Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Sk kn vnen lớp 3

.DOC
22
482
93

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm dạy VNEN lớp 3 Trường Tiểu học
Phßng gd& ®t huyÖn VĂN GIANG Trêng tiÓu häc TÂN TIẾN ===***=== Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3- Theo mô hình trường học mới VNEN”. Họ và tên: Lê Thị Thơm Chức vụ: Giáo viên Tiểu học Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Tân Tiến Năm học: 2017-2018 PHẦN I : MỞ ĐẦU 1 I. Đặt vấn đề 1. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Trong thực tế, đến nay, gần một năm trường nhà triển khai mô hình VNEN vào giảng dạy nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất xung quanh vấn đề nội dung và phương pháp dạy môn Tiếng Việt 3, bởi học sinh mới làm quen với hình thức học tập theo mô hình VNEN, nên còn lúng túng, nhút nhát, chưa tự tin, chưa biết cách học và chưa tương tác được nhiều với các bạn nên hình thức tổ chức hiệu quả còn chậm, chưa áp dụng được triệt để phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của mô hình trường học mới. Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy có một số vấn đề cần quan tâm sau: 1.1. Thuận lợi- khó khăn. *) Thuận lợi: - Về phía GV + Được sự quan tâm của Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường, sự đồng thuận, vào cuộc của cha mẹ học sinh . + Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sâu sắc qua các buổi thăm lớp dự giờ, xây dựng các bước dạy cũng như bài dạy , môn học , cách tổ chức lớp học theo đúng với mô hình học tập VNEN. + Giáo viên dễ dàng hơn khi tổ chức dạy học trên lớp, khắc phục được tình trạng truyền thụ kiến thức. Dựa vào thời lượng, có thể soạn bài bổ sung hoặc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp đối tượng học sinh, đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương. - Về phía học sinh: + Học sinh có cơ hội chia sẻ những trải nghiệm, được thực hành và vận dụng kiến thức,kĩ năng đã học vào đời sống hàng ngày. 2 +Học sinh chủ yếu làm việc theo nhóm nhỏ, được tranh luận và đánh giá lẫn nhau. *) Khó khăn: - Đối với giáo viên : + Giáo viên chưa linh hoạt và làm chủ thời gian trong việc hỗ trợ từng cá nhân, từng nhóm để em nào cũng cảm thấy mình được thầy cô quan tâm. + Giáo viên chưa điều hành hợp lí hoạt động giữa các cá nhân, các nhóm học sinh. Chính vì vậy mà nhịp độ học tập có độ chênh lệch nhau. - Đối với học sinh: + Học sinh còn quen phong cách chờ đợi giáo viên hướng dẫn từng thao tác, từng nhiệm vụ học tập, rất khó quen với tài liệu tự học. + Một số em chưa đủ mạnh dạn để hỏi thầy cô những nội dung, yêu cầu chưa hiểu trong tài liệu, các em sẽ không làm việc dẫn đến hiệu quả thảo luận trong các nhóm chưa cao. + Một số học sinh ( nhóm trưởng) không đủ mạnh dạn để đặt các câu hỏi gợi mở cho các bạn trong nhóm, chưa đủ tự tin để bảo nhau điều hành hoạt động nhóm. - Đối với phụ huynh: + Một số phụ huynh học sinh chưa thực sự vào cuộc và chưa có nhiều hiểu biết về mô hình trường học mới VNEN . Chính vì vậy khi học sinh chia sẻ các bài tập ứng dụng với người thân thì kết quả chưa cao, còn mang tính đại khái. 1.2. Các nguyên nhân: Trong quá trình giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp trong trường .Tôi nhận thấy rằng giáo viên chưa thường xuyên tổ chức các trò chơi Tiếng Việt cho học sinh trong giờ dạy do một số nguyên nhân sau đây: - Giáo viên ngại vận dụng và tổ chức trò chơi vì thời gian của mỗi tiết học là có hạn, cơ sở vật chất không đáp ứng tốt cho việc tổ chức trò chơi . 