SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT BỈM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH
NHIỆM VỤ CÁC MÔN HỌC KHỐI LỚP 2 – 3
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC BẮC SƠN
Người thực hiện: Mai Thị Hạnh
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Bắc Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lí
BỈM SƠN, THÁNG 3 NĂM 2019
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu...............................................2
3. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................2
II. NỘI DUNG....................................................................................................2
1.Cơ sở lí luận của SKKN...................................................................................2
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN............................................3
2.1 Thuận lợi cơ bản ở địa phương và nhà trường.............................................3
2.2 Thực trạng học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học......................4
3.Các biện pháp để giải quyết vấn đề..................................................................5
3.1.Biện pháp thứ nhất: Phân loại học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn
học, tìm hiểu nguyên nhân đề đề ra biện pháp cụ thể đối với từng học sinh (cụ
thể từng lớp, từng khối)......................................................................................5
3.2. Biện pháp thứ hai: Vai trò trách nhiệm và những yêu cầu cụ thể đối với gia
đình...................................................................................................................... 6
3.3. Biện pháp thứ ba: Vai trò trách nhiệm và những yêu cầu cụ thể đối với giáo
viên chủ nhiệm có học sinh học chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học ........6
3.4. Biện pháp thứ tư: Phối hợp với các tổ chức trong nhà trường....................8
3.5. Biện pháp thứ năm: Tác động đến tình cảm tích cực của học sinh..............9
4. Kết quả đạt được..............................................................................................10
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..........................................................................10
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Mục tiêu đào tạo của nhà trường xã hội chủ nghĩa nước ta là “Đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. “Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ
thống giáo dục quốc dân”, giáo dục tiểu học nhằm “Hình thành cho học sinh
những cơ bản ban đầu cho sự phát triển đúng, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, phẩm
chất và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học hoặc đi vào cuộc sống”.
Quán triệt các Nghị quyết của Trung ương về phát triển giáo dục và mục
tiêu trên vào hoạt động thực tiễn giáo dục Tiểu học, một mặt chúng ta phải tổ
chức các hoạt động giáo dục trên lớp có chất lượng, mặt khác phải tổ chức tốt
các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp để xây dựng và phát triển một cách
toàn diện về trí tuệ, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ và thể chất của trẻ em, nhằm
hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bậc tiểu học được coi là nền tảng của hệ thống giáo dục phổ thông.
Trường tiểu học nhằm trang bị cho học sinh những cơ sở ban đầu, cần thiết cho
sự hình thành và phát triển nhân cách người công dân, xứng dáng là người chủ
tương lai của đất nước, biết sống, biết học tập và lao động trong xã hội đang đổi
mới và muôn vàn mối quan hệ đa dạng. Vì vậy một trong những vấn đề có tầm
quan trọng đặc biệt là giáo dục trí tuệ cho học sinh thông qua các môn học trong
trường tiểu học. Quá trình này tồn tại vận động và phát triển như là một quá
trình bộ phận hữu cơ của quan điểm sư phạm tổng thể. Nó có mối quan hệ biện
chứng với các quá trình sư phạm bộ phận khác nhau của quá trình sư phạm tổng
thể (Giáo dục: Đức, trí, thể, mĩ và lao động).
Trên thực tế, phần lớn học sinh tiểu học là ngoan tự giác tích cực trong
học tập, ham hiểu biết, có tính hồn nhiên, tính chân thực, biết vâng lời… Song
bên cạnh đó còn có một số chưa chăm học. Số học sinh này tuy không nhiều
nhưng một khi chúng ta không phát hiện ra hoặc phát hiện ra nhưng chưa có các
biện pháp giáo dục hữu hiệu thì sẽ là gánh nặng cho gia đình, nhà trường và xã
hội. Đó là những học sinh tiếp thu chậm hoặc không chịu tiếp thu sự giáo dục
của nhà trường, trong giờ học hay nhấp nhổm cười nói, thích tự do, thiếu tập
trung trong giờ học không chú ý xây dựng bài, đi học không chuyên cần, tiếp
thu chậm dẫn đến kết quả học tập chưa hoàn thành. Đối với những học sinh này,
giáo viên cần phải nhiệt tình giáo dục và phải có biện pháp dạy học thích hợp để
nhằm đạt kết quả tốt nhất.
