Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Skkn một số biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên nâng cao chất lượng dạy học...

Tài liệu Skkn một số biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên nâng cao chất lượng dạy học phân môn lịch sử lớp 5 ở trường tiểu học đông tiến b, huyện đông sơn

.PDF
23
5
53

Mô tả:

I. më ®Çu 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử chính là “cái gốc”, là nền tảng phát triển của một quốc gia. Cũng theo các nhà nghiên cứu, mục tiêu quan trọng hàng đầu của hoạt động giáo dục lịch sử ở trường phổ thông chính là hình thành, bồi đắp tình cảm yêu mến lịch sử dân tộc trong quá trình hình thành nhân cách của học sinh (HS). Mở đầu bài diễn ca năm 1942 Bác Hồ đã nhắc nhở: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Tuy nhiên hiện nay, vai trò của lịch sử đang ngày càng bị lu mờ, nhất là đối với thế hệ trẻ, thế hệ mà đáng lẽ cần phải quan tâm nhiều nhất đến lịch sử dân tộc. Bằng chứng rõ nét nhất của thực trạng này là việc HS phổ thông hiện nay không tha thiết với môn Lịch sử. Qua theo dõi, tìm hiểu về HS, tôi nhận thấy hầu hết các em không thích học lịch sử, nắm kiến thức lịch sử còn mơ hồ. Điều này rất đáng lo ngại và là một câu hỏi lớn cho những người làm công tác giáo dục. Đối với bậc học Tiểu học, bậc học nền móng của toàn cấp học, có thể nói rằng các em “yêu” lịch sử cũng bắt nguồn từ bậc học này mà “ghét” lịch sử cũng chính từ đây. Chúng ta có thể “thổi” tình yêu lịch sử cho các em một cách dễ dàng ngay trong giai đoạn học tập này. Mục tiêu của phần Lịch sử trong chương trình Tiểu học cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về: Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu tương đối có hệ thống theo dòng thời gian của lịch sử Việt nam từ buổi đầu dựng nước cho đến nay; mối quan hệ giữa các sự kiện, nhân vật lịch sử trong quá khứ và hiện tại của xã hội loài người (thuộc phạm vi địa phương, đất nước Việt Nam). Bên cạnh đó, bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng: Quan sát các sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác; nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp; trình bày lại kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ; vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Đồng thời góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen: Ham học hỏi để có thêm biết; yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước; tôn trọng, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hóa gần gũi với HS [3]. Có phải chăng hiện nay khi dạy và học môn lịch sử ở bậc tiểu học, giáo viên (GV) và HS đã xem nhẹ môn học này? Hay có học thì cũng học qua loa đại khái cho gọi là đã có học mà thôi? Hoặc kĩ năng dạy học môn lịch sử của GV chưa thu hút được sự học của HS, giờ học nhàm chán, không phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS để các em tiếp thu một cách bị động nên học xong bài sau đã quên mất bài học trước?... Để dạy tốt môn lịch sử ở trường Tiểu học đạt hiệu quả cao người GV phải có kiến thức lịch sử, phải nắm chắc nội dung và phương pháp tổ chức quá trình dạy học. Đây là một hoạt động nhận thức khoa học, nếu giải quyết được vấn đề này sẽ có tác dụng không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học cho phân môn lịch sử nói chung và môn lịch sử lớp 5 nói riêng. 1 Chính vì lẽ đó, là người Hiệu trưởng trường Tiểu học, tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm, tôi đã chọn đề tài "Một số biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên nâng cao chất lượng Dạy- Học phân môn Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Đông Tiến B, huyện Đông Sơn” nhằm làm cho việc học tập của HS đối với phân môn Lịch sử trở nên lý thú, gắn bó với thực tiển. Để phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, thay đổi thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc của HS. 2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu một số phương pháp dạy học tích cực có thể áp dụng để tạo hứng thú học tập phân môn Lịch sử cho học sinh lớp 5. 3. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh lớp 5 trường Tiểu học Đông Tiến B - Thực trạng giảng dạy phân môn Lịch sử lớp 5. - Các giải pháp tạo hứng thú cho HS lớp 5 khi học phân môn Lịch sử. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp phân tích, tổng hợp để xây dựng cơ sở lí luận của đề tài. - Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê thông qua các test nhỏ hoặc bài kiểm tra của học sinh. - Phương pháp thực nghiệm thông qua bài giảng Lịch sử trên lớp của giáo viên. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận: Môn lịch sử là một môn học khô khan, thuộc vào loại khó học, khó nhớ, nhất là các mốc lịch sử, các sự kiện lịch sử, thời gian xảy ra sự kiện đó, địa điểm có các mốc lịch sử, các sự kiện lịch sử. Bên cạnh đó còn có các nhân vật nổi tiếng nhất trong các thời kì đó. Các công lao của họ đã đóng góp như thế nào vào sự kiện đó? (Họ đã làm gì? Làm như thế nào?) Đặc trưng nổi bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, là tồn tại khách quan không thể phán đoán, suy luận..... để biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của việc dạy lịch sử là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp nhận những thông tin từ sử liệu, tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Những biểu tượng về con người và hành động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Vậy tái tạo lịch sử bằng những phương thức nào? Trước hết phải kể đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên. Đó là tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử ... Giáo dục lịch sử thông qua các nhân vật lịch sử mang lại hiệu quả rất cao. Thiết nghĩ, một trong những cách tạo hứng thú nhất cho các em HS (nhất là các 2 em học sinh tiểu học) khi học lịch sử đó là việc gây ấn tượng về các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, … Trong hoạt động học tập, hứng thú là yếu tố quan trọng thôi thúc HS nắm bắt tri thức một cách nhanh hơn, sâu sắc hơn. Khi có hứng thú học một môn học nào đó, học sinh sẽ say mê trong nghiên cứu, học tập việc lĩnh hội tri thức trở nên dễ dàng hơn và ngược lại: khi nắm bắt được vấn đề, tức là hiểu được bài thì người học lại có thêm hứng thú học tập, nhờ đó kết quả học tập của HS ngày càng được nâng cao, phát triển một cách tích cực. Chính vì vậy, việc tạo hứng thú học tập cho người học là một trong những yêu cầu nhất thiết đối với việc dạy học. Mặt khác, việc tạo hứng thú đối với học sinh trong môn Lịch sử lại càng cần thiết hơn nữa, bởi học Lịch sử là học cái “đã xảy ra”, ta không thể vận dụng tư duy liên tưởng, suy luận, … để lĩnh hội chúng. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 5 là lứa tuổi cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ, HS tái tạo ra những hình ảnh mới. Bên cạnh đó, tưởng tượng sáng tạo đã tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học. Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em. Ở giai đoạn này, HS dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Trong sự chú ý của HS đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, HS đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định. Việc ghi nhớ có chủ định ở lứa tuổi này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em... Nắm được những đặc điểm này sẽ giúp GV thiết kế bài giảng Lịch sử một cách phù hợp và hiệu quả 2. Thực trạng vấn đề 2.1. Thực trạng việc dạy Lịch sử của giáo viên Thực tế cho thấy, đa số GV chỉ chủ yếu dùng phương pháp thuyết trình cốt sao cho HS chỉ cần nhớ tên nhân vật và sự kiện lịch sử là đủ. Khi được hỏi về phương pháp dạy học môn lịch sử, đa số GV chỉ trả lời là chủ yếu nêu câu hỏi vấn đáp để HS tìm hiểu và rút ra được nội dung bài học. Còn về kiến thức lịch sử thì đa số GV chưa thực sự quan tâm, chưa đầu tư nghiên cứu tài liệu để hiểu một cách sâu sắc (việc nắm bắt chủ yếu chỉ là nội dung, thông tin trong SGK). Trong quá trình hơn 10 năm làm công tác quản lý trường học tôi thấy: Đối với bậc học Tiểu học thì một số GV còn xem nhẹ phân môn lịch sử hay có quan điểm gọi là môn “phụ”, còn có suy nghĩ: Học sinh Tiểu học chỉ cần học Toán giỏi, Tiếng việt giỏi là được. Các môn khác trong đó có phân môn Lịch sử lớn lên các lớp trên học cũng được chưa muộn (thực tế môn lịch sử khi lên các lớp THCS và THPT cũng có phần học lại các giai đoạn lịch sử tiểu học đã học, có điều học sâu hơn, kĩ hơn) và cho rằng nếu bây giờ có học kĩ thì các em cũng sẽ quên vì nhiều lí do khác nhau như: Trí nhớ của các em còn non, tư duy đang độ phát triển mạnh, nhận thức lí tính chưa nhiều, chủ yếu nhận thức thông qua sự vật hiện tượng, các em dễ quên vì học nhiều môn,…. Lịch sử là môn học mang tính chất 3 xã hội nhưng trong đó cũng có phần khoa học, là môn ghi lại các sự kiện, nguyên nhân, nhân vật một cách đầy đủ chính xác. Chính xác đến giờ, phút, ngày, tháng, năm như: Sự kiện chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954), Tiến vào Dinh Độc Lập (30/4/1975), Sấm sét đêm giao thừa (Đêm 30 Tết Mậu Thân- 1968),... Một vấn đề quan trọng trong việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử là khai thác kênh hình trong SGK nhưng hầu như GV chưa thực sự quan tâm, chỉ điểm qua trong tiết dạy. Nguyên nhân cơ bản của hạn chế này là GV chưa có đủ những thông tin cần thiết về kênh hình (nhất là tranh ảnh) để hiểu nội dung, ý nghĩa của nó. GV phải hiểu được nội dung kênh hình, đồng thời nắm chắc mục tiêu và nội dung bài học (điều này rất quan trọng vì có thể là một bức tranh, ảnh tư liệu, nhưng tùy nội dung cụ thể của mỗi bài học mà khai thác nội dung bức tranh, ảnh đó ở những khía cạnh khác nhau) thì mới có thể tổ chức cho HS khai thác tốt kênh hình. Việc nghiên cứu thêm tư liệu lịch sử để giảng dạy còn nhiều hạn chế, chỉ giới hạn kiến thức trong SGK, điều đó làm cho việc truyền thụ kiến thức không được sâu sắc. GV “ngại” vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học mới như: trò chơi lịch sử; sắm vai,… nên tiết học khá tẻ nhạt, không hấp dẫn HS. Việc khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học chưa thường xuyên và hiệu quả. 2.2. Về phía phụ huynh Đa số phụ huynh ít quan tâm đến việc kèm con mình học lịch sử hay đầu tư các tài liệu liên quan đến môn này. Thậm chí có nhiều phụ huynh khi học sinh làm bài kiểm tra định kì chỉ hỏi con “Môn Toán, môn Tiếng Việt con được mấy điểm?”. Nếu con mà nói được điểm 10 Lịch sử hay môn khác thì coi như không quan tâm. Về nhà nhiều gia đình không cho con học các môn ít tiết trong đó có phân môn Lịch sử mà chỉ yêu cầu con học Toán và Tiếng Việt. 2.3. Thực trạng của học sinh Học sinh học môn lịch sử thường tiếp thu một cách thụ động, chỉ đọc và nhớ một số thông tin trong SGK để đạt điểm khá giỏi trong các lần kiểm tra định kì. Có thể nói rằng, HS của chúng ta đang học lịch sử một cách “vô cảm”. Hầu hết các em khi được hỏi đều trả lời là không thích học lịch sử. Tôi hỏi vì sao? Các em đều trả lời không thể nhớ hết được các ngày diễn ra các sự kiện. Khi học, cô giáo đặt câu hỏi thì chỉ biết tìm và đọc ở trong SGK để trả lời, song về đến nhà là quên ngay, đến khi học tiết lịch sử tiếp theo thì hầu như quên những kiến thức đã học. Sau khi học xong một bài hay một giai đoạn lịch sử đa số các em không nắm được nội dung bài học, một số em chỉ thuộc phần ghi nhớ trong sách giáo khoa một cách máy móc. Chỉ được một số em nắm được bài, biết xâu chuỗi sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, nguyên nhân, diễn biến hay kết quả, biết liên kết kiến thức bài trước với bài sau ... của sự việc, cuộc kháng chiến, chiến dịch. Thông thường học sinh không nắm được: - Nhân vật lịch sử đó thuộc thời kì lịch sử nào? Giai đoạn nào? Có công lao gì to lớn đối với đất nước, với dân tộc? 4 - Nguyên nhân vì sao có sự kiện, cuộc kháng chiến, cuộc khởi nghĩa đó? - Diễn biến, kết quả của các cuộc kháng chiến, chiến dịch, khởi nghĩa … ra sao? Vì sao thất bại? - Tình hình đất nước, chính quyền, nhân dân ta trong thời kì đó ra sao? - Ý nghĩa lịch sử của các cuộc trên? - Lòng khâm phục, sự kính trọng, biết ơn, … đối với các nhân vật lịch sử. Tôi đã tiến hành khảo sát về mức độ hứng thú đối với một số môn học của 46 học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Đông Tiến B và thu được kết quả như sau: Bình thường Đánh giá Môn học Môn Toán Môn Tiếng Việt Phân môn Lịch sử Thích Tỷ lệ 30 25 12 65,2% 54,3% 26,1% Không thích Tỷ lệ 10 14 22 21,7% 30,4% 47,8% Tỷ lệ 6 7 12 13% 15,2% 26,1% Bảng số liệu đã giúp ta thấy được số học sinh yêu thích môn Lịch sử thấp hơn hẳn hai môn Toán và Tiếng Việt, điều đó phần nào phản ánh được thực trạng dạy và học tập môn Lịch sử ở khối lớp 5 Trường Tiểu học Đông Tiến B hiện nay. Tôi cũng đã cho giáo viên tiến hành cho học sinh làm bài khảo sát chất lượng đầu năm đối với phân môn Lịch sử tại hai lớp 5, kết quả như sau: Điểm 9-10 5 Tỉ lệ 10,9% Điểm 7-8 15 Tỉ lệ 32,6 % Điểm 5-6 19 Tỉ lệ 41,3% Điểm dưới 5 7 Tỉ lệ 15,2% Kết quả cho thấy số lượng HS điểm 7 trở lên thấp, vẫn còn HS điểm dưới 5. Bên cạnh đó, qua theo dõi, quan sát trong giờ học, tinh thần học tập các em uể oải, nắm kiến thức còn chậm khiến giáo viên phải mất nhiều thời gian. Khi HS không thấy thích thú với môn học thì kết quả học tập thấp là điều dễ hiểu. Hơn thế nữa, việc HS không hứng thú trong các giờ lịch sử, không hình dung được các sự kiện lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa, sẽ dễ tạo cho các em có thói quen ỷ lại, thụ động. Nếu cứ tiếp tục như vậy, các em sẽ trở thành những con người có tâm hồn “nghèo nàn”, thực dụng. Qua thực tế việc giảng dạy của giáo viên ở trường, tôi nhận thấy: Chất lượng giảng dạy môn lịch sử ở trường tiểu học nói chung, trường Tiểu học Đông Tiến B nói riêng còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với đặc trưng của môn lịch sử. GV ít đầu tư cho môn học này, dạy học còn nặng về giảng giải lý thuyết, chủ yếu giáo viên nêu câu hỏi học sinh trả lời. Vì vậy, học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, dẫn đến học sinh chán học, không nắm vững nội dung của bài, không nhớ đầy đủ các sự kiện lịch sử trong chương trình, không yêu thích môn học. Chính vì 5 thế mà vấn đề tôi đưa ra nghiên cứu ở đề tài này chỉ tập trung đưa ra một số biện theo hướng tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử lớp 5. 