3 - Để chuẩn bị cho một trò chơi trong tiết học người giáo viên phải chuẩn bị rất nhiều( đồ dùng học tập, các thiết bị dạy học, hình thức tổ chức, cách tổchức….) Vì vậy mỗi giáo viên khi tiến hành dạy học đều ngại vận dụng hơn. - Khi tổ chức trò chơi giáo viên chưa hiểu hết mục đích của trò chơi ấy mang lại ý nghĩa gì? Vận dụng kiến thức gì cho môn học. Khi tổ chức các trò chơi thì giáo viên giao việc cho học sinh chưa rõ ràng, cụ thể . Thời gian quy định cho mỗi hoạt động chơi chưa rõ ràng. - HS chưa nắm được cách chơi, luật chơi, học sinh chưa mạnh dạn, tự tin để tham gia trò chơi.. Chính vì những nguyên nhân đó bản thân tôi cần nhận thấy phải có những phương pháp dạy học phù hợp hơn trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt 3 theo mô hình trường học mới VNEN. Tôi đã mạnh dạn nghiên cứu kinh nghiệm: “Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3- Theo mô hình trường học mới VNEN” 2. Ý nghĩa của phương pháp mới Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3- Theo mô hình trường học mới VNEN” mà tôi đưa ra đã phát huy được hứng thú và học sinh tích cực hoạt động, chủ động tương tác với các bạn trong giờ học của học sinh. Sáng kiến được tôi áp dụng thường xuyên vào các tiết học Tiếng Việt.Tôi thấy những trò chơi ấy thật sự có hiệu quả cao trong giờ học, lại dễ tổ chức, dễ thực hiện, tiết học lại sôi nổi gây hứng thú cho học sinh. - Học sinh không còn ngại ngùng, nhút nhát khi tương tác với bạn mà chính các em là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học.Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học. Giáo viên là người theo dõi quan sát và giúp đỡ các em thực hiện mục tiêu đó. - Nhờ vậy mà chất lượng môn Tiếng Việt đã nâng lên rõ rệt. 4 3. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này tôi tập trung nghiên cứu“Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3- Theo mô hình trường học mới VNEN” .Tại trường Tiểu học Tân Tiến . II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 1.Cơ sở lý luận Môn Tiếng Việt theo chương trình trường tiểu học mới VNEN có một vị trí quan trọng trong giáo dục ở Tiểu học, điều đó được thể hiện ở thời lượng giảng dạy trong từng khối lớp và nó làm công cụ để học các môn học khác. Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là: - Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt theo chương trình trường tiểu học mới VNEN góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác của tư duy. - Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài. - Bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Tiếng Việt, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo mô hình học tập kiểu mới VNEN, sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học. 2.Cơ sở thực tiễn Qua tìm hiểu một số giáo viên dạy lớp 3 , tìm hiểu học sinh , tài liệu tham khảo ở trường tiểu học Tân Tiến, tôi nhận thấy: Các đồng chí giáo viên chưa quan tâm 5 nhiều đến việc đưa trò vào giảng dạy môn Tiếng Việt hoặc có đưa trò chơi học vào giờ học cũng chỉ trong những giờ thao giảng . Sở dĩ có tình trạng trên là do các đồng chí giáo viên chưa nhận thức được hết tác dụng của trò chơi trong giờ học Tiếng Việt theo mô hình VNEN. Vì vậy mà giờ học còn trầm học sinh còn chưa hứng thú và tích cực tương tác với bạn trong học tập , một số học sinh chưa hoàn thành còn ngại học, ít tương tác với bạn, các em không hứng thú dẫn đến kết quả học tập không cao . Do địa bàn ở Tân Tiến , trình độ dân trí chưa đồng đều nên việc quan tâm đến việc học tập của con cái chưa cao , đồ dùng học tập của các em thiếu nhiều, tính tự giác học tập của các em còn hạn chế. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn đó, tôi đã đi sâu vào nghiên cứu“Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3- Theo mô hình trường học mới VNEN” 3. Các biện pháp tiến hành - Nghiên cứu tài liệu. Đọc và nghiên cứu tài liệu có liên quan đến đề tài. - Tìm hiểu thực tế: Tìm hiểu thực trạng dạy của giáo viên và học của học sinh từ đầu năm đến nay. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. - Dạy học thực nghiệm. - Dự giờ đồng nghiệp, quan sát việc dạy của giáo viên và học sinh . - Trao đổi với giáo viên. - Khảo sát học sinh. - Tổng kết phân tích đối chứng. - Tổng hợp kinh nghiệm. 4.Thời gian tạo ra giải pháp - Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ đầu năm học 2017 – 2018 - Thời gian áp dụng năm học 2017 - 2018. - Thời gian hoàn thành tháng 5 năm 2018. PHẦN II : NỘI DUNG I. Mục tiêu 6 - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, - Tăng cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. - Hình thành và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. - Thúc đẩy quá trình tự học của học sinh -Tạo điều kiện cho các em học sinh thực hành rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết đồng thời tiếp thu kiến thức môn học một cách tự giác sáng tạo. II.Phương pháp tiến hành 1. Mô tả giải pháp của vấn đề Để đạt được mục tiêu lấy học sinh làm trung tâm, học sinh được học theo khả năng của riêng mình tự quản, hợp tác và tự giác cao trong học tập. Nội dung học gắn bó chặt chẽ với đời sống hằng ngày của học sinh. Từ đó góp phần hình thành nhân cách, giá trị dân chủ, ý thức tập thể theo xu hướng thời đại cho học sinh. HS phải tham gia các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, tự tin và tự nhiên. Tạo cho học sinh tính tự giác, tích cực trong học tập.Nhóm trưởng đóng vai trò chính trong tiết học hướng dẫn, điều hành tiết học hướng dẫn nhẹ nhàng dưới sự trợ giúp đúng mức, đúng lúc của giáo viên, sách giáo khoa, đồ dùng dạy học Tiếng Việt, để từng học sinh (từng nhóm học sinh) tự phát hiện, phân tích và tự giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức và có thể vận dụng được kiến thức đó vào luyện tập thực hành, giúp cho việc phát triển năng lực cá nhân học sinh. Giáo viên cần linh hoạt về nhịp độ học tập tùy theo đối tượng học sinh. Phụ huynh và cộng đồng phối hợp chặt chẽ với giáo viên giúp đỡ học sinh một cách thiết thực trong các hoạt động giáo dục; tham gia giám sát việc học tập của con em mình. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng trường học kiểu mới VNEN. Thay thế các phương pháp dạy học đơn điệu ít tác dụng bằng các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Giúp học sinh hứng thú trong học tập, hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức. 7 Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các qui tắc gắn với kiến thức kĩ năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi, thông qua chơi học sinh được vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học vào các tình huống trò chơi và do đó học sinh được luyện tập thực hành củng cố, mở rộng kiến thức, kĩ năng đã học. Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, tạo ra bầu không khí dễ chịu thoải mái trong giờ học,giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực.Giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi. Trò chơi học tập rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ sử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn. Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục. Như Bác Hồ đã nói: “Trong lúc học cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần cho chúng 1.1 Nội dung chương trình, tài liệu học tập 3 trong 1 ở các bài A, B, C môn Tiếng Việt lớp 3: 1. Thời lượng hướng dẫn học tập Tiếng Việt 3- Bài A (Thời lượng 2 tiết): - Đọc và hiểu một văn bản (văn bản đọc dạy trong 1,5 tiết của SGK TV 3 hiện hành) - Luyện tập kĩ năng nói về chủ điểm mới. 2. Thời lượng hướng dẫn học tập Tiếng Việt 3- Bài B (Thời lượng 3 tiết): - Kể chuyện (kể câu chuyện đã đọc ở bài A). - Củng cố chữ viết hoa: chữ cái, từ ngữ, câu. - Nghe viết, nhớ viết đoạn văn,thơ. 3.Thời lượng hướng dẫn học tập Tiếng Việt 3- Bài C (Thời lượng 3 tiết): - Đọc và hiểu một văn bản (văn bản đọc dạy trong 1 tiết của SGK TV 2 hiện hành). - Luyện tập về từ và câu. - Luyện nói theo chủ điểm mới để chuẩn bị cho bài viết đoạn văn. - Viết đoạn văn về chủ điểm mới. 8 - Luyện tập viết từ đúng quy tắc chính tả. 1.2.Nội dung học tập ở các bài A,B, C : - Mỗi hoạt động học tập là một đơn vị bài học Tiếng Việt - Mỗi cụm bài học dùng trong 1 tuần gồm 3 bài với 3 hoạt động học tập (Ví dụ : bài 1A, 1B, 1C) - Mỗi hoạt động học tập gồm 2 phần : + Phần Mục tiêu : nêu yêu cầu về kiến thức, kĩ năng học sinh cần đạt sau khi học xong bài. + Phần Hoạt động bao gồm 3 loại hoạt động : A. Hoạt động cơ bản với các chức năng : - Khơi dậy hứng thú, đam mê của học sinh với bài mới . - Giúp học sinh tái hiện những kiến thức và kĩ năng học sinh đã có. - Giúp học sinh kết nối những kiến thức, kĩ năng đã có với kiến thức, kĩ năng mới . - Giúp học sinh thu nhận kiến thức, kĩ năng mới qua các hoạt động cụ thể như : quan sát, thảo luận,phân tích. - Giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ năng mới một cách thú vị qua các trò chơi, qua đọc sáng tạo, qua chia sẻ kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân. B. Hoạt động thực hành với chức năng : củng cố kiến thức, kĩ năng mới bằng cách quan sát để nhận diện kiến thức, kĩ năng mới trong bối cảnh khác . C. Hoạt động ứng dụng với chức năng : hướng dẫn học sinh áp dụng những kiến thức, kĩ năng mới vào cuộc sống thực của các em tại gia đình, cộng đồng. 1.3 Cách hình thức dạy học theo mô hình VNEN: Trong dạy học Tiếng Việt người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và lựa chọn các phương pháp vào từng hoạt động của các dạng bài học, để hướng dẫn học sinh tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành hình thành và rèn luyện kĩ năng Tiếng Việt, hướng dẫn học sinh giảng giải kết hợp việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, hay trò chơi Tiếng Việt, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học Tiếng Việt 3. 9 Tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động là mấu chốt của vấn đề đổi mới.Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học: 1. Qui trình 5 bước dạy của giáo viên: Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh. Bước 2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm. Bước 3. Phân tích khám phá rút ra kiến thức mới. Bước 4. Thực hành. Bước 5. Ứng dụng. 2. 10 Bước học tập của học sinh: + Bước 1. Chúng em làm việc nhóm. Nhóm trưởng lấy tài liệu và đồ dùng học tập cho cả nhóm. + Bước 2. Em đọc tên bài học rồi viết tên bài học vào vở ô li (lưu ý không được viết vào sách). + Bước 3. Em đọc mục tiêu của bài học. + Bước 4. Em bắt đầu hoạt động cơ bản (nhớ xem phải làm việc cá nhân hay theo nhóm). + Bước 5. Kết thúc hoạt động cơ bản em gọi thầy, cô giáo để báo cáo những gì em đã làm được để thầy, cô ghi vào bảng đo tiến độ. + Bước 6. Em thực hiện hoạt động thực hành: - Đầu tiên em làm việc cá nhân. - Em chia sẻ với bạn ngồi cùng bàn (giúp nhau sửa chữa những bài làm còn sai sót). - Em trao đổi với cả nhóm. Chúng em sửa cho nhau, luân phiên nhau đọc... (lưu ý không làm ảnh hưởng đến nhóm khác). + Bước 7. Hoạt động ứng dụng (gắn liền với gia đình và địa phương). + Bước 8. Chúng em đánh giá cùng thầy, cô giáo. 10 + Bước 9. Kết thúc bài, em viết vào bảng đánh giá (nhớ suy nghĩ kĩ khi viết và lưu ý về đánh giá