Với tinh thần ấy. Là người quản lí chỉ đạo công tác chuyên môn trong nhà
trường tôi thấy cần phải có cách chỉ đạo tích cực, hiệu quả trong công tác giáo
dục học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học trong nhà trường mà mình
quản lí. Đây là việc làm cần thiết trước hết giúp các em đủ điều kiện, đủ tư cách
bước lên Trường trung học cơ sở. Đồng thời góp phần cùng với toàn Đảng toàn
1
dân xây dựng đất nước sớm đạt được mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh .
Như vậy, có thể khẳng định rằng “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” nhằm
“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Để thực hiện được công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Kịp thời đáp ứng với nhu cầu chung của xã
hội loài người, thì cần phải đào tạo ra những con người phát triển toàn diện. Việc
phát hiện kịp thời và tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất để giáo dục nâng cao
chất lượng học sinh yếu trong nhà trường là rất quan trọng và cần thiết. Với
những đòi hỏi như vậy, là một người quản lý, tôi đó chọn và nghiên cứu đề tài:
“Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng học sinh chưa hoàn thành
nhiệm vụ các môn học khối lớp 2-3 ở trường Tiểu học Bắc Sơn.”
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nhằm tìm hiểu thêm, góp phần nâng cao chất lượng chỉ đạo công tác
giáo dục, giảng dạy nâng cao chất lượng học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các
môn học ở trường tiểu học Bắc Sơn.
- Giúp giáo viên nâng cao hiệu quả giảng dạy - trong công tác dạy nâng cao
chất lượng học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học khối lớp 2-3 trong
nhà trường. Tạo cho các em học sinh có ý chí vượt khó khăn, kiên trì, cẩn thận, tự
tin vươn lên trong học tập đồng thời rút ra một số bài học trong việc chỉ đạo.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Phương pháp dạy học các môn học ở khối 2-3 nhằm nâng cao chất lượng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
+ Nghiên cứu các văn kiện, Luật giáo dục, Nghị quyết, sách báo, các đề
tài có liên quan. Điều lệ trường tiểu học; Giáo trình đào tạo CBQLGD tiểu học,
+ Quan sát, khảo sát thực tế ở trường, phỏng vấn, nghe báo cáo.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, thực nghiệm, tổng kết đánh giá rút
kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Cuộc sống của trẻ em là dòng chảy các hoạt động trong điều kiện xã hội lịch sử nhất định. Trong quá trình đó trẻ em hình thành và phát triển nhân cách.
Mà: Nhân cách không phải sinh ra đó có sẵn, mà sự hình thành và phát triển
nhân cách do nhiều yếu tố chi phối. Đó là gia đình, nhà trường và xã hội .
Với cách nhìn của các nhà di truyền học thì: Kiểu gen cùng với môi
trường sẽ hình thành kiểu hình (Kiểu gen: Là yếu tố di truyền của Bố, Mẹ, tổ
tiên truyền lại). Môi trường là các tác nhân kích thích bên ngoài của tự nhiên và
xã hội. Kiểu hình là các biểu hiện thành đặc điểm cụ thể của con người.
Với thực tiễn về cách nhìn và đánh giá như trên những người thầy giáo,
cô giáo, những người làm công tác giáo dục đủ tự tin và hy vọng để tin tưởng
rằng con người nói chung và học sinh học chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn
học núi riêng. Nếu chúng ta có cách giáo dục thống nhất đồng bộ từ nhiều phía:
Nhà trường, gia đình và xã hội chắc chắn đối tượng học sinh chưa hoàn thành
nhiệm vụ các môn học sẽ sớm thành con người tiến bộ để trở thành những con
người có ích cho gia đình và xã hội.
2
Quá trình dạy học gúp phần thiết thực vào việc hỡnh thành phương pháp
suy nghĩ, phương pháp học tập và rèn luyện tích cực, chủ động, khoa học, sáng
tạo cho học sinh. Cho nên, giáo viên cần tổ chức hoạt động học tập thường
xuyên tạo ra các tình huống có vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự
phát hiện và giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ năng
vấn đề đó, huy động các kiến thức và các công cụ đó có để tìm ra con đường
hợp lí nhất giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong quá trình giải quyết vấn đề, diễn
đạt các bước đi trong cách giải, tự mỡnh kiểm tra lại các kết quả đó đạt được,
cùng các bạn rút kinh nghiệm về phương pháp giải. Tuy nhiên, để tổ chức được
các hoạt động học tập, giáo viên cần xác định được: Nội dung cần cho học sinh
lĩnh hội là gỡ? Cần tổ chức các hoạt động như thế nào? Mặt khác, nội dung dạy
các môn học ở lớp 2 - 3 được sắp xếp hợp lí, đan xen và tương hợp với mạch
kiến thức khác, phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 2 - 3 nhằm
hỡnh thành và phát triển trình độ tư duy của học sinh. Các em biết phát triển và
tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích tổng hợp, rút ra kết luận
chung ở dạng khái quát nhất định.
Tuy nhiên, giáo viên phải chủ động tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt
động theo chủ đích nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách
giáo khoa và đồ dùng dạy học, để mỗi cá nhân học sinh “khám phá” tự phát hiện
và tự giải quết bài học thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới,
với các kiến thức liên quan đó học, với kinh nghiệm của bản thân. Đó là các cơ
sở để giúp các em học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học vươn lên và
tự hoàn thiện.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thuận lợi cơ bản ở địa phương và nhà trường:
a. Những thuận lợi:
Bắc Sơn là một phường phát triển vể kinh tế, có truyền thống hiếu học,
tuy đời sống của một bộ phận bà con cũng gặp nhiều khó khăn nhưng số trẻ
trong độ tuổi đi học được vận động ra lớp 100%.
Đời sống của nhân dân được nâng cao, phong trào xã hội hóa giáo dục phát
triển mạnh. Vì vậy, các gia đình đó quan tâm đến việc học tập của con em mình.
Cơ sở vật chất của nhà trường khang trang, nhà trường có đủ các thiết bị
dạy học, tạo điều kiện cho giáo viên ứng dụng CNTT nhằm nâng cao chất lượng
giờ dạy.
Tinh thần đoàn kết nhất trí cao của mọi thành viên trong nhà trường luôn
được phát huy tốt.
Đội ngũ cán bộ giáo viên nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có trách nhiệm cao.
b. Những khó khăn:
Mặt bằng trình độ dân trí nói chung còn thấp, số hộ nghèo còn nhiều.
Một số em còn có bố mẹ đi làm ăn xa, việc chăm sóc và nuôi dạy các em
chủ yếu là ông bà hoặc chị em trong gia đình chăm sóc lẫn nhau. Vì vậy, các em
thiếu sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ của gia đình, việc học tập của các em chủ yếu
phó mặc cho các thầy cô trên lớp. Mặt khác, một số phụ huynh cũng có quan tâm
đến việc học của con em mình.
3
2.2. Thực trạng học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học:
Học sinh học chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học thường có những
biểu hiện kém về trí tuệ, chữ viết xấu, sách vở luộm thuộm, đồ dùng học tập hầu
như không có, đọc không thông, thậm chí không nhận được mặt chữ, kỹ năng
tính toán kém, tiếp thu bài chậm, gia đình thì không quan tâm tới việc học tập
của các em. Thường thì những học sinh này làm cho giáo viên vất vả hơn trong
quá trình dạy học.
Qua quan sát, điều tra tôi nhận thấy học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ
các môn học thường là những em không thích học, thường xuyên nghỉ học, đồ
dùng học tập và sách vở thiếu, chữ viết xấu, đọc cũng chưa tốt, tính toán chậm.
Các em này thường ham chơi, chưa chăm học, vào lớp không chịu chú ý chuyên
tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài. Còn một bộ
phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ
đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đó học
sau đó về nhà lấy vở ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều
gì. Trong lớp học các em thường là “thủ phạm” chính của những trò nghịch.
Giáo viên cứ nhắc nhở được ít phút thì các em này lại có “một câu chuyện mới”
“tâm sự” với bạn một cách tự nhiên, vì các em này lười học, học khó tiếp thu
nên chán học, khó tập trung vào bài giảng nên thường tìm các trò chơi để lấp
khoảng trống trong giờ học.
Tìm hiểu nguyên nhân của học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn
học, tôi thấy rằng yếu tố chủ quan: Là nhu cầu học tập của các học sinh này rất
thấp, nếu không muốn nói là không có, điều đó đương nhiên là các em này sẽ
học không tốt, không hứng thú học tập, nên các em thường tìm niềm vui khác
ngoài học tập. Ngoài ra cũng một số học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây
là một điều không thể phủ nhận với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân
này có thể nói đến một phần lỗi của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của
học sinh. Do đó kết quả học tập của các em không hoàn thành yêu cầu của các
môn học được.
* Tóm lại học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học có những biểu
hiện nhiều hình, nhiều vẻ nhưng nhìn chung thường có 5 đặc điểm sau:
+ Nhiều “lỗ hổng” kiến thức, kĩ năng .
+ Tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng chậm .
+ Năng lực tư duy yếu .
+ Phương pháp học tập chưa tốt .
+ Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không ôn, luyện bài.
Về phía giáo viên: Nguyên nhân học sinh học chưa hoàn thành nhiệm vụ
các môn học không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không
nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể thực
hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên
nào cứ trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây giáo
viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng
học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân nhận
4
thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng
học sinh, đặc biệt là học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học. Chưa tìm
tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học
sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu kĩ đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh.
* Thống kê thực trạng học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ môn Toán và
TV khối lớp 2 và 3 cụ thể như sau (Qua bài kiểm tra khảo sát chất lượng):
STT
Khối
Sĩ số
1
Khối 2
152
2
Khối 3
113
Mức độ
T
H
C
T
H
C
Tiếng Việt
SL
TL
71
46.4
76
50.0
5
3.6
64
56.6
45
39.8
4
3.6
SL
82
65
5
62
48
3
Toán
TL
53.6
42.7
3.7
54.9
42,4
2.7
3. Các biện pháp để giải quyết vấn đề:
Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn đưa
ra một số biện pháp chỉ đạo dạy học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn
học lên hoàn thành nhiệm vụ các mụn học cụ thể như sau:
3.1. Biện pháp thứ nhất: Phân loại học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các
môn học, tìm hiểu nguyên nhân đề đề ra biện pháp cụ thể đối với từng học
sinh (cụ thể từng lớp, từng khối):
Học sinh tiểu học, học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học thì
đồng thời các em cũng không có nhu cầu về nhận thức. Có những học sinh trí
nhớ tốt, sáng dạ nhưng lại không muốn học, lười học cũng chỉ vì thiếu nhu cầu
nhận thức. Gặp những trường hợp này, dù có áp dụng các biện pháp bắt buộc,
trừng phạt, doạ nạt, trách móc, cũng không làm các em chăm chỉ được. Trong
phạm vi nhà trường, giáo viên cần giúp những em này đạt được kết quả trong
học tập ngay từ đầu năm nhận lớp. Thành tích dù nhỏ nhưng sẽ tạo cho trẻ niềm
tin vào sức lực và trí tuệ của mình.Giáo viên không nên vô tình dập tắt sự say
mê, niềm cảm xúc (dù ít ỏi hay mới nhen nhóm được) của học sinh khi chúng tự
khám phá tự giải đáp, tự sáng tạo (lời giải hay của bài toán, câu văn hay) mà cần
phải khích lệ động viên cần phải nhen nhóm thêm và dần dần thổi bùng lên sự
say mê, niềm cảm xúc đó lên. Nhu cầu nhận thức sẽ được phát triển thuận lợi,
nếu hoạt động của các em không quá căng thẳng thần kinh, không bị thất bại lặp
đi lặp lại trong học tập.
Vì vậy giáo viên cần phải tổ chức hoạt động vừa sức sao cho các em đạt
chuẩn cao, an ủi các em khi các em làm bài tập chưa tốt. Cần phải cho các em
tin vào khả năng nhận thức của mình, tất nhiên con người không có sự ngang
bằng về năng lực. Song học sinh có sức khoẻ bình thường đều có khả năng lĩnh
hội chương trình học tập. Trường hợp học sinh học yếu cần phải tạo cho nó
niềm tin rằng: Nó có thể học tốt hơn nếu nó nỗ lực trong học tập.
Chẳng hạn một lời khích lệ “Em sẽ chắc chắn đạt thành tích học tập cao,
nếu em chăm chỉ học tập” hoặc “Cô nhận thấy em có ý trả lời hay cần cố gắng
5
hơn nhé!” Lòng tự tin ấy kích thích bộ óc của học sinh làm việc nhờ nhu cầu
nhận thức thúc đẩy và có những hứng thú học tập nên các em sẽ chăm chỉ hơn,
đi học chuyên cần hơn và cũng bớt nghịch hơn trong giờ học.
3.2. Biện pháp thứ hai: Vai trò trách nhiệm và những yêu cầu cụ thể đối với
gia đình:
Ban giám hiệu nhà trường triệu tập một hội nghị phụ huynh học sinh của
những em học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học khối 2 và 3 . Nội
dung của hội nghị được nêu lên nhằm mục đích để các phụ huynh này nhận thức
được nhiệm vụ chính trị của nhà trường cũng như vai trò trách nhiệm của từng lực
lượng tham gia giáo dục học sinh. Đặc biệt lưu ý và phân tích kỹ vai trò của gia
đình với việc phát triển và hình thành nhân cách của học sinh. Trong đó khó khăn
vẫn phải kể đến là đối tượng học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học.
Cụ thể vai trò của gia đình :
- Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường xã hội hóa đứa trẻ lần đầu
tiên, là nơi có những thế mạnh đặc biệt trong việc hình thành và phát triển nhân
cách đứa trẻ .
- Có mối quan hệ tình cảm thân thương giữa những người mật thiết.
- Có giá trị văn hoá gia đình bền vững.
- Có thời gian gắn với đứa trẻ nhiều nhất.
Như vậy gia đình là nơi các em được thể hiện và tiếp xúc nhiều hơn các
môi trường khác. Nếu môi trường giáo dục ở gia đình tốt thì sẽ ảnh hưởng tốt
đến học sinh và ngược lại. Vì vậy gia đình phải tạo mọi điều kiện cho con em
mình có đủ thời gian và điều kiện học tập như:
Luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện cho con được học tập.
Có đủ sách giáo khoa, vở ghi và đồ dùng học tập.
Có góc học tập yên tĩnh.v.v. …
Trú trọng và thường xuyên theo dõi chặt chẽ mọi hoạt động của con mình,
quản lí tốt thời gian biểu: Học trên lớp, học ở nhà… tránh học sinh mãi chơi
quên đi việc học.
Luôn động viên con một cách kịp thời khi có những chuyển biến dù là
nhỏ nhất về việc học của con mình. Tuyệt đối không được nóng vội, mặc cảm,
tự ty, mà phải kiên trì, mềm dẻo, thuyết phục, động viên là chính, luôn trân
trọng những tiến bộ của các em, để tạo niềm tin và sự phấn khởi vì sự tiến bộ
của bản thân cho các em.
3.3. Biện pháp thứ ba: Vai trò trách nhiệm và những yêu
cầu cụ thể đối với giáo viên chủ nhiệm có học sinh học
chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học:
* Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
- Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu
quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi,
cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập,
trong cuộc sống của bản thân mình.
Luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh
mắng hoặc dùng lời nặng, thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm
thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
6
Bên cạnh đó, giáo viên là người đem lại cho các em những phản hồi tích
cực. Ví dụ như thay chê bai bằng khen ngợi và tìm những việc làm mà em hoàn
thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em phù hợp với từng việc làm của
các em như: “Biết giúp đỡ người khác”, “Thái độ nhiệt tình và tích cực”…
* Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh:
- Phân loại những học sinh học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn
học đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp
đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường
hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự
tin, nhút nhát…
Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy
phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự
đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm
thông qua đặc trưng này.
Trong quá trình thiết kế bài học, cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo
điều kiện cho các em học sinh học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học
được củng cố và luyện tập phù hợp.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành
cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện
cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được
vị trí đích thực của mình trong tập thể. Ví dụ như: Yêu cầu luyện tập của một
tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng
của các em.
* Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
- Giáo viên cần phải giáo dục ý thức học tập của các em tạo cho các em sự
hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho các em có ý thức vươn lên. Trong mỗi
tiết dạy cần phải liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để các em thấy được ứng
dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham
thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó cần phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia
đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ các em về thái độ học tập, tổ chức các trò
chơi có lồng ghép việc giáo dục các em về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên
trong học tập, làm cho các em thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, tôi
phải phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập cho các em. Do hiện nay, có
một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự ép đặt và quá tải sẽ
dẫn đến chất lượng không cao.
Vì thế bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự
quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động
lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên. Nếu chúng ta phối hợp một cách nhịp
nhàng và chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường thì dù các em có học yếu và
không có ý thức trong học tập cỡ nào thì dưới tác động của gia đình và nhà
trường nhất định rằng việc học của các em sẽ dần tiến bộ.
Giáo viên chủ nhiệm lớp là người thay mặt nhà trường quản lí toàn diện
một lớp học, là nhân vật trung tâm, là linh hồn của lớp. Tập hợp và đoàn kết học
sinh thành một khối vững mạnh có vai trò to lớn trong việc tổ chức mọi hoạt
7
động của lớp. Chúng ta có thể khẳng định rằng một phần lớn giáo viên chủ
nhiệm lớp như thế nào thì học sinh của lớp sẽ như thế đó. Tài năng sư phạm,
tâm huyết, nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ của giáo viên chủ nhiệm được thể hiện
trong các sản phẩm giáo dục của mình.
Trên cơ sở đó người quản lý yêu cầu mỗi giáo viên chủ nhiệm phải thật sự
thấy được vai trò, trách nhiệm của mình với tập thể học sinh trong lớp mình phụ
trách. Đặc biệt là đối với những học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn
học giáo viên vần phải luôn kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để giáo
dục, kèm cặp các em.
Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm đến nhà từng HS để động viên, hướng dẫn
phụ huynh giúp đỡ con em mình trong học tập. Có những HS bố mẹ đi làm ăn
xa ở với ông bà mà ông bà đó già không thể giúp các em được, nên việc này rất
khó khăn tôi đã động viên giáo viên hàng tuần dành riêng thời gian đến kểm tra
đôn đốc các em học. Trong một thời gian ngắn các em đó tiến bộ rõ rệt, tự giác
học ở nhà một cách đầy đủ hay có những gia đình phải đến nhà động viên phụ
huynh tạo điều kiện cho các em có đủ sách giáo khoa, tài liệu và dụng cụ học
tập, nên tôi đã thu được một kết quả đáng khả quan. Kết quả này sẽ có được nếu
chúng ta biết truyền niềm tin vào các em và phụ huynh học sinh.
3.4. Biện pháp thứ tư: Phối hợp với các tổ chức trong nhà trường:
Phối hợp với Tổng phụ trách Đội Thiếu niên của trường, qua các buổi
giao ban cán sự lớp, lớp trưởng sẽ báo cáo tình tình của lớp để chị Tổng phụ
trách cũng như các bạn đều biết. Tổng phụ trách sẽ giao trách nhiệm cho Cán sự
lớp giúp đỡ kèm cặp các bạn.
Rung chuông vàng: Khối 2 - 3
8
Rung chuông vàng
Tổ chức cho các em những sân chơi bổ ích để các em có cơ hội thể hiện
khả năng của mình, rèn cho các em kĩ năng trả lời, giao tiếp trước tập thể qua đó
các em phát huy được khả năng của mình học mà chơi, chơi mà học các em sẽ
nhớ bài lâu hơn.
Phối hợp với BCH đại diện cha mẹ học sinh để phụ huynh cùng trao đổi
với gia đình các em, tạo đều kiện cho các em học tập tốt hơn.
3.5. Biện pháp thứ năm: Tác động đến tình cảm tích cực của học sinh:
Học sinh tiểu học có lực học chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học thì
đồng thời các em thường chưa ngoan, một biện pháp khác là tác động đến tình
cảm tích cực của học sinh. Đây là bí quyết thành công trong việc giáo dục học
sinh học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học chưa ngoan. Nhưng tác
động chỉ có hiệu quả thì chỉ đang ở trạng thái tâm lí thuận lợi tức là phải đúng
lúc, đúng chỗ, chẳng hạn các em đang vui, đang buồn, đang ân hận. Là những
trạng thái tâm lí khác nhau. Tác động đến tâm lí các em phải tế nhị nhẹ nhàng,
thể hiện tình cảm chân thành của mình đối với học sinh. Tình cảm chân thành có
sức mạnh ghê gớm, nó có thể cảm hóa được những con người lưu manh tha hoá,
huống hồ chi là một học sinh học chưa hoàn thành. Nếu có định kiến với những
em này hoặc nghĩ rằng học sinh tiểu học chưa biết mà đối xử thế nào cũng được
thì hết sức sai lầm. Ánh mắt lạnh lùng, hành vi mang tính áp đặt sẽ gây nên các
phản ứng tiêu cực không tốt về giáo viên và hậu quả sẽ ngày một xấu thêm, tất
nhiên đối xử với các em vừa thương nhưng cũng phải vừa nghiêm, chỉ thương
mà không nghiêm thì chính những học sinh này sẽ coi thường giáo viên và
ngược lại nghiêm mà không thương thì các em sẽ sợ sệt và xa lánh.
9
4. Kết quả đạt được:
Như vậy với các biện pháp giáo dục chủ yếu nêu trên. Sau một học kì I
(năm học 2018- 2019) tôi đã thành công trong việc chỉ đạo dạy học sinh khối
lớp 3 đạt 100% học sinh hoàn thành môn học, đối với lớp 2 còn 2% học sinh
chưa hoàn thành. Các em có chuyển biến tốt đi học chuyên cần và chăm chú vào
bài giảng, các em đã chứng tỏ khả năng học tập của mình và học tiến bộ thực sự.
Các em đều tự tin, đọc tốt và làm toán nhanh. Các em ngày càng chăm chỉ, vâng
lời cô, thương yêu bạn bè.
TỔNG HỢP KẾT QUẢ HỌC TẬP
Tiếng Việt
Toán
STT
Khối
Sĩ số
Mức độ
SL
TL
SL
TL
T
71
46.4
82
53.6
1
Khối 2
152
H
78
51
67
43.8
C
3
2
3
2
T
64
56.6
62
54.9
2
Khối 3
113
H
49
43.4
51
45.1
C
0
0
0
0
Nhìn vào bảng thống kê kết quả học tập học kì I của các em học sinh đạt
được là rất đáng mừng. Tôi tin rằng với phương pháp này ở cuối học kỳ II năm
học 2018 -2019 các em sẽ hoàn thành các môn học 100%.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Dạy học sinh tiểu học từ học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học
lên học sinh hoàn thành nhiệm vụ các môn học là nhằm mục đích xây dựng tính
tích cực học tập của học sinh, giúp các trở thành những đứa con ngoan, trò giỏi,
tương lai sẽ là những công dân có ích cho đất nước. Mục tiêu đó đòi hỏi mỗi
giáo viên, mỗi người làm công tác giáo dục phải thường xuyên nổ lực, phấn đấu,
tìm tòi, sáng tạo ra những phương pháp giáo dục thích hợp nhất. Qua việc tổ
chức chỉ đạo thực hiện như trên, tôi rút ra một số kinh nghiệm trong công tác chỉ
đạo của bản thân như sau:
* Một là: Phải làm cho mọi cán bộ giáo viên thấm nhuần nhận thức
đúng đắn về công tác giáo dục, phù đạo học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ
các môn học.
* Hai là: Trước khi bắt đầu vào giáo dục phải nắm bắt được thật đầy đủ
cặn kẽ về hoàn cảnh, sở thích cá nhân và những nguyên nhân khách quan, chủ
quan dẫn đến từng em học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học.
* Ba là: Lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng học
sinh, khen chê các em đúng mức kịp thời. Phải có lòng nhiệt tình, tình thương,
trách nhiệm và biết kết hợp với việc tìm tòi, vận dụng đúng đắn các biện pháp
dạy học.
* Bốn là: Mỗi lực lượng giáo dục phải thấm nhuần đầy đủ vai trò, trách
nhiệm của mình trong công tác giáo dục. Cùng nhau xây dựng được môi trường
giáo dục đồng bộ. Thống nhất được sức mạnh tổng hợp, giúp các em thuận lợi
trong quá trình phấn đấu để tiến bộ.
10
* Năm là: Trong quá trình giáo dục học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ
các môn học phải không được nóng vội, phải đi từng bước dần dần, đánh giá
nhận xét các em phải trên cơ sở trân trọng, nâng niu những tiến bộ cho dù rất
nhỏ mà các em đó đạt được. Luôn tạo lòng tin, sự phấn chấn để các em quyết
tâm rèn luyện, phấn đấu .
Trên đây là những vấn đề và giải pháp đối với việc dạy học sinh từ học
sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ các môn học lên học sinh hoàn thành nhiệm vụ
các môn học mà tôi tìm tòi và chỉ đạo vận dụng đã đạt được kết quả. Đó là
những kinh nghiệm nhỏ, đóng góp vào công tác giảng dạy và giáo dục thế hệ trẻ.
Mong các cấp lãnh đạo trong nghành, bạn bè đồng nghiệp đọc trao đổi góp ý, bổ
sung để sáng kiến được phong phú hơn nhằm mục đích đưa học sinh - Những
tâm hồn nhạy cảm đáng yêu trở thành những con ngoan, trò giỏi. Những chủ
nhân tương lai của đất nước.
Xin chân thành cảm ơn!
Bỉm Sơn, ngày 25 tháng 3 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
ĐƠN VỊ
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Mai Thị Hạnh
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán, Tiếng Việt lớp 2,3.
2. Sách giáo viên Toán, Tiếng Việt lớp 2,3.
3. Phương pháp dạy học Toán, TV ở Tiểu học .
4. Một số tài liệu có liên quan đến việc dạy học môn Toán, Tiếng Việt ở Tiểu học.
5. Phương pháp giáo dục học sinh chậm tiến của TS: Nguyễn Thị Phương Nga.
6. Giáo trình đào tạo CBQLGD tiểu học.
12
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Thị Hạnh
Chức vụ và đơn vị công tác: Hiệu trưởng - Trường Tiểu học Bắc Sơn - Bỉm Sơn
TT
1.
Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp chỉ đạo
Cấp đánh giá
xếp loại
Kết quả
đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)
(A, B, hoặc C)
Cấp Tỉnh
C
Năm học
đánh giá
xếp loại
2017 - 2018
nhằm nâng cao chất lượng
dạy văn miêu tả cho học sinh
lớp 5.
13
- Xem thêm -