3. Một số biện pháp thực hiện 3.1. Giúp giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp, cách thức tổ chức dạy học phù hợp từng loại bài trong chương trình 3.1.1. Bài học có nội dung về tình hình chính trị- kinh tế, văn hóa- xã hội Dạng bài này có nhiều ở phần Lịch sử lớp 5, nhằm giúp HS có những hiểu biết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước ta sau mỗi thời kì (giai đoạn) nhất định. Để dạy tốt dạng bài này, GV cần thực hiện trình tự bài giảng theo các ý cơ bản sau: - Phải mô tả được: Tình hình nước ta (cuối thời kì hay sau thời kì nào đó) như thế nào? (Tình cảnh đất nước; chính quyền; cuộc sống của nhân dân) - Trong tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã làm gì? Làm như thế nào? - Kết quả của việc làm đó ra sao? [2] Ví dụ: Khi dạy bài 12 “Vượt qua tình thế hiểm nghèo”, GV phải giúp HS nắm được: + Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám như thế nào? (Khó khăn chồng chất: đế quốc và các thế lực phản động bao vây; nạn đói; nạn dốt;…) + Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gì để giải quyết nạn đói, khó khăn về tài chính, nạn dốt và giặc ngoại xâm? (Lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “Ngày đồng tâm”, kêu gọi tăng gia sản xuất; phát động “Tuần lễ vàng”; phát động phong trào xóa nạn mù chữ; ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo;…) + Kết quả của những biện pháp đó là gì? (Từng bước đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.) Khi dạy dạng bài này, GV kết hợp sử dụng phương pháp quan sát và phương pháp hỏi đáp nhằm kích thích tính tích cực, độc lập của HS trong việc đọc thông tin SGK, phân tích tổng hợp, bồi dưỡng năng lực diễn đạt và làm không khí lớp học sôi nổi. Ví dụ: Bài 12: “Vượt qua tình thế hiểm nghèo” Ở hoạt động: Tìm hiểu hoàn cảnh nước ta sau cách mạng tháng Tám: GV yêu cầu HS đọc trong sách giáo đoạn “Từ cuối 1945 -> nghìn cân treo sợi tóc”, kết hợp với việc quan sát các Hình 12, Hình 13, Hình 14, Hình 15, Hình 16 trả lời câu hỏi: Hoàn cảnh nước ta lúc đó có những khó khăn, nguy hiểm gì? (Hình 12: Quân Pháp ở Sài Gòn 1945; Hình 13: Quân Anh đến Sài Gòn 9/1945; Hình 14: Quân Trung Quốc dân đảng; Hình 15: Xương của các nạn nhân trận đói 1945 được cải táng (Hà Nội); Hình 16: Dân đói năm 1945). Mục đích GV đặt ra những câu hỏi là yêu cầu HS phải tìm tòi, phải có cảm nhận riêng của mình. Khi trả lời được HS sẽ cảm thấy phấn khởi vì trình độ, khả năng của mình so với những bạn khác, các em sẽ có hứng thú học tập tiếp tục chú ý nghe giảng, trả lời các câu hỏi. Những HS còn lại sẽ noi theo, muốn trả lời được như bạn để khẳng định mình. Từ đó sẽ tạo nên không khí học tập sôi nổi, vui tươi. 6 Tuy nhiên câu hỏi GV đưa ra phải rõ ràng, dễ hiểu xoáy vào trọng tâm để tất cả HS đều hiểu được yêu cầu của câu hỏi; Đặt câu hỏi cho mọi học sinh trong lớp đều được tham gia, tức là câu hỏi có nhiều mức độ, khó, dễ, trung bình; Cần chú ý lắng nghe câu trả lời của các em khi cần có thể nhận xét, bổ sung, sửa chữa để hoàn thiện nội dung câu trả lời cho các em. 3.1.2. Dạy học các bài có nội dung về các nhân vật lịch sử Trong chương trình Lịch sử lớp 5 không giới thiệu tiểu sử của các nhân vật lịch sử, mà thông qua những sự kiện cơ bản trong sự nghiệp của các nhân vật để làm sáng tỏ lịch sử dân tộc. Ví dụ: Dạy bài “Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định” (Nội dung của bài: Trương Định bất chấp lệnh bãi binh của triều đình ở lại cùng nhân dân chống giặc năm 1862); hay “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” vào đầu thế kỉ XX (Nội dung của bài: Nguyễn Tất Thành tận mắt chứng kiến nỗi khổ của người dân bị thực dân Pháp đô hộ; ý chí quyết tâm tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành). Như vậy, nhân vật lịch sử bao giờ cũng gắn liền với sự kiện lịch sử. GV cần khai thác các sự kiện để làm nổi bật những hoạt động và công lao to lớn của nhân vật [2]. Đối với dạng bài về các nhân vật lịch sử GV sử dụng các phương pháp kể chuyện, miêu tả, tường thuật kết hợp với đàm thoại để khắc sâu hình ảnh nhân vật trong tâm trí HS. Nhưng phương pháp thường được sử dụng là kể chuyện bởi HS Tiểu học rất thích nghe kể chuyện, vận dụng phương pháp kể chuyện vào dạy học sẽ giúp các em tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, dễ nhớ, và thú vị. Với phương pháp này, nếu GV khéo léo sẽ tạo được hứng thú rất tốt cho học sinh. Giáo viên có thể vừa là người dẫn chuyện, trực tiếp kể chuyện có thể là người dẫn dắt, gợi ý giúp học sinh nắm vững cốt truyện. Ngoài ra có thể cho học sinh sắm vai để kể lại câu chuyện. Ví dụ 1: Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” giáo viên có thể dùng phương pháp kể chuyện để tìm hiểu về quê hương và thời niên thiếu của Bác. Thông qua câu chuyện “Nguyễn Tất Thành 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế”. Nội dung câu chuyện là cuộc sống nghèo khó của tuổi thơ ở vùng quê nghèo và truyền thống hiếu học của gia đình Bác. Ví dụ 2: Bài 17 “Chiến thắng Lịch sử Điện Biên Phủ”, trong hoạt động “Kể về những tấm gương trong cuộc kháng chiến Điện Biên Phủ”, GV dùng phương pháp kể chuyện kể cho HS nghe câu chuyện anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo, Phan Đình Giót lấp lỗ châu mai, Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng,.. Sau đó cho HS quan sát những bức hình: Hình 17- Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng Hình 18- Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo. GV cần chú ý khi chọn phương pháp kể chuyện mà yêu cầu HS kể lại chuyện, cần chống lại cách học thuộc lòng, từng câu từng chữ trong SGK của học sinh. Phải để học sinh kể lại câu chuyện lịch sử bằng chính ngôn ngữ của mình. Thời gian kể chuyện chỉ nên chiếm vài ba phút còn lại để giới thiệu tiểu sử, hoặc mô tả một hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội,… Một số điểm cơ bản cần phải lưu ý đối với mỗi GV khi giảng dạy, đó là: 7 - Mỗi bài đều có hình ảnh (tranh vẽ hoặc chân dung) nhân vật lịch sử để giúp HS biết được diện mạo cũng như hình thức bên ngoài của nhân vật. Vì vậy GV sử dụng phương pháp trực quan khai thác tốt những bức ảnh để phục vụ nội dung bài học. Ví dụ: Khi dạy bài Bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” + Giới thiệu bài: Mở đầu cho bài học giáo viên đưa hình ảnh bến nhà Rồng và hỏi: Đố các em biết hình ảnh trên là địa danh nào? HS sẽ hào hứng trả lời, lôi cuốn các em tham gia vào tiết học, tìm hiểu xem bức tranh trên là địa danh nào. + Sau đó GV dùng ảnh đó để giới thiệu bài mới. Hình 1: Bến Nhà Rồng (HS tìm hiểu về Nguyễn Tất Thành: ngày sinh, quê quán). Dựa vào SGK yêu cầu HS cho biết ngày sinh của Nguyễn Tất Thành. Sau khi HS trả lời GV đưa hình ảnh Nguyễn Tất Thành lên bảng kèm theo chú thích về ngày sinh. Lưu ý bức ảnh này được chụp vào khoảng thời gian năm 1911, lúc Người 21 tuổi (đưa Hình 2- Nguyễn Tất Thành (1890 – 1969) Về quê quán: GV treo bản đồ, yêu cầu HS chỉ quê Bác trên bản đồ (đưa Hình 3: Bản đồ Việt Nam). Áp dụng phương tiện trực quan là bản đồ vào dạy học, các em sẽ có sự tri giác cụ thể hơn, có thể ghi nhớ và khắc sâu được nội dung hơn. Giới thiệu một số hình ảnh về quê hương của Bác (cho HS xem Hình 4: Làng Hoàng Trù quê ngoại; Hình 5: Làng Sen quê nội; Hình 6: Ngôi nhà Bác sống thời niên thiếu; Hình 7: Nhà sàn của Bác). Qua các hình ảnh này HS sẽ thấy được Bác sinh ra từ vùng quê của xứ Nghệ nghèo khổ. Với những hình ảnh sinh động, đa dạng và phong phú đó sẽ đọng mãi trong kí ức HS, các em sẽ thích thú với tiết học Lịch sử vì kiến thức chẳng hề khô khan mà trái lại rất dễ nhớ. - Khi trình bày về nhân vật, phải cho HS biết nhân vật lịch sử đó là người như thế nào? (Sinh ra khi nào? Ở đâu? Làm gì? Có đặc điểm, tính cách gì nổi bật,…) [2]. Ví dụ: Dạy bài “Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định”, GV giúp HS biết vài nét về Trương Đinh thông qua câu hỏi gợi ý: Trương Định quê ở đâu? Ngay từ khi Pháp đánh Gia Định thì Trương Định đã làm gì? (Trương Định quê ở Bình Sơn, Quảng Ngãi. Ngay từ khi Pháp đánh Gia Định (tháng 9/1859) Trương Định đã chiêu mộ nghĩa binh đánh Pháp. - Miêu tả và tường thuật (hay kể lại) những hoạt động của họ để làm cơ sở cho việc đánh giá công lao của các nhân vật đó đối với lịch sử. - Giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ cho HS về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối với nhân vật lịch sử một cách tự nhiên và có hiệu quả. 3.1.3. Dạy các bài có nội dung đề cập đến các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng, chiến dịch, phản công, tiến công… Loại bài này chiếm tỉ lệ nhiều trong phần Lịch sử. Phương pháp thường sử dụng khi dạy học là GV (hoặc HS) miêu tả, tường thuật kết hợp với đồ dung trực quan để thể hiện cuộc khởi nghĩa/ kháng chiến/ chiến dịch hay tiến công. Cần lưu ý GV những vấn đề cơ bản sau: 8 - Nguyên nhân (hoặc hoàn cảnh) dẫn đến cuộc khởi nghĩa/ cuộc kháng chiến/ chiến dịch đó. - Diễn biến của cuộc khởi nghĩa/ cuộc kháng chiến/ chiến dịch đó. - Kết quả và ý nghĩa [2]. Ví dụ: Dạy bài “Cuộc phản công ở kinh thành Huế” + Hoàn cảnh lịch sử: Triều đình Huế kí hòa ước công nhận quyền đô hộ của thực dân Pháp trên toàn bộ nước ta. Triều đình công nhận nhưng nhân dân không chịu khuất phục. Trong triều chia làm hai phái: phái chủ chiến (chủ trương chiến đấu chống Pháp- Đại diện là Tôn Thất Thuyết) và phái chủ hòa (chủ trương thương thuyết với Pháp). + Diễn biến của cuộc phản công ở kinh thành Huế: Đêm mồng 4 rạng sáng mồng 5-7-1885, trong cảnh khuya vắng lặng của kinh thành Huế, bỗng có tiếng súng thần công nổ rầm trời, lửa cháy sáng rực. Đó cuộc tấn công vào đồn Mang cá và tòa khâm sứ Pháp của các đạo quân theo lệnh của Tôn Thất Thuyết. Bị đánh bất ngờ, quân Pháp vô cùng bối rối. Nhưng nhờ có ưu thế về vũ khí, chúng ra sức cố thủ, đến gần sáng thì chúng tấn công lại. Quân giặc tiến vào kinh thành, mặc sức giết người, cướp của và tàn phá. + Kết quả và ý nghĩa: Cuộc phản công thất bại. Từ đó một phong trào chống Pháp bùng lên mạnh mẽ trong cả nước, kéo dài đến cuối thế kỉ XIX. Đã khơi dậy và cổ vũ tinh thần kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Hầu hết các bài đều có lược đồ, bản đồ. Vì vậy GV phải hướng dẫn HS xác định và mô tả được vị trí, khu vực, địa bàn nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa/ kháng chiến/ chiến dịch cũng như trình bày các nét cơ bản diễn biến trên lược đồ. Ví dụ: Sử dụng lược đồ “Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954”, GV cần hiểu rõ: * Mục đích: Giúp HS xác định vị trí, địa thế của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và nắm được diễn biến các đợt tấn công của ta vào cứ điểm Điện Biên Phủ. * Nội dung: Lược đồ chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ mô tả một cách sơ lược mấy điểm: địa điểm diến ra chiến dịch (với các địa danh chính như: hầm tướng Đờ Ca- xtơ- ri, đồi A1, Him Lam, Bản Kéo,…) và các đợt tấn công của ta. * GV hướng dẫn HS sử dụng khi: + Giới thiệu về đặc điểm vị trí, địa hình của Điện Biên Phủ. + Giới thiệu về cấu trúc của tập đoàn cứ điểm này (3 phân khu phòng thủ). + Tường thuật những nét sơ lược về diễn biến chính của chiến dịch (ta tấn công và tiêu diệt tập đoàn cứ điểm trong 3 đợt) 3.1.4. Dạy loại bài ôn tập, tổng kết Bài ôn tập, tổng kết là loại bài học nhằm hệ thống và củng cố lại những kiến thức đã học cho HS sau mỗi thời kì (giai đoạn lịch sử), giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản, nhận thức lịch sử một cách sâu sắc, toàn diện hơn. Để dạy tốt các bài này, GV phải thu hút tất cả HS vào hoạt động học tập, phát huy cao nhất tính tích cực của HS bằng việc trao đổi những câu hỏi mà GV đặt ra, thực hiện các công việc như vẽ sơ đồ, lập bảng biểu, thống kê, tìm các dẫn chứng,… 9 Đối với dạng bài ôn tập, tổng kết, GV vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp (phân tích, tổng hợp, khái quát hóa) kết hợp vấn đáp- tìm tòi, tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm. Vì vậy, dựa vào nội dung cụ thể của mỗi bài, GV linh hoạt lựa chọn phương pháp cho phù hợp [2]. Ví dụ: Dạy bài 11 “Ôn tập- Hơn 80 năm chống thực dân Pháp xâm lược và đô hộ (1858- 1945)” * Mở đầu: GV nêu khái quát các mốc lịch sử trong giai đoạn. Sau đó nêu nhiệm vụ cho HS trong tiết học “Nhìn lại trang sử đau thương nhưng vẻ vang đó để chúng ta nhớ lại những mốc thời gian, những sự kiện lịch sử tiêu biểu từ năm 1858 đến năm 1945, đó là nhiệm vụ của bài học hôm nay.” * GV nêu câu hỏi để HS suy nghĩ và tập trung giải quyết 3 nội dung sau: Nêu các mốc lịch sử quan trọng từ 1858 đến1945; Nêu những sự kiện lịch sử và những nhân vật tiêu biểu nhất từ 1858- 1945; Ý nghĩa của những sự kiện lịch sử tiêu biểu đó. * GV hướng dẫn HS thực hiện các nhiệm vụ của bài học như sau: + Về nội dung thứ nhất: GV hướng dẫn HS kẻ trục thời gian từ 1858 đến 1945, sau đó yêu cầu HS tìm và điền các mốc thời gian quan trọng (cụ thể là 4 mốc: 1858, 1911, 1930, 1945) + Về nội dung thứ hai: GV có thể chia lớp thành các nhóm, yêu cầu HS tìm các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu của thời kì này, sẽ lôi cuốn HS vào hoạt động học tập. sau đó HS trình bày kết quả, GV tổng hợp ý kiến và chốt lại các sự kiện (1858- Thực dân Pháp xâm lược nước ta; Nửa cuối thế kỉ XX- Phong trào chống Pháp của Trương Định và phong trào Cần Vương; Đầu thế kỉ XX- Phong trào Cần Vương; Năm 1911- Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước; Ngày 03/02/1930- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời; Ngày 02/9/1945- Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.) + Về nội dung thứ ba: GV lựa chọn và định hướng cho HS thảo luận ý nghĩa của 2 sự kiện: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cách mạng tháng Tám. Tóm lại: Với mỗi dạng bài khác nhau, mỗi hoạt động khác nhau GV phải áp dụng những PPDH khác nhau, và mỗi loại bài có những cách dạy riêng, GV phải biết lựa chọn cho phù hợp với nội dung của bài và phải biết kết hợp, sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp trong một giờ học. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các phương pháp là một trong những yếu tố đưa đến hiệu quả cao của bài học. 3.2. Hướng dẫn GV sử dụng trò chơi học tập để dạy phân môn Lịch sử góp phần nâng cao hiệu quả giờ học Trước khi lên lớp, mỗi thầy cô giáo đều chuẩn bị bài giảng của mình. Có chuẩn bị thì kiến thức mới vững vàng, lời giảng mới hấp dẫn, phương pháp mới sinh động. Song muốn tạo được sự chú ý và gây hứng thú học tập cho học sinh để không khí vui tươi, nhẹ nhàng trong từng hoạt động học tập là cả một vấn đề nghệ thuật. Một số trò chơi áp dụng ở môn lịch sử và địa lí lớp 4 có tác dụng tích cực đến việc học tập của các em. Để giúp giáo viên nhà trường có thể lựa chọn và sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học môn Lịch sử, tôi đã tìm tòi, tham khảo các tài liệu, sưu 10 tầm các trò chơi gắn liền với nội dung các bài học trong chương trình phân môn Lịch sử lớp 5, sắp xếp theo thứ tự các bài trong sách giáo khoa, đồng thời trao đổi, phổ biến, hướng dẫn cho GV cùng thực hiện. Tôi đã tổng hợp các trò chơi theo bài học như sau: [4]. TT 1. 2. 3. 4. Sử dụng cho bài (Tên bài học) Bài 2: Nguyễn Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước Bài 3: Cuộc phản công ở kinh thành Huế Bài 4: Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX Bài 6: Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước 5. Bài 9: Cách mạng mùa thu 6. Bài 11: Ôn tập- Hơn 80 năm chống thực dân Pháp xâm lược và đô hộ Sử dụng trong hoạt động Nguyễn Củng cố bài học Tên trò chơi Thi kể về Trường Tộ Nhanh mắt, nhanh tay Ai là thủ lĩnh Củng cố bài học Khởi động (đầu giờ học) Củng cố bài học Thi hát về Bác Hồ (hoặc “Mảnh ghép bí mật; hoặc “Trò chơi đóng vai”) Hoa nào đẹp Hoạt động dạy bài mới Đố Bạn Các hoạt động (hoặc “Ô chữ kì diệu”, của tiết ôn tập “Ô chữ Lịch sử”, “Đi tìm ô chữ”, hoặc “Đi tìm sự kiện” Ai kể hay hơn? Hoạt động dạy bài mới Em là chiến sĩ Điện Củng cố bài học Biên Ô chữ Lịch sử Hoạt động dạy bài mới Bài 12: Vượt qua tình thế hiểm nghèo 8. Bài 17: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 9. Bài 18: Ôn tập Chín năm kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc 10. Bài 19: Nước nhà bị chia cắt Đỗ bạn chữ gì? 7. Hoạt động dạy bài mới 11. Bài 22: Đường Trường Sơn Ai kể hay hơn? Hoạt động dạy bài mới 12. Bài 26: Tiến vào Dinh độc lập Theo chân chú giải Củng cố bài học phóng quân 13. Bài 29: Ôn tập- Lịch sử nước Sự kiện gì? Các hoạt động ta từ giữa thế kỉ XIX đến nay (hoặc “Tìm hiểu Lịch của tiết ôn tập sử”) Mỗi trò chơi học tập đều phải thể hiện được 3 phần: Mục đích, chuẩn bị, cách tiến hành. Tôi đã giúp GV nắm vững 3 phần này trong mỗi trò chơi để việc tổ chức trên lớp cho HS thực sự đạt hiệu quả. 11 Ví dụ 1: Sử dụng trò chơi “Mảnh ghép bí mật” để dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”. * Mục đích: Giúp HS ghi nhớ địa danh nơi Bác Hồ bắt đầu cuộc hành trình cứu nước; Rèn trí nhớ và kĩ năng quan sát. * Chuẩn bị: 2 ảnh bến Nhà Rồng, 2 ảnh tàu La- tu- sơ Tơ- rê- vin (phóng to, mỗi ảnh cắt thành 6 phần không bằng nhau) * Cách tổ chức chơi: + GV chia lớp thành 2 đội chơi. Mỗi đội cử 4 HS tham gia chơi. + Bầu Ban giám khảo theo dõi thời gian và đánh giá kết quả các đội + Phát cho mỗi đội 1 bộ ảnh (2 ảnh) đã cắt (12 miếng ghép) + GV hướng dẫn cách chơi: Mỗi đội có 2 người lựa chọn, 2 người ghép; Khi nào có hiệu lệnh “Bắt đầu!”, người chơi lựa chọn và ghép ảnh sao cho thành ảnh bến Nhà Rồng, con tàu La- tu- sơ Tơ- rê- vin; Thời gian ghép ảnh là 3 phút, mỗi miếng ghép đúng được tính 10 điểm, mỗi ảnh có số điểm tối đa là 60. + Các thành viên cổ vũ cho đội mình. + Ban giám khảo đánh giá kết quả ghép ảnh và cho điểm, đội nào nhiều điểm và đúng thời gian là thắng cuộc. * Kết thúc trò chơi, GV nêu câu hỏi để củng cố “Vì sao bến cảng Nhà Rồng được công nhận là di tích lịch sử?” (Bến cảng Nhà Rồng lưu lại cho dân tộc Việt Nam một kỷ niệm thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Nơi Bác Hồ đã ra đi từ Bến Nhà Rồng tìm đường cứu nước- Người đã đặt những bước chân đầu tiên trên hành trình ba mươi nãm đi tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam) Ví dụ 2: Sử dụng trò chơi “Ô chữ kì diệu” để dạy bài ôn tập (11 từ hàng ngang) * Mục đích: Giúp HS nhớ được những sự kiện và nhân vật lịch sử tiêu biểu; Rèn kĩ năng quan sát; Tự hào về truyền thống đấu tranh bảo vệ đất nước của dân tộc. * Chuẩn bị: GV chuẩn bị khổ giấy A0 hoặc A1 (hoặc bảng phụ) có các ô chữ trống gồm 11 từ hàng ngang, hệ thống 11 câu hỏi gợi ý tương ứng với 11 ô chữ hang ngang; Mỗi HS chuẩn bị 1 bảng con và phấn viết * Cách tiến hành (cả lớp cùng chơi): GV treo bảng phụ hoặc Giấy A0 lên bảng lớp và đọc lần lượt từng câu hỏi gợi ý cho các câu hàng ngang; HS nhanh chóng ghi đáp án vào bảng con, HS giơ bảng cho GV nhìn thấy câu trả lời và úp bảng xuống, GV quan sát cả lớp; Sau khi cả lớp hoàn thành, GV mới công bố HS nào có câu trả lời đúng và sớm nhất; GV ghi đáp án đúng lên bảng phụ; Tuyên dương HS nào có câu trả lời hàng dọc sớm nhất; Kết thúc trò chơi GV khen HS nào có nhiều lần trả lời đúng. * Gợi ý và đáp án của các ô chữ: + 13 ch÷ c¸i: Ng­êi l·nh ®¹o khëi nghÜa H­¬ng Khª. + 5 ch÷ c¸i: Thñ ®« cña n­íc ViÖt Nam. + 6 ch÷ c¸i: §Þa danh ®Çu tiªn thùc d©n Ph¸p næ sóng x©m l­îc n­íc ta. + 6 ch÷ c¸i: Quª h­¬ng cña B¸c Hå. + 6 ch÷ c¸i: §Þa danh næ ra phong trµo §ång khëi. 12 + 14 ch÷ c¸i: Ng­êi chñ tr­¬ng canh t©n ®Êt n­íc. + 7 ch÷ c¸i: Tªn «ng vua lªn vïng nói Qu¶ng TrÞ cïng nghÜa qu©n ®¸nh giÆc Ph¸p. + 7 ch÷ c¸i: §Þa danh nµy cã hang P¾c-Bã n¬i B¸c Hå sèng vµ lµm viÖc trong kh¸ng chiÕn chèng Ph¸p. + 14 ch÷ c¸i: §Ønh cao cña n¨m 1930- 1931 lµ phong trµo nµy. + 13 ch÷ c¸i: Ng­êi cïng vua Hµm Nghi lµm nªn phong trµo CÇn V­¬ng + 7 ch÷ c¸i: §©y lµ ®Þa danh mµ triÒu ®×nh nhµ NguyÔn tho¸i vÞ. Gi¶i ®¸p « ch÷: 1 2 3 4 5 6 N g u y Ô 7 8 9 10 11 p h a n ® × n t r ­ ê n h µ m n x « v i Õ t t « n c è ® n h p h ® a n b g t é g h i c n g h t h © « h u h µ n g Õ ï n ½ h n n é n Ö t g i g a n r e a o b » n g Ö t Ü n h t t h u y Õ t Õ Tõ kho¸ hang dọc: Nh©n vËt lÞch sö Phan Bội Châu Tóm lại: PPDH càng phong phú càng tạo được hứng thú cao cho HS. Trò chơi học tập là những trò chơi có nội dung gắn với hoạt động học tập của HS, có tác dụng làm thay đổi hình thức hoạt động học tập trên lớp, làm không khí lớp học thoải mái, dễ chịu, giúp việc học tập trở nên hấp dẫn, nhẹ nhàng, tự nhiên phù hợp với đặc điểm tâm lý HS. Vì vậy, việc vận dụng trò chơi học tập một cách hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giờ học [4]. 3.3. Giúp GV khai thác, sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học trong Dạy- Học phân môn Lịch sử lớp 5 Thiết bị dạy học phân môn Lịch sử phong phú, đa dạng như: các loại máy chiếu, băng hình, đĩa CD, các phiên bản, các loại tranh ảnh lịch sử, sơ đồ, bản đồ, lược đồ,… Ngoài tác dụng minh họa cho bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn, góp phần tạo biểu tượng, cụ thể hóa sự kiện lịch sử cho HS dễ tiếp thu kiến thức, thiết bị dạy học còn là một trong những nguồn tư liệu quan trọng [1]. Là người quản lý, tôi đã giúp cho mọi GV hiểu rõ mục đích của việc sử dụng thiết bị dạy học đối với phân môn Lịch sử là nhằm bổ sung kiến thức cho bài học; tăng cường tính trực quan trong dạy học; là phương tiện để mỗi GV thực hiện việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy học; kích thích sự chú ý của HS. 3.3.1. GV phải nắm vững các kĩ thuật và thời điểm sử dụng thiết bị, đồ dùng trong tiết học 13 Tôi đã hướng dẫn GV nắm vững các kĩ thuật khi khai thác đồ dùng, dùng các câu hỏi gợi mở, sử dụng đồ dùng đúng lúc trong các hoạt động dạy học. Trên cơ sở khai thác thông tin từ nguồn tư liệu do thiết bị mang lại, dưới sự tổ chức và dẫn dắt của GV, HS từng bước lĩnh hội, nắm vững kiến thức của bài học. Ví dụ: Dạy bài 17 “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ”, GV sử dụng ảnh quân Pháp bị bắt ở Điện Biên Phủ tháng 5 năm 1954. Bức ảnh này nhằm cung cấp thêm tư liệu cho bài học, ảnh này gồm 2 ảnh nhỏ (Bức ảnh thứ nhất chụp lại cảnh bắt sống tướng Đờ Ca- xtơ- ri trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ; Bức ảnh thứ hai là cảnh hàng binh Pháp bị giải đi sau chiến dịch Điện Biên Phủ.Thời điểm GV có thể sử dụng hai bức ảnh trong tiết học: Thứ nhất: Sau khi trình bày xong diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ, GV yêu cầu HS quan sát bức tranh, GV đặt một vài câu hỏi gợi ý: + Việc chỉ huy tập đoàn cứ điểm đầu hàng thể hiện điều gì? (Sự thất bại của kẻ thù ở chiến dịch Điện Biên Phủ) + Điều đó đã thể hiện sức mạnh của quân và dân ta như thế nào? (Sức mạnh to lớn và ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta. Thứ hai: GV có thể sử dụng bức ảnh kết hợp với tường thuật diễn biến chiến dịch ở cuối đợt 3 (đưa ảnh bắt tướng Đờ Ca- xtơ- ri) và phân tích ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ (đưa ảnh hàng binh Pháp bị giải đi) [1]. 3.3.2. Khai thác kênh hình trong dạy học phân môn Lịch sử Kênh hình gồm tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ,…Đây là phương tiện dạy học rất đặc trưng của phân môn lịch sử, giúp HS tái hiện lại những sự kiện, nhân vật lịch sử trong quá khứ, góp phần tạo biểu tượng lịch sử cho HS, nhờ đó mà HS thu nhận thông tin một cách thuận lợi và dễ dàng, giúp HS nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, kiến thức lịch sử mà các em thu nhận được [3]. Ví dụ: Khai thác bức tranh “Xô viết Nghệ- Tĩnh”, HS khó xóa mờ được hình ảnh những người nông dân, công nhân “gan vàng” xông lên lật đỏ chế độ thống trị của thực dân Pháp và phong kiến. * Muốn hướng dẫn HS khai thác kênh hình có hiệu quả, tôi hướng dẫn GV cần thực hiện một số yêu cầu sau: - Nắm chắc nội dung kênh hình - Xác định rõ kiến thức nội dung trong bài mà HS cần phải hiểu, biết qua kênh hình. - Chuẩn bị một số câu hỏi phù hợp với trình độ HS, gợi ý để HS tự khai thác kiến thức từ kênh hình. Giao nhiệm vụ cụ thể cho HS - Kịp thời động viên, khuyến khích và đánh giá kết quả học tập của HS [3]. Ví dụ: Dạy bài 9 “Cách mạng mùa thu”, sử dụng bức ảnh “Cách mạng tháng 8 năm 1945” (ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn). Nhìn các bức ảnh, GV giúp HS khai thác nội dung bài thông qua 3 bức ảnh tư liệu, để HS thấy được khí thế cách mạng của quần chúng khi nổi dậy cướp chính quyềnnhư sau: + Bức ảnh thứ nhất thể hiện việc giành chính quyền tại Thủ đô Hà Nội với hình ảnh quần chúng cách mạng biểu tình chiếm Phủ Khâm sai ở Bắc Kì- trụ sở của chính quyền bù nhìn tay sai. 14 + Bức ảnh thứ hai là cảnh diễu hành của quần chúng bên một cổng thành ở Cố đô Huế- trung tâm của chính quyền phong kiến tay sai, đánh dấu thắng lợi cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Cố đô. + Bức ảnh thứ ba là một cuộc mít tinh biểu dương lực lượng của nhân dân Sài Gòn trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Sài Gòn. GV có thể khai thác các bức ảnh trên mấy phương diện sau: Một là: Dùng để minh họa cho lời giảng của GV khi dạy về diễn biến và ý nghĩa của cuộc “Cách mạng mùa thu” Hai là: Giới thiệu cho HS biết các địa danh trong các bức ảnh. GV nhấn mạnh sự tiêu biểu, điển hình của các địa danh đó, chẳng hạn: Phủ Khâm sai là trụ sở bộ máy chính quyền địch,… Ba là: Dùng bức ảnh kết hợp sử dụng hệ thống câu hỏi để dẫn dắt HS khai thác tư liệu như: Hãy nhận xét về khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân được thể hiện qua các bức ảnh,… * Để tiến hành khai thác kiến thức từ kênh hình, GV hướng dẫn HS thực hành lần lượt theo các bước: - Trước tiên, GV bằng cách giới thiệu sơ lược nhưng hấp dẫn những hình ảnh trong hệ thống kênh hình, đồng thời hướng dẫn chú giải, kí hiệu, quy ước,… - Nêu mục đích làm việc với kênh hình. - Đưa ra các câu hỏi gợi ý để HS có cơ sở khai thác kiến thức từ kênh hình. - Gọi HS trả lời câu hỏi (hoặc trình bày sau khi thảo luận) trên