của thầy, cô giáo). + Bước 10. Em đã học xong bài mới hoặc em phải học lại phần nào. 1.4. Một số nguyên tắc thiết kế trò chơi học tập Tổ chức trò chơi học tập mỗi chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp, song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy luyện từ và câu có hiệu quả cao thì đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau: - Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục. - Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học. - Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lí của học sinh lớp, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường. - Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú. - Trò chơi phải chuẩn bị chu đáo . - Trò chơi phải gây hứng thú với học sinh. 1.5.Cấu trúc của trò chơi học tập. - Tên trò chơi. - Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kĩ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ qui định hành động chơi được thiết kế trong trò chơi. - Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong trò chơi học tập. - Nêu lên luật chơi: Chỉ rõ qui tắc của hành động chơi qui định đối với người chơi, qui định thắng thua của trò chơi. - Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia chơi. 1.6.Cách tổ chức chơi: 11 - Thời gian tiến hành thường từ 5-7 phút.( tiến hành ngay đầu tiết học hoặc có thể lồng ghép trong mỗi bài tập, cuối bài học) nhằm thu hút sự chú ý và củng cố kiến thức một cách vững chắc hơn qua mỗi loại bài tập tương ứng với mỗi loại kiến thức. - Đầu tiên là giới thiệu trò chơi : + Nêu tên trò chơi. + Hướng dẫn trò chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ qui định chơi. - Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi . - Chơi thật. - Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh. - Thưởng - phạt: phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh.Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui như hát một bài, nhảy cò cò… 1.7. Một số trò chơi được áp dụng trong quá trình học môn Tiếng Việt 3 1. Trò chơi:” XẾP ĐÚNG TRANH” *Mục đích: - HS xếp được đúng các tranh theo thứ tự đúng với trình tự câu chuyện. * Chuẩn bị : - Các bộ tranh rời ứng với mỗi câu chuyện. * Cách tổ chức: - Số đội chơi: Chơi theo vị trí nhóm của mô hình VNEN. - Thời gian chơi: 3-5 phút. - Cách chơi: + Nhóm trưởng nhận bảng nhóm và bộ tranh rời từ góc học tập. + Cho các bạn trong nhóm quan sát nhanh và nêu được tranh đó ứng với nội dung của đoạn nào trong câu chuyện đã học. + Xếp tranh và đoạn ứng với nội dung câu chuyện. 12 + Báo cáo kết quả nhóm thực hiện với thầy cô. + Cách đánh giá hoàn thành: nhóm nào dán nhanh và đúng với thứ tự nội dung câu chuyện nhóm đó sẽ nhận được 3 tràng pháo tay khen ngợi. -Với trò chơi này tôi áp dụng trong các bài: Bài 2B “ Ai là con ngoan- HĐ 2HĐCB” Bài 5B “ Biết nhận lỗi và sử lỗi- HĐ1 của HĐCB” Bài 6B “ Em là con ngoan, trò giỏi- HĐ1 của HĐCB”. 2. Trò chơi “ HÁI HOA” * Mục đích: - Giúp HS ôn lại các bài tập đọc và học thuộc lòng đã học trong chương trình. - Trả lời được các câu hỏi có liên quan đến bài đọc . * Chuẩn bị: - Chuẩn bị các bông hoa giấy để làm phiếu. Trên mỗi bông hoa ghi tên 1 bài hoặc 1 đoạn của bài tập đọc đã học trong chương trình. *Cách tổ chức: - Số lượng học sinh : từng các nhân tham gia chơi ( khoảng từ 10- 12 em chơi). - Thời gian chơi : 20- 25 phút. - Cách chơi: + Giáo viên treo phiếu hoa lên cây để hái. + Từng em lên bốc hoa nhận yêu cầu của mình,thực hiện các yêu cầu ghi trên phiếu. + Học sinh khác nghe và nhận xét về giọng đọc của bạn và câu trả lời của bạn Giáo viên nhận xét đánh giá. + Bình chọn bạn đọc hay và trả lời đúng- Tuyên dương trước lớp. Với trò chơi này tôi tổ chức trong các bài : Bài 18 A “ Ôn tập 1- HĐCB” Bài 27 A” Ôn tập 1- HĐ 1 của HĐCB” bài 27 C “ Ôn tập 3- HĐ1 của HĐCB” 3. Trò chơi “ GHÉP CHỮ” * Mục đích: - Tìm tiếng có thể ghép với mỗi tiếng để tạo thành từ ngữ 13 - Luyện trí thông minh nhanh tay,nhanh mắt. * Chuẩn bị: Bảng nhóm và thẻ tiếng *Cách tổ chức: Ví dụ : Bài 2C: THẬT LÀ NGOAN! B. Hoạt động thực hành 1. Tìm các tiếng có thể ghép với mỗi tiếng sau để tạo từ ngữ. - xét, sét. xào, sào. xinh, sinh. - Số đội chơi: 6 đội.Mỗi đội gồm 3 em tham gia.(HS cả lớp cổ vũ và làm trọng tài) -Thời gian chơi từ 3-5 phút - Cách chơi: +Mỗi đội chơi có một bảng nhóm và thẻ tiếng. + Giáo viên yêu cầu các nhóm thảo luận nhanh và tìm tiếng ghép thích hợp để tạo từ ngữ. Sau đó mỗi đội cử 3 bạn lên chơi. Em đầu tiên lên viết từ theo dòng một rồi đi xuống đứng vào cuối hàng của đội mình, sau đó em thứ hai lên và cứ tiếp nối cho đến em cuối cùng.Trong thời gian như nhau,đội nào xác định được đúng nhiều từ nhất thì đội đó thắng cuộc.Căn cứ vào số lượng từ ghép để phân loại thắng hay thua, các đội phải tìm được các từ. Chẳng hạn( xem xét, sấm sét- xào rau, cây sào- xinh xắn, sinh sôi). Đội nào được nhiều điểm thì đội đó thắng cuộc. Với trò chơi này tôi vận dụng vào các bài : Bài 2C “ Thật là ngoan- HĐ1 của HĐTH” Bài 7C “ Vì sao mọi người, mọi vật bận mà vui- HĐ5 của HĐTH” Bài 15C “ Nhà Rông của người Tây Nguyên- HĐ1 của HĐTH”. Ngoài trò chơi trên để học sinh có thêm vốn từ tôi còn tổ chức thêm các trò chơi “Tìm từ viết đúng” sử dụng trong bài 6B “ Em là con ngoan, trò giỏi - HĐ2 của HĐTH” Bài 15B “ Hai bàn tay quý hơn vàng bạc - HĐ4 của HĐTH”. Trò chơi “ Thi tìm từ nhanh”- Bài 5C( HĐ2- HĐTH) bài 6C( HĐ2- HĐTH) bài 25C ( HĐ2- 14 HĐTH). Trò chơi “ Thi xếp từ thành nhóm” Sử dụng trong các bài: Bài 11B( HĐ4HĐCB) Bài 19B “ Em tự hào là con cháu Hai Bà Trưng ( HĐ1của HĐTH). 4.Trò chơi :“TRĂC NGHIỆM” * Mục đích: - Ôn tập lại kiến thức đã học; luyện phản ứng nhanh, khả năng quan sát, nhận xét, đánh giá chính xác, tiết kiệm thời gian. - Rèn tính tự giác, nêu cao tinh thần đồng đội. *Chuẩn bị: - Giáo viên: chuẩn bị hệ thống câu hỏi và đáp án. - Học sinh: thẻ đúng , sai. *Cách tổ chức: Chia lớp làm 2 đội chơi, cử 2 trọng tài. - Cách 1: Giáo viên lần lượt giới thiệu từng câu hỏi, sinh học sử dụng bảng nhận xét để trả lời, trọng tài theo dõi tổng kết. Đội nào có số bạn trả lời sai ít hơn đội đó thắng cuộc. - Cách 2: Giáo viên cho học sinh tự làm bài, lần lượt đưa từng đáp án, học sinh kiểm tra bài làm của mình; tự giác trả lời bằng thẻ. Trọng tài theo dõi tổng kết. + Với trò chơi này tôi sử dụng trong các bài : Bài 9C “ Ôn tập 3- HĐTH” Bài 18C “ Ôn tập 3- HĐTH) Bài 27C “ Ôn tập 3- HĐTH) Bài 35 C “ Ôn tập 3- HĐTH” Trò chơi này giúp học sinh biết đánh giá bài làm của mình, giáo viên kiểm tra bài làm của học sinh một cách nhanh gọn hơn. 5.Trò chơi: “ NHÂN HOA”: *Mục đích: Luyện phát hiện nhanh biện pháp nhân hoá và tạo nhanh cụm từ có dùng biện pháp nhân hoá, luyện khả năng tưởng tượng, rèn phản ứng nhanh. * Chuẩn bị: - Giáo viên chuẩn bị một số từ ngữ gọi tên các đối tượng có thể nhân hóa và một số cách nhân hóa các đối tượng này (gọi tên như người, có hành động, đặc điểm như người, được gọi tên để chuyện trò như người). *Cách tổ chức: 15 - Chia lớp thành hai đội (A,B), giáo viên(hoặc mời 2 HS) làm trọng tài. - 1học sinh đội A hô, 1HS đội B đáp và ngược lại. - Lưu ý mỗi đội chỉ được một lần hô hoặc đáp. Mỗi lần hô và đáp đúng sẽ đạt được nhận được một bông hoa( hoặc cờ). - Hết giờ chơi quy định, đội nào có nhiều hoa(cờ) hơn đội đó tài hơn và thắng cuô ̣c. - Tôi thường sử dụng trong khi dạy Bài 23B: Bạn đã xem trò ảo thuật chưa? ( HĐ 1 của HĐTH) 6. Trò chơi: “ GIII Ô CHỮ” * Mục đích: - Luyê ̣n óc quan sát, nhâ ̣n xét nhanh nhạy. - Luyê ̣n kĩ năng nhận biết và đoán từ thông qua nội dung câu hỏi gợi mở bằng các ô chữ cụ thể. * Chuẩn bị: - Giáo viên chuẩn bị kẻ sẵn ô chữ với các ô chữ theo tùng chủ đề và nội dung kiến thức mỗi bài học. * Cách tổ chức: - Giáo viên có thể lựa chọn nhiều hình thức thi đoán ô chữ như chia lớp thành các đội chơi hoặc cho học sinh chơi cá nhân. - Giáo viên gọi học sinh lựa chọn ô chữ bất kì. - Người chơi nghe câu hỏi của mình và suy nghĩ trả lời . - Sau khi người chơi trả lời được thi ô chữ đó sẽ xuât hiện và cứ lần lượt như vậy giải đúng được tất cả các ô chữ thì ô chữ từ khóa sẽ xuất hiện. - Giáo viên tuyên dương cho người chơi sau mỗi lần giải đúng ô chữ. - Tôi thường sử dụng trong khi dạy các bài : Bài 6B “ Em là con ngoan, trò giỏi- HĐ4 của HĐCB” và bài 27B “ Ôn tập 2- HĐ3 của HĐTH” 2. Phạm vi áp dụng: 16 Kinh nghiệm “Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3- Theo mô hình trường học mới VNEN” có thể áp dụng cho học sinh khối 3 ở mọi nhà trường Tiểu học và mọi đối tượng học sinh đang theo mô hình trường học mới VNEN 3. Hiệu quả Sau khi nghiên cứu và áp dụng đề tài này ở lớp phụ trách, qua theo dõi việc thống kê chất lượng môn tiếng Việt nói chung đã thu được hiệu quả cao như : - Phát huy được tính tích cực hoạt động, chủ động trong giờ học của học sinh . Học sinh tập trung hơn, hứng thú hơn vào làm việc nhóm,cá nhân… được nâng cao lên rõ rệt. Kĩ năng đọc hiểu cũng tốt hơn. Biết sử dụng Tiếng việt để viết các câu văn, đoạn văn…. - Giờ học Tiếng Việt diễn ra nhẹ nhàng, thoải mái đối với các em. - Không khí lớp học luôn luôn sôi nổi, chất lượng giờ học đảm bảo. - Chất lượng môn Tiếng Việt của lớp được nâng lên rõ rệt. 4.Kết quả thực hiện Sau khi áp dụng những kinh nghiệm trên, tôi đã tiến hành kiểm tra chất lượng lớp 3E đã dạy thực nghiệm và lớp đối chứng là lớp 3G. Kết quả đạt được: Lớp HTT TSHS SL 3G 3E 34 35 22 16 HT CCG % SL % SL % 64,7% 12 35,3% 0 0 45,7% 19 54,3% 0 0 Qua kết quả kiểm tra tôi nhận thấy chất lượng học sinh ở lớp thực nghiệm 3E cao hơn hẳn so với lớp đối chứng 3G. 17 Những tiết dạy tôi áp dụng trò chơi Tiếng Việt vào giảng dạy HS rất hứng thú và tiếp thu bài một cách chủ động, dưới sự điều hành của các nhóm trưởng. Chất lượng các bài tập thực hành được các em vận dụng kiến thức vào làm một cách chắc chắn hơn, biết sử dụng Tiếng việt để viết các câu văn, đoạn văn. Các em đã biết lồng ghép các hình ảnh so sánh, những câu văn mà trong đó sự vật được nhân hóa để viết bài. Một số học sinh đọc chưa biết ngắt nghỉ hay nhấn giọng đến nay các em đã biết thể hiện giọng đọc của mình, lời của các nhân vật. Thông qua các hoạt động thực hành . Một số giáo viên trong tổ khối cũng cùng chia sẻ và áp dụng các trò chơi học tập môn Tiếng Việt vào lớp của mình để giảng dạy, chất lượng môn Tiếng Việt đã được nâng cao một cách tích cực. III. PHẦN KẾT LUẬN 1. Kết luận chung Qua một năm vận dụng các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới VNEN và việc tổ chức trò chơi trong dạy Tiếng Việt ở lớp 3 tôi nhận thấy mô hình đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật dạy học nên đã phát huy được tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi, khám phá kiến thức trong học sinh. Học sinh luôn tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tiếp thu kiến thức tốt hơn , khắc sâu được kiến thức, mở rộng vốn từ, dùng từ ngữ viết văn sinh động, gợi tả gợi cảm hơn, nhất là học sinh không cảm thấy nhàm chán trong giờ học Tiếng Việt. Do đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em đối với bài học. Tạo được một môi trường học tập thân thiện, vui vẻ, thoải mái. Chất lượng học tập ngày càng cao. 2. Điều kiện áp dụng Trên đây là một số trò chơi trong chương trình học mônTiếng Việt ở lớp 3. Xét điều kiện và khả năng dạy- học của giáo viên và học sinh, tôi thấy sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng được cho tất cả các lớp dạy và học Tiếng Việt theo mô 18 hình VNEN trong toàn huyện và có thể áp dụng vào các môn học khác tùy vào nội dung môn học và việc sử dụng của giáo viên. Để việc dạy học cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 theo chương trình VNEN nói riêng đạt kết quả cao cần trang bị đầy đủ thiết bị và đồ dùng dạy học cho giáo viên và học sinh. Bố trí phòng học đúng quy cách. 3.Triển vọng vận dụng và phát triển Với chương trình đổi mới trong giáo dục nói chung, trong bậc Tiểu học nói riêng, tôi nhận thấy việc đổi mới theo mô hình trường học mới VNEN đem lại hiệu quả đáng kể. Học sinh tự nhận thức và tiếp thu kiến thức một cách toàn diện hơn. Với tôi mỗi ngày đứng trên bục giảng, tôi luôn mong muốn tìm được phương pháp giảng dạy tốt hơn để đạt được hiệu quả cao nhất ở tất cả các môn học với hy vọng góp một phần nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện ở bậc Tiểu học. Trong thời gian đó tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “Thao tác hoá” quá trình suy nghĩ và học tập của học sinh theo hướng đổi mới VNEN đó là lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự lĩnh hội và chiếm lĩnh kiến thứcngười giáo viên chỉ là giúp đỡ các em thông qua các hoạt động học. Luôn tạo ra hứng thú cho các em thông qua việc tổ chức các trò chơi học tập không những trong môn Tiếng Việt mà còn ở cả những môn học khác . 4. Đề xuất, kiến nghị 4.1. Đối với phòng giáo dục: Tạo mọi điều kiện, khuyến khích giáo viên chủ động trong việc khai thác nội dung, sáng tạo và xây dựng các kiểu bài tập phù hợp để giúp học sinh tham gia học một cách tích cực và chủ động hơn. Cung cấp các tài liệu về Nghiên cứu Tiếng Việt, từ điển Tiếng Việt. Tổ chức các chuyên đề về giảng dạy Tiếng Việt để nhân rộng mô hình VNEN. Cung cấp kịp thời các phương tiện dạy học phục vụ cho môn học. 19 4.2.Đối với nhà trường: Ban chuyên môn chỉ đạo và bồi dưỡng cho giáo viên thông qua việc sinh hoạt chuyên đề ở tổ, khối giáo viên đã từng bước tháo gỡ được những khó khăn của bản thân về nội dung phương pháp giảng dạy, đồng thời được học tập đồng nghiệp, được trao đổi giao lưu với đồng nghiệp, dựa vào những tiết mẫu đó vận dụng vào các bài học của mình. Ban giám hiệu tạo điều kiện để giáo viên được tự học, tự bồi dưỡng năng cao trình độ nghiệp vụ tay nghề đáp ứng với yêu cầu giảng dạy. Tổ chức các buổi thảo luận về nội dung , cách tổ chức học tập theo mô hình VNEN đang được nhân rộng. Lập kế hoạch và chỉ đạo công tác tự học bồi dưỡng thường xuyên qua các buổi sinh hoạt. Mở các chuyên đề hội thảo để nhân rộng các cá nhân điển hình ra toàn trường. Ban giám hiệu bố trí sắp xếp cho giáo viên có thời gian đi dự giờ đồng nghiệp trong trường, trong cụm và đặc biệt là dự các tiết giáo viên giảng dạy theo mô hình VNEN. Trên đây là những nghiên cứu tôi rút ra được từ trong thực tiễn giảng dạy của mình trong năm học này và mong muốn sẽ làm tốt hơn trong các năm học tới. Tuy là những kinh nghiệm đơn giản nhưng đã có tác dụng rõ rệt trong mỗi giờ học cũng như trong suy nghĩ của các em học sinh. Trong khi trình bày sáng kiến sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, mong quý đồng nghiệp giúp đỡ, nhận xét bổ sung, góp ý kiến để tôi có những sáng kiến kinh nghiệm hoàn chỉnh hơn giúp nâng cao kết quả học tập cho học sinh trong môn Tiếng Việt 3. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan