt Nam và nước ngoài.
3. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sang, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam XHCN.
4
Các mục tiêu trên dược cụ thể hóa thành những yêu cầu về kiến thức, kĩ
năng đối với học sinh được quy định ở Chuẩn kiến thức kĩ năng từng khối lớp.
[1]
([1] SGV TV 5 – Tập 1)
Từ cơ sở lí luận trên, ta thấy quan điểm tích hợp khi dạy học Tiếng Việt
tiểu học được thể hiện rõ trong mục tiêu dạy học kéo theo nội dung chương trình
và phương pháp dạy học TV.
2.2Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a) Những lỗi sai khi dạy mở rộng vốn từ về năm tháng và các mùa trong
năm:
GV và cả tài liệu tham khảo (Vở bài tập TV2) còn nhầm lẫn kiến thức về
mùa và thời gian trong từng mùa khi dạy cho HS.
Ví dụ: Bài tập về các tháng và các mùa trong năm được thể hiện qua tiết
dạy LTVC lớp 2:
Ở Bài tập 1 (Tiết 1 – Tuần 19 – Luyện từ và câu Lớp 2 – trang 8/SGK
TV2 Tập 2) chúng ta thấy có :
Em hãy kể tên các tháng trong năm. Cho biết mỗi mùa xuân, hạ, thu, đông
bắt đầu từ tháng nào, kết thúc vào tháng nào.
Ở vở bài tập TV2 tập 2 còn ghi rõ yêu cầu: nối tên tháng với tên từng mùa
M: Tháng giêng
Tháng hai
Mùa xuân
Tháng ba
……………….
……………….
……………….
Mùa hạ
……………….
……………….
……………….
Mùa thu
……………….
……………….
Mùa đông
……………….
Tôi thấy đề bài này ở cả SGK và VBT TV2 tập 2 đều không ổn, cụ thể:
Phần lệnh thứ nhất: “Kể tên các tháng trong năm” chưa yêu cầu rõ học sinh
kể tên các tháng theo năm Dương lịch hay Âm lịch vì thực tế đang tồn tại cả
lịch dương và lịch âm.
Phần lệnh thứ 2: “Cho biết mỗi mùa xuân, hạ, thu, đông bắt đầu từ tháng
nào, kết thúc vào tháng nào”/ “nối tên tháng với tên từng mùa”. M (Mẫu) cung
cấp cho học sinh: Tháng giêng, tháng hai, tháng ba được nối với Mùa xuân
nghĩa là Mùa xuân gồm các tháng trên. Nếu xét về mặt kiến thức Địa lí thì Mẫu
trên hoàn toàn không ổn. Bởi vì, cách hiểu trên chỉ áp dụng theo quan niệm
truyền thống theo năm âm lịch của ông cha ta thì tháng Giêng là tháng mở đầu
của mùa xuân và ngày Mùng 1 Tết là ngày mở đầu của mùa xuân, mà mỗi mùa
có 3 tháng nên các tháng Giêng, Hai, Ba là thuộc mùa xuân. Nhưng “âm lịch
không phản ánh thực đúng sự biến thiên của thời tiết. Do đó, người ta tính ngày
5
“lập xuân” là ngày bắt đầu của mùa xuân. Lập xuân là ngày đầu của 24 tiết khí.
Nó cố định vào ngày 4 hoặc 5 tháng 2 dương lịch. Như vậy, M trên chưa chính
xác về kiến thức địa lí nhưng vì tin vào người viết sách, tài liệu lại được in bởi
Nhà xuất bản Giáo dục nên các khi dạy bài này GV mặc nhiên tin rằng M đó
đúng và cứ theo lô gic đó ta dễ dàng lắp các tháng còn lại trong năm, cứ 3 tháng
1 mùa, tháng 12 (tháng chạp là tháng cuối cùng của mùa đông)
Mặt khác, hầu như tất cả GV tiểu học khi giảng dạy bài này thì đều quan
niệm: Mẫu trên là đúng vì cả truyền hình, báo chí xưa nay đều nói rằng: Ngày
Mùng 1 Tết Nguyên đán là ngày mở đầu của mùa xuân nên hiển nhiên 3 tháng
Giêng, Hai, Ba là thuộc mùa xuân, tiếp theo các tháng Tư, Năm, Sáu là mùa hạ;
các tháng Bảy, Tám, Chín thuộc mùa thu và các tháng Mười, Một, Chạp là thuộc
mùa đông. Quan niệm trên được các nhà biên soạn sách công nhận và được áp
dụng giảng dạy từ trước đến nay nên hết thế hệ học sinh này đến thế hệ học sinh
khác đều xem là đúng. Khi học lên các lớp trên, các em sẽ ngỡ ngàng đặt câu
hỏi: Vậy có phải các thầy cô tiểu học dạy sai cho mình không?
b) Xảy ra tình trạng trên còn bởi thực trạng GV tiểu học tuy là “ông thầy
tổng thể” (môn học nào cũng được đào tạo) nhưng không được đào tạo kiến thức
chuyên sâu từng môn nên dẫn đến tình trạng có nhiều GV nắm hời hợt kiến
thức, nhất là kiến thức những môn khó như: Khoa học, Lịch sử, Địa lí, TN-XH,
… Bởi vậy, khi dạy học các kiến thức này, thường GV không tìm hiểu kĩ càng
kiến thức nên khi dạy không xử lí thấu đáo vấn đề, xảy ra tình trạng dạy lướt,
dạy qua loa, nhiều khi dạy theo quan niệm dân gian dẫn đến sai kiến thức hàn
lâm mà không biết mình sai.
c) Kiến thức tích hợp trong các tiết dạy TV chiếm thời lượng ít nên GV
thường ít chú trọng nên hiệu quả việc dạy tích hợp không cao.
d) Theo tâm lí nhút nhát của HS Việt Nam, nhất là HS nông thôn, miền núi
thì việc đối thoại giữa trò và thầy hầu như mới chỉ có một phía theo hướng “thầy
hỏi – trò trả lời” chứ hầu như ít có trường hợp học sinh tự đặt vấn đề thắc mắc
yêu cầu GV giải đáp, dẫn đến chưa kích thích GV tự tìm hiểu sâu kiến thức để
xử lí các tình huống có vấn đề trên lớp vì GV thường nghĩ rằng kiến thức trong
từng bài học thì SGV đã hướng dẫn hết, không cần phải tìm hiểu thêm. Bởi vậy,
kiến thức GV chưa được nâng lên vì chưa có quá trình tự học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Giải pháp 1: Nâng cao kiến thức địa lí về mùa và các tháng trong từng
mùa của năm cho GV để sửa sai kiến thức gợi ý ở BT1 –Trang 2 Vở bài tập
TV2 tập 2
Ở bài tập trên, với phần lệnh thứ nhất: “Kể tên các tháng trong năm” thì
GV vẫn để nguyên câu lệnh cho HS phát huy vốn hiểu biết của mình và kể tên
từng tháng trong năm. Sau đó, tùy theo câu trả lời của HS mà GV xử lí tình
huống và tung thêm kiến thức cho HS.
Ví dụ: nếu HS kể tên các tháng trong năm như: 1 năm có 12 tháng: tháng
Một, tháng Hai, tháng Ba, tháng Tư, tháng Năm, tháng Sáu, tháng Bảy, tháng
Tám, tháng Chín, tháng Mười, tháng Mười Một, tháng Mười Hai thì GV công
nhận HS đã kể đúng và nói thêm: “Đây là các tháng tính theo năm Dương lịch
hiện nhà nước đang áp dụng lịch Dương lịch để lên lịch khai giảng năm học,
6
nghỉ hè, nghỉ lễ và lên lịch thời gian làm việc hành chính nhà nước cho cán bộ,
công nhân viên đi làm hàng ngày…” và hỏi thêm: “Còn bạn nào biết các tên gọi
khác của một số tháng trong năm âm lịch nữa không?” để HS kể tên các tháng
theo âm lịch như VBT đã gợi ý. GV có thể bổ sung thêm: “Theo năm âm lịch thì
người ta còn gọi tháng 1 là tháng Giêng, tháng 11 âm lịch là tháng Một và
tháng 12 âm lịch gọi là tháng Chạp, các tháng còn lại gọi tên như tháng dương
lịch” để mở rộng vốn từ cho HS.
Ở phần lệnh thứ 2, để có thể dạy tích hợp kiến thức địa lí tự nhiên về mùa
và các tháng trong từng mùa cho học sinh một cách chính xác thông qua việc
dạy mở rộng vốn từ Tiếng Việt ở bài tập này, tôi đã đưa ra cách giải quyết như
sau:
Thứ nhất: Sau khi khảo sát, tôi nắm được đa số GV đã hiểu sai kiến thức về
tháng và mùa như trên, tôi đã tổ chức họp chuyên môn thảo luận về vấn đề này
theo chuyên đề “Nâng cao hiệu quả việc dạy học tích hợp các kiến thức địa lí
tự nhiên trong dạy học Tiếng Việt cho học sinh tiểu học”. Tôi đã phân tích
cho GV hiểu được lỗi sai trong M của Vở Bài tập TV 2 khi dạy tích hợp giữa
kiến thức về năm, tháng và các mùa trong năm với việc dạy mở rộng vốn từ
Tiếng Việt. Cụ thể:
Nhiều người cho rằng, dựa vào âm lịch để tính tiết khí, nhưng trên thực tế
lại dựa vào dương lịch để tính tiết khí, đó là sáng tạo mà tổ tiên ta đã áp dụng để
bù đắp vào chỗ khiếm khuyết của âm lịch đã không phản ánh được biến thiên về
mùa vụ của thiên nhiên.
Đông chí và xuân phân cách nhau 91 ngày, lập xuân ở vào giữa 2 tiết khí
này tức là sau đông chí 45 ngày nếu chỉ căn cứ vào vấn đề của quả đất về thiên
văn học thì lập xuân coi là bắt đầu của mùa xuân đại để là chính xác, vì rằng, lúc
này ánh sáng mặt trời đang từ vị trí cực nam quá độ chuyển vào vị trí ở chính
giữa, tức là giai đoạn quá độ từ mùa đông sang mùa xuân. Nhưng nếu tính toán
như vậy thực tế vẫn chưa phù hợp với biến đổi của thời tiết. Vấn đề là ở chỗ
nào? Khi chúng ta cảm thấy thời tiết nóng hay lạnh không phải chịu ảnh hưởng
trực tiếp bởi góc độ ánh sáng mặt trời biến đổi mà biến đổi theo, mà là sau khi
ánh sáng mặt trời chiếu xạ xuống mặt đất, nhiệt lượng phóng ra nhiều hay ít mà
làm thay đổi độ nóng lạnh. Bản thân quả đất là một dung khí giữ nhiệt từ sau
xuân phân (22 tháng 3 dương lịch, mặt trời ngày càng cao lên, mặt đất ngày
càng tiếp nhận nhiệt năng đến hạ chí (22 tháng 6) là đỉnh điểm. Nhưng mặt đất
phải mất từ 1-2 tháng mới tích luỹ đủ nhiệt lượng, khiến nhiệt độ ở bắc bán cầu
đạt tới điểm cao nhất, vì vậy ở bắc bán cầu, những ngày nóng nhất không phải là
tháng 6 mà là tháng 7, tháng 8. Đến mùa đông, mặt trời từ phía nam chiếu chếch
xuống mặt đất, mặt đất bắt đầu mất đi nhiệt lượng, thu không đủ chi, đến đông
chí (ngày 22 tháng 12 dương lịch) mặt trời ở vị trí cực nam, nhưng phải chờ 1-2
tháng sau bắc bán cầu mới hết nhiệt lượng, nhiệt độ xuống tới mức thấp nhất,
lúc này đúng vào tiết lập xuân, vì vậy mùa đông thường đến lập xuân mới là
lạnh nhất. Nếu lấy nhiệt độ biến đổi để quyết định mùa tiết, thì bắt đầu mùa
xuân phải là sau trung tuần tháng 3, lúc này đúng là xuân phân (22 tháng 3
dương lịch) vì vậy ngành thiên văn học lấy ngày này là ngày bắt đầu của mùa
7
xuân, rồi lấy hạ chí là bắt đầu của mùa hạ, thu phân là bắt đầu của mùa thu, đông
chí là bắt đầu của mùa đông”. [2]
([2]Theo Lê Thị Lan (Đài TNVN Xuân 2006)Báo Vietnam Net cập nhật lúc
12:26’ ngày 18.01.2006)
Theo sự phân tích trên thì:
+ Nếu dựa vào tiết khí trong năm thì ngày Lập xuân (mùng 4 hoặc mùng 5 tháng
hai) là ngày bắt đầu mùa xuân nên tháng đầu tiên của mùa xuân là tháng hai
(dương lịch). Vậy mùa xuân gồm các tháng 2, 3, 4; mùa hạ gồm các tháng 5, 6,
7; mùa thu gồm các tháng , 8, 9, 10 và mùa đông gồm các tháng 11, 12, 1 hàng
năm (Tính theo Dương lịch).
+ Còn nếu dựa vào nhiệt độ để quy định đặc điểm của từng mùa thì mùa xuân
bắt đầu từ ngày Xuân phân (ngày 22 tháng 3 dương lịch) nên mùa xuân gồm các
tháng 3, 4, 5; mùa hạ gồm các tháng 6, 7, 8; mùa thu gồm các tháng 9, 10, 11 và
mùa đông gồm các tháng 12, 1, 2 hàng năm (Tính theo Dương lịch).
Thứ hai: Hướng dẫn GV cách sửa đề bài sao cho phù hợp với trình độ học
sinh:
Với trình độ học sinh lớp 2, để các em dễ hiểu, tôi thay lệnh trên bằng lệnh:
“Theo em, những tháng nào có đặc điểm thời tiết ấm áp của mùa xuân, những
tháng nào có thời tiết nóng nực của mùa hè, những tháng nào thời tiết mát mẻ
như mùa thu và những tháng nào thời tiết lạnh giá của mùa đông?”. Sau đó yêu
cầu học sinh thảo luận nhóm rồi nêu kết quả. GV nhận xét, kết luận: thường các
tháng Hai, Ba, Tư có đặc điểm thời tiết ấm áp của mùa xuân; các tháng Năm,
Sáu, Bảy có đặc điểm thời tiết nóng nực của mùa hè; các tháng Tám, Chín,
Mười có đặc điểm thời tiết mát mẻ của mùa thu và các tháng Mười một, tháng
Mười hai và tháng Một có đặc điểm thời tiết lạnh giá của mùa đông (tính theo
tháng Dương lịch).
Hoặc nếu dựa theo nhiệt độ của từng tháng thì học sinh có thể xếp mùa
xuân gồm các tháng 3, 4, 5; mùa hạ gồm các tháng 6, 7, 8; mùa thu gồm các
tháng 9, 10, 11 và mùa đông gồm các tháng 12, 1, 2 hàng năm (Tính theo Dương
lịch) đều chấp nhận được.
Như vậy HS lớp 2 cũng có thể hiểu: Những tháng nào là bắt đầu và kết thúc
của mỗi mùa trong năm theo đúng đặc điểm thời tiết đặc trưng của mỗi mùa ở
Việt Nam.
Giải pháp 2: Nâng cao hiệu quả việc dạy tích hợp các kiến thức địa lí
tự nhiên trong dạy học Tiếng Việt cho học sinh trong một số bài học khác
Ví dụ 1: Bài Nắng phương Nam (Trang 94 – TV3 tập 1)
Khi cho HS tìm hiểu nội dung bài này, GV nên cho HS tìm hiểu thêm về sự
khác nhau của khí hậu và thời tiết giữa hai miền Nam – Bắc: Miền Bắc thường
có thể cảm nhận được sự phân chia thời tiết rõ rệt giữa bốn mùa Xuân – Hạ Thu – Đông (như đã học ở lớp 2) nhưng khí hậu miền Nam hầu như nắng quanh
năm, chỉ chia thành hai mùa cơ bản là mùa mưa và mùa khô. Bởi vậy, cùng đón
Tết Nguyên đán nhưng miền Bắc thì rét mướt và có mưa bụi ẩm ướt còn miền
Nam vẫn có nắng vàng rực rỡ, ban ngày nắng nóng như mùa hè, ban đêm hơi se
lạnh một chút. Khi học sinh hiểu được điều đó thì mới thấy được ý nghĩa tốt đẹp
của món quà tặng mà các bạn miền Nam muốn gửi cho các bạn miền Bắc: “Một
8
cành mai chở nắng phương Nam”. Cuối bài, GV có thể hát hoặc mở Youtobe
cho HS nghe bài hát: “Gửi nắng cho em” (Nhạc và lời của Phạm Tuyên) để các
em hiểu hơn về bài học và thêm yêu quê hương mình.
Ví dụ 2: Bài Hơn một nghìn ngày vòng quanh trái đất (Trang 114 –
TV4 tập 2)
Khi dạy bài này, muốn học sinh hình dung được tính xác thực trong câu kết
của bài: “Nhưng đoàn thám hiểm đã hoàn thành sứ mạng, khẳng định trái đất
hình cầu, phát hiện Thái Bình Dương và nhiều vùng đất mới.” thì GV cần chuẩn
bị Bản đồ thế giới, quả Địa cầu hoặc hình ảnh trình chiếu Power Point để minh
họa cho HS thấy được vị trí của các đại dương, các đảo và chỉ con đường đi của
Ma-gien-lăng trong hành trình hơn 1000 ngày vòng quanh trái đất của ông khi
cho HS trả lời câu hỏi 3 và 4 (SGK). Từ đó, giúp các em có niềm tin vững chắc
hơn vào các kiến thức trên được học mở rộng sau này.
Ví dụ 3: Bài Cửa sông (Trang 74 – SGK TV 5 tập 2)
Khi dạy bài này, học sinh cần nắm rõ khái niệm: “cửa sông” thì mới có thể
cảm nhận được hết vẻ đẹp của cửa sông được mô tả trong bài thơ. Muốn học
sinh hiểu rõ được khái niệm này, GV không chỉ cho HS tìm hiểu phần giải nghĩa
từ ở chú giải mà còn nên cho HS quan sát các con sông trên Lược đồ địa lí tự
nhiên sau đó minh họa hình ảnh cửa sông bằng tranh ở SGK. Nhờ sự nhất quán
trong giảng dạy mà tạo được niềm tin vững chắc cho các em.
Giải pháp 3: Nâng cao kiến thức liên môn cho GV về các lĩnh vực khoa
học, lịch sử, địa lí, kĩ thuật, … để GV có thể tự tin giảng dạy các kiến thức
này khi dạy học Tiếng Việt theo quan điểm tích hợp.
Muốn nâng cao kiến thức nền cho mình, bản thân mỗi giáo viên cần tích
cực tự học, tự bồi dưỡng qua tìm hiểu kiến thức ở sách báo, báo mạng, các
chương trình trên ti vi và qua các chuyên đề, các cuộc họp chuyên môn nhà
trường. Để nâng cao tính tự học của GV, khi duyệt giáo án đầu tuần tôi thường
xem xét rất kĩ bài soạn của GV và hỏi GV những bài có kiến thức khó, có sự
tích hợp cao và khuyến khích GV mạnh dạn nêu vấn đề còn băn khoăn, thắc mắc
để chuyên môn tìm hướng giải đáp. Những vấn đề nào chưa thể trả lời ngay cần
phải nghiên cứu thêm hoặc những vấn đề mà GV còn nắm chưa chắc chắn hoặc
xử lí tình huống theo hướng sai phổ biến thì tôi sẽ tổ chức họp chuyên môn để
làm sáng tỏ vấn đề một cách nhanh nhất, khoa học nhất. Ví dụ như ở trường hợp
bài tập 1 trong bài LTVC lớp 2 về các tháng và các mùa trong năm (đã phân tích
ở trên) thì nhất thiết phải đưa ra vấn đề này trong cuộc họp chuyên môn, làm
cho GV hiểu một cách thấu đáo kiến thức như tôi đã trình bày ở phần thực trạng
và hướng dẫn cho GV cách giải quyết như phần giải pháp (đã nêu ở trên).
Mặt khác, tôi cũng làm cho GV thấy được tầm quan trọng của sự gắn bó
chặt chẽ và liên quan giữa kiến thức các môn học và việc dạy tích hợp kiến thức
ấy trong môn Tiếng Việt là cần thiết bởi nó vừa giúp nâng cao sự hiểu biết của
học sinh lại tiết kiệm thời gian nên khi dạy học cần đảm bảo sự nhất quán và
chính xác kiến thức cho dù thời lượng dành cho kiến thức tích hợp liên môn
không nhiều nhưng nhất thiết GV cần chú trọng dạy đúng, dạy đủ, không được
dạy qua loa, đại khái.
9
Giải pháp 4: Tạo môi trường dân chủ, đối thoại cởi mở giữa thầy với
trò, trò với trò để kích thích sự thể hiện của HS và sự tự học của GV.
GV cần tạo cơ hội cho HS được thoải mái trình bày những quan điểm, băn
khoăn, thắc mắc của mình, được phép tranh luận với GV và các bạn (miễn là
thái độ tích cực, xưng hô lễ phép, thân mật và biết kiềm chế). Từ đó cô trò cùng
tìm ra những sai sót không đáng có trong từng bài học và trong suốt chương
trình SGK hiện hành và tìm phương án khắc phục. Nhờ vậy, HS có thể hiểu sâu,
nhớ lâu các vấn đề đã tranh luận. Nhưng muốn thực hiện được việc đối thoại
giữa thầy với trò đạt hiệu quả cao và nâng cao được uy tín cho GV thì khi soạn
giáo án bắt buộc GV phải tìm hiểu kĩ các kiến thức liên quan đến bài học để có
thể giải đáp thấu đáo các thắc mắc của học sinh và xử lí tốt các tình huống phát
sinh trong giờ dạy.
Nghe giải pháp này thì có vẻ đã cũ nhưng lại có hiệu quả cao trong thực tế.
Chương trình và SGK hiện hành cũng đã đề cao yêu cầu GV thực hiện điều này
nhưng thực tế thì việc thực hiện chưa có hiệu quả vì HS Việt Nam vốn nhút
nhát, chưa có kĩ năng và thói quen tự học, tự trao đổi trong nhóm nên GV cũng
khó khăn khi tổ chức cho HS thực hiện thảo luận. Khi tổ chức thảo luận nhóm,
để tiết kiệm thời gian, GV thường giao việc điều khiển thảo luận nhóm do một
vài em có thành tích học tập tốt nhất điều khiển. Bởi vậy những em học kém
thường không có ý kiến gì nên thực chất việc thảo luận nhóm là sự hoạt động
tích cực của một vài cá nhân. Để khắc phục nhược điểm trên trong quả trình
thảo luận nhóm hay cả lớp, tôi thường khuyến khích tất cả HS phát biểu, gợi ý
cho các em mạnh dạn trình bày quan điểm của mình, không chê khi các em nói
sai mà chỉ nói nhẹ nhàng khi các em nói không trúng vấn đề: “Ý kiến của em rất
mới và rất đáng khen khi bạn đã mạnh dạn nêu ra, có thể nó chưa phù hợp với
vấn đề hôm nay nhưng cô tin rằng nếu các em cứ tích cực suy nghĩ và mạnh dạn
trình bày những băn khoăn, thắc mắc của mình thì các em sẽ tiến bộ”. Nhờ sự
khuyến khích khéo léo và kịp thời như vậy nên sau đó hầu hết HS nào cũng
mạnh dạn trao đổi, thảo luận. Nhiều khi, chúng ta phát hiện ra những vấn đề
mới, kể cả sự sai sót, thiếu hụt của bản thân chúng ta từ học sinh. Đúng như ai
đó đã từng nói: “Tôi học được ở thầy tôi rất nhiều, học được ở bạn tôi nhiều
hơn và học được ở học sinh tôi nhiều nhất!”
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Sau khi được nghe tôi báo cáo SKKN này trước HĐKH, phân tích, giảng
giải và lấy dẫn chứng bằng những bài báo và tư liệu đáng tin cậy thì nhận thức
của GV trường tôi đã thay đổi.
Thứ nhất: GV trường tôi đều nắm vững kiến thức và áp dụng hiệu quả trong
việc dạy học. Họ cũng đã nhận thức được cần phải chỉnh sửa, bổ sung hoặc thay
thế ngữ liệu một số vấn đề mà SGK hoặc VBT còn sai sót hoặc chưa phù hợp
với thực tế để phù hợp với quá trình giảng dạy. Không nên quá tin vào ngữ liệu
trong SGK, chỗ nào còn băn khoăn, thắc mắc thì phải hỏi ngay chuyên môn để
được giải đáp kịp thời. Có như vậy, trình độ chuyên môn của GV mới thực sự
được nâng lên và nâng cao được hiệu quả giảng dạy bởi “Chất lượng GV quyết
định chất lượng HS”.
10
Thứ hai: Mỗi khi dạy tích hợp các kiến thức về khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội vào dạy học Tiếng Việt thì mỗi GV cũng đã chú trọng hơn trong việc
nghiên cứu, đọc sách, tìm tài liệu để tìm ra kiến thức cần áp dụng, đồng thời mở
rộng hiểu biết của bản thân GV, từ đó lên lớp tự tin và kết quả dạy học cũng
nâng lên rõ rệt. Đặc biệt, không còn ai mắc những lỗi cơ bản như đã trình bày ở
thực trạng nữa.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận
Vấn đề tôi trình bày ở SKKN này đã áp dụng có hiệu quả vào thực tế giảng
dạy ở trường tôi, là vấn đề thực tế liên quan đến kiến thức khoa học nên cần độ
chính xác cho dù việc dạy tích hợp các kiến thức liên môn vào dạy học tiếng
Việt chiếm thời lượng không nhiều và đối với học sinh tiểu học cũng không cần
phân tích sâu nhưng đã là dạy kiến thức cho học sinh thì dù ở cấp độ nào cũng
cần sự chính xác.
Vấn đề này không chỉ được áp dụng ở trường tôi mà còn được áp dụng cho
tất cả các trường tiểu học trong cả nước trong quá trình dạy học. Nó còn là một ý
kiến góp ý nghiêm túc để các nhà biên soạn sách chương trình mới rút kinh
nghiệm trong quá trình biên soạn bộ sách mới hoàn thiện hơn.
3.2 Kiến nghị:
+ Đối với Phòng GD&ĐT:
Đối với những SKKN đã được HĐKH ngành ở cấp huyện xếp loại A hoặc
các SKKN đã được HĐKH cấp tỉnh xếp loại từ C trở lên thì Phòng GD&ĐT
huyện nên tổ chức một chuyên đề để phổ biến các SKKN cho toàn huyện học
tập. Qua đó góp phần tôn vinh những cá nhân đã tích cực nghiên cứu để có được
những SKKN đã được HĐKH đánh giá cao đồng thời kích thích sự say mê
nghiên cứu khoa học, tích lũy kinh nghiệm dạy học và tích cực tìm tòi những
sáng kiến mới giúp nâng cao hiệu quả dạy học của GV.
Trên đây là những ý kiến nhỏ của tôi trong quá trình công tác, đúc rút kinh
nghiệm giảng dạy và chỉ đạo chuyên môn. Rất mong được HĐKH ngành và các
bạn đồng nghiệp gần xa đóng góp ý kiến để SKKN của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết
Nguyễn Thị Thủy
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Sách Giáo viên Tiếng Việt lớp 5 tập 1.
2. Báo Vietnam Net cập nhật lúc 12:26’ ngày 18.01.200: Bài Mùa xuân bắt đầu
từ ngày nào? Tác giả: Lê Thị Lan (Đài TNVN Xuân 2006)
12
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Nguyễn Thị Thủy
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó Hiệu trưởng Trường TH Triệu Thành
Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)
TT
Tên đề tài SKKN
1.
Bồi dưỡng HSG lớp 5 qua thực hành làm
2.
bài tập Tiếng Việt
Rèn luyện và phát triển tư duy lô-gic cho
HS lớp 4- 5 qua việc dạy các bài toán liên
3.
quan đến tỉ số
Rèn luyện và phát triển tư duy lô-gic cho
HS lớp 5 qua việc giải toán chuyển động
4.
đều
Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà giáo nhằm nâng cao chất lượng
5.
HS trường TH Triệu Thành
Rèn luyện và phát triển tư duy lô-gic cho
6.
HS lớp 5 qua các bài toán hình học
Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất
lượng dạy học phân môn Tập làm văn lớp
Sở GD&ĐT
TH
Kết quả
Năm
đánh giá
học
xếp loại
đánh giá
(A, B,
xếp loại
hoặc C)
C
2004 2005
Phòng
GD&ĐT TS
B
2007 2008
Sở GD&ĐT
TH
B
2008 2009
Sở GD&ĐT
TH
B
20112012
Sở GD&ĐT
TH
C
20122013
Sở GD&ĐT
TH
C
20132014
4-5
Triệu Thành, ngày 20 tháng 4 năm 2017
Người liệt kê
Nguyễn Thị Thủy
13
- Xem thêm -