cơ sở các em tự phát hiện kiến thức mới qua khai thác kênh hình. - Tạo cơ hội cho HS khác nhận xét, bổ sung trước khi GV đưa ra kết luận và khắc sâu kiến thức [3]. Ví dụ: Dạy bài “Chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947” Những kiến thức trong bài HS cần khai thác qua bản đồ: + Nhận biết được vị trí của Việt Bắc và tầm quan trọng của căn cứ này. + Các mũi tấn công của ta và đường rút lui của địch. + Nghệ thuật chọn điểm tấn công của quân ta. GV hướng dẫn HS khai thác kiến thức từ bản đồ trong SGK: Yêu cầu HS quan sát bản đồ hình 17, trang 113, trả lời các câu hỏi (hình thức dạy học có thể thảo luận nhóm đôi, nhóm 4, theo lớp,…) + Khu căn cứ địa Việt Bắc nằm ở vị trí nào của đất nước? + Nhìn trên bản đồ và cho biết: Việt Bắc gồm mấy tỉnh, là những tỉnh nào? + Vị trí của Việt Bắc có tầm quan trọng như thế nào? + Chỉ trên bản đồ những vị trí mà quân ta tấn công và mai phục địch. + Tại sao ta lại chọn những vị trí đó? + Chỉ trên bản đồ các mũi tấn công của ta và đường rút lui của địch. Từ việc trả lời câu hỏi theo gợi ý của GV, kết hợp chỉ trên bản đồ, HS sẽ nắm được diễn biến của chiến dịch, ý nghĩa của nghệ thuật quân sự do Đảng ta lãnh đạo. 3.3.3. Ứng dụng công nghệ thông tin vào thiết kế các bài giảng lịch sử Hiện tại trên Internet có rất nhiều hình ảnh có thể phục vụ cho bài giảng phân môn Lịch sử. Khi dạy Lịch sử, bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh 15 minh họa (lược đồ, mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng, diện tích lãnh thổ, ...). Lúc này Internet sẽ là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho chúng ta, hay chúng ta có thể tìm những đoạn phim tư liệu có liên quan để minh họa cho bài dạy, sẽ làm tăng thêm tính thuyết phục, tính chất thực của các sự kiện. Ví dụ: Dạy bài “Tiến vào Dinh Độc Lập”. Kết hợp sử dụng phương pháp trực quan và trình chiếu Power point, GV hướng dẫn HS trình bày chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và cuộc tấn công vào Dinh Độc lập. Sau khi trình bày trận đánh trên sơ đồ cho HS dễ hình dung: Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu vào lúc 17 giờ ngày 26/4/1975. Kết thúc phần trình bày trận đánh bằng lời, GV cho HS xem 1 đoạn video (phim tư liệu) tải trên mạng Internet “Tiến vào Dinh Độc Lập”. Đoạn clip dài 3 phút, kèm theo lời bình: Quân ta chia làm 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn. Tại mũi tiến công phía Đông, dẫn đầu là lữ đoàn xe tăng 203, xe tăng 843 tiến vào Dinh Bộ chỉ huy chiến dịch, giao nhiệm vụ cho lữ đoàn phối hợp với đơn vị bạn cắm lá cờ lên nóc Dinh Độc Lập. Chiếc xe tăng 843 của đồng chí Bùi Quang Thận đi đầu,…xe tăng 843 lao vào cổng phụ và bị kẹt lại. Xe tăng 390 lập tức húc đổ cổng chính tiến thẳng vào. Lữ đoàn xe tăng 203 tiến vào dinh, xe tăng 390 húc đổ cổng dinh. Lá cờ tung bay trên nóc dinh Độc Lập, tiếng reo hò sung sướng mừng giờ phút lịch sử đất nước được thống nhất và độc lập. Bắc Nam sum họp một nhà [5]. Ví dụ: Khi dạy bài "Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập" môn lịch sử lớp 5, tìm và Downloads (trên Internet) đoạn Video-clip Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình cho học sinh theo dõi, từ những hình ảnh thật về Bác và nội dung của bản tuyên ngôn được phát ra từ chính giọng nói của Bác sẽ làm cho học sinh có cảm nhận sâu sắc hơn về tình yêu quê hương đất nước, từ đó các em có thái độ học tập tốt hơn để tìm hiểu về lịch sử nước nhà. Hiện nay phần mềm Power point là phần mềm thông dụng và hiệu quả nhất trong việc đưa nguồn sử liệu đến với HS. Các em được quan sát thêm nhiều hình ảnh về sự kiện, được xem các đoạn phim tư liệu chân thực về sự kiện đó. Điều đó sẽ giúp các em khắc sâu kiến thức lịch sử. Có thể nói ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử mang lại hiệu quả rất lớn cho sự thành công của bài học. Từng bài giảng của GV được tham khảo và thiết kế bằng phần mềm trình chiếu Powerpoint, với các hiệu ứng sinh động, kèm theo hình ảnh mô tả rõ ràng, sinh động các nội dung trọng tâm của bài học như sự kiện tiêu biểu của Cách mạng tháng 8 là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn,...được nhấn mạnh trên slide cụ thể, dễ dàng cho học sinh ghi nhớ các kiến thức cần thiết và dễ dàng nắm bắt được nội dung của bài học. Để xây dựng kho tư liệu cho phân môn Lịch sử lớp 5, trường chúng tôi nghiên cứu và đọc kĩ nội dung, bối cảnh lịch sử nước nhà theo trình tự thời gian, đọc kĩ nội dung từng bài dạy, tìm kiếm các ảnh tư liệu, phim tư liệu cần thiết phục vụ tốt cho bài dạy sau đó sắp xếp theo từng bài để dễ tìm kiếm. Thực tế cho thấy các bài giảng hỗ trợ rất nhiều cho giáo viên và HS trong các bài học. Những ảnh tư liệu cần thiết tương đối đầy đủ, đặc biệt là các thước phim tư liệu quý giá là những đồ dùng dạy học hữu ích thu hút cao sự chú ý của học sinh, đem lại thành công cho bài giảng của giáo viên trong tổ 5. Việc làm này đang được các 16 đồng chí giáo viên trong trường quan tâm học hỏi. Nhiều nhóm giáo viên bắt đầu sưu tầm tài liệu cho các môn học khác theo hình thức trên. Bằng cách sử dụng phương tiện dạy học hiện đại là bài giảng trình chiếu Powerpoint thực sự rất có hiệu quả. Qua đó các em thấy được sự hào hùng, oanh liệt trong chiến dịch này. Những hình ảnh đó sẽ khắc sâu vào trí nhớ của các em. Tóm lại: Thiết bị dạy học không chỉ dừng ở việc minh họa kiến thức, làm bài học thêm sinh động mà còn được xác định là nguồn tư liệu lịch sử quan trọng, một bộ phận cấu thành của bài học Lịch sử. Thiết bị dạy học góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ cho HS. Với ý nghĩa như vậy, dạy học Lịch sử ở trường Tiểu học GV phải triệt để sử dụng các thiết bị dạy học. 3.4. Dạy học thông qua các hoạt động ngoại khóa, tham quan Di tích lịch sử, địa điểm văn hóa Ngoại khoá lịch sử là một hình thức tổ chức dạy học ở trường phổ thông, có vai trò quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu môn học. Các tri thức lịch sử HS tiếp nhận được không chỉ qua bài học trên lớp mà còn phải qua nhiều kênh thông tin khác, trong đó hoạt động ngoại khoá là một trong những kênh thông tin quan trọng. Ngoại khoá lịch sử có nhiều hình thức như đọc sách, kể chuyện, nói chuyện lịch sử, trao đổi thảo luận, dạ hội lịch sử, tham quan di tích, bảo tàng, tổ chức trò chơi lịch sử…Trong khuôn khổ đề tài, tôi chỉ giới thiệu các hình thức tổ chức ngoại khoá dễ tổ chức và mang lại hiệu quả cao. Hình thức chủ yếu của hoạt động này là tham quan các di tích bảo tàng, tham gia các lễ hội truyền thống tại các di tích lịch sử. Để cho các hoạt động này được tiến hành có hiệu quả thì GV cần chuẩn bị chu đáo về địa điểm, thời gian, nội dung học tập, dự kiến công việc của từng HS, từng nhóm HS. Các hoạt động đề ra phải phù hợp với nội dung chương trình, tâm lí lứa tuổi HS, thường gắn với các ngày kỉ niệm lớn của dân tộc, ngày sinh các anh hùng dân tộc… Trong đó HS phải đóng vai trò chủ thể, GV đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn, phát huy tối đa năng lực, sở thích của từng HS. Hình thức tổ chức phải phong phú, hấp dẫn, có tính nghệ thuật, lôi cuốn đông đảo HS, tránh các báo cáo, diễn văn dài dòng. Trong quá trình tham quan di tích lịch sử, HS cần được tổ chức thực hiện các bài tập thực hành từ đơn giản đến phức tạp như quan sát, kể chuyện, miêu tả, ghi chép tài liệu. Ví dụ: Trong tiết học Lịch sử địa phương, nhà trường tổ chức cho HS tham quan các di tích văn hoá của địa phương như: khu tưởng niệm Bác Hồ tại Thị trấn Rừng thông (năm 2015); Di tích Lịch sử Quốc gia Thiều Thốn, tại xã Đông Tiến (năm 2016); khu bảo tàng Tỉnh và khu tưởng niệm Bác Hồ tại Thành phố Thanh Hóa (năm 2017). Tóm tại: Việc tổ chức hoạt động ngoại khoá môn lịch sử là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Qua các hoạt động ngoại khoá, chúng tôi nhận thấy hầu hết HS đều hứng thú tham gia, không khí của buổi sinh hoạt trở nên sinh động. Qua đó góp phần rèn luyện cho HS phát huy tối đa tư duy độc lập, sáng tạo 17 của các em khi làm việc. Đây là cơ sở để sau này HS có phương pháp hoạt động thực tế năng động trong cuộc sống. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Sau quá trình nghiên cứu, tích lũy về nội dung chương trình SGK lịch sử lớp 5, tiếp thu lĩnh hội ý kiến từ đồng nghiệp nghiệp. Tôi đã nghiên cứu và hướng dẫn giáo viên nhà trường áp dụng phương pháp đã nêu trên, chúng tôi thấy kết quả học tập của học sinh đã chuyển biến khá mạnh mẻ. Với phương pháp này nhằm phát huy sự hứng thú, tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Điều này đã thể hiện rất rỏ qua các lần khảo sát. Tinh thần học tập của học sinh: học sinh hứng thú và tích cực trong các tiết học. Các em nhớ các sự kiện, nhân vật lịch sử trong chương trình. Kết quả học tập năm học 2015- 2016 đối với phân môn Lịch sử lớp 5 được đánh giá như sau: Thời điểm HS làm bài kiểm tra Đầu năm Học kì I Học kì II Tổng số HS 46 46 46 Điểm 9- 10 SL TL 5 10.9% 8 17.4% 12 26.1% Điểm Điểm Điểm 7- 8 5- 6 Dưới 5 SL TL SL TL SL TL 15 32.6 % 19 41.3 % 7 15.2% 22 47.8% 13 28.3% 3 6.5% 20 43.5% 14 30.4% 0 0 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Để đáp ứng với yêu cầu trình độ của người giáo viên trong thời đại mới, mỗi thầy cô giáo cần phải vận động không ngừng, luôn tự học, tự nghiên cứu sáng tạo để vốn kiến thức luôn được bổ sung, luôn được làm mới. Muốn dạy học tốt phân môn lịch sử nói chung người giáo viên cần phải: - Khi dạy phân môn Lịch sử, trước hết giáo viên phải nắm được kiến thức lịch sử không chỉ ở khối lớp của mình đang dạy mà phải xâu chuỗi được cả một hệ thống kiến thức trong chương trình Tiểu học. - Dạy học đúng đặc trưng bộ môn, đúng loại bài, phù hợp với tâm sinh lý của học sinh và thực tế của lớp học. - Khai thác triệt để kênh hình, kênh thông tin ở SGK và tài liệu thu thập được để tạo cho học sinh niềm say mê, hứng thú học tập từ đó giúp các em chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động. - Tìm tòi và phối hợp tốt các phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học tích cực nhằm phát huy ở học sinh tính tò mò, ham học hỏi để em tự tìm tòi khám phá ra kiến thức mới. - Lời nói, ngữ điệu và cử chỉ của giáo viên là một yếu tốt rất quan trọng trong việc tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài học. Ngay từ khi vào bài, lời nói và ngữ điệu của giáo viên tốt cũng tạo ra sự hấp dẫn, lôi cuốn, thu hút các em sự tò mò, chú ý xem nội dung sắp diễn ra như thế nào? 18 - Rèn luyện các kĩ năng nhận thức cho học sinh như: mô tả, tưòng thuật, nhận xét, đánh giá, so sánh, tổng hợp, liên hệ,... và biết vận dụng thực tế cuộc sống. - Khi chuẩn bị bài lên lớp, yêu cầu đối với GV : + Việc chuẩn bị kĩ nội dung bài sẽ giúp cho nội dung bài học được sâu sắc, đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, người GV cần lưu ý nắm chắc tiến trình của một bài học lịch sử theo mô hình đổi mới PP, đó là: Định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập; chuẩn bị đồ dùng dạy học; GV cần có những định hướng cụ thể đối với nội dung bài học. Muốn làm tốt được điều này, người GV cần lưu ý: Lời dẫn phải súc tích, phải đề cập tới cốt lõi của bài học, tạo ấn tượng, gợi trí tò mò cho học sinh + Tổ chức cho học sinh tiếp cận các nguồn sử liệu bởi đây là khâu cực kì quan trọng của quá trình nhận thức lịch sử. - Sự chuẩn bị của HS: Đối với HS lớp 5, GV có thể yêu cầu các em chuẩn bị bài trước với một số nội dung như: tìm hiểu thêm thông tin về các nhân vật, sự kiện thông qua sách báo, Internet, sưu tầm tranh ảnh tư liệu, … để bài học được diễn ra sôi nổi, hào hứng, và quan trọng hơn là các em được chủ động lĩnh hội kiến thức. 2. Kiến nghị - Để một giờ dạy đạt hiệu quả cao không chỉ dựa vào sự đổi mới về phương pháp hay hình thức tổ chức dạy học của giáo viên, sự tiếp thu bài của học sinh, mà đồ dùng dạy học để phục vụ cho bài học cũng góp phần hết sức quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giờ dạy. Vì vậy đề nghị nhà trường cũng như các cấp lãnh đạo quan tâm đến việc bổ sung mua sắm trang thiết bị dạy học để đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay. - Đề nghị nhà trường cũng như cấp trên thường xuyên có kế hoạch tổ chức hội thảo SKKN để giáo viên các trường nói chung được nắm bắt, học hỏi kinh nghiệm áp dụng vào thực tiễn dạy học. Tôi xin chân thành cảm ơn! Đông Sơn, ngày 15 tháng 3 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết không sao chép nội dung của người khác. XÁC NHẬN CỦA Người viết THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Đỗ Thị Minh 19 MỤC LỤC I. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Đối tượng nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu II. Giải quyết vấn đề 1. Cơ sở lý luận 2. Thực trạng vấn đề 3. Một số biện pháp thực hiện 3.1. Giúp giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp, cách thức tổ chức dạy học phù hợp từng loại bài trong chương trình 3.2. Hướng dẫn giáo viên sử dụng trò chơi học tập để dạy phân môn Lịch sử góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy 3.3. Giúp giáo viên khai thác, sử dụng đồ dùng, thiết bị trong DạyHọc phân môn Lịch sử lớp 5 3.4. Dạy học thông qua các hoạt động ngoại khóa, tham quan Di tích lịch sử, địa điểm văn hóa 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm III. Kết luận và kiến nghị 1. Kết luận 2. Kiến nghị Trang 1 1 2 2 2 2 2 3 6 6 10 13 17 18 18 18 19 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan