Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Lớp 3 Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn tập đọc kể chuyện lớp 3...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn tập đọc kể chuyện lớp 3'

.PDF
32
46
64

Mô tả:

A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do CHän ®Ò tµi: 1. C¬ së lý luËn Môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các môn ở trường.Việc giảng dạy và học tập môn Tiếng Việt đã góp phần hình thành và phát triển bốn kĩ năng khi sử dụng tiếng Việt, đó là: nghe, nói, đọc, viết để tiếp tục học lên các bậc cao hơn và để giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày. Đồng thời nó rèn luyện cho học sinh thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ thống… Ngoài ra môn Tiếng Việt còn giúp nâng cao phẩm chất tư duy và năng lực về nhận thức cho học sinh. Khi học môn Tiếng Việt, các em sẽ được cung cấp các hiểu biết sơ giản về hệ thông tiếng Việt và tri thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Song song với nó, các em còn tiếp thu được những hiểu biết về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa và con người Việt Nam và nước ngoài. Tình yêu tiếng Việt của các em sẽ được hình thành và phát triển thông qua việc học môn này, các em sẽ có ý thức đối với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tất cả những điều đó sẽ góp phần hình thành nên nhân cách của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếng Việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập làm văn, Tập viết, Luyện từ và câu. Trong hệ thống đó, mỗi phân môn lại đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng. Dạy phân môn Tập đọc ở tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập đọc - Kể chuyện nói riêng ở lớp 3 đang là một vấn đề không chỉ nhà trường mà các giáo viên cũng đặc biệt quan tâm. Tập đọc là môn học mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học nó còn nhiệm vụ trau dồi kiến thức về tiếng Việt cho học sinh (về phát âm, từ ngữ, câu văn….) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm. Bước vào bậc Tiểu học, học sinh đã thật sự bước vào một quá trình học tập rèn luyện để làm giàu vốn hiểu biết của mình bằng vốn tri thức của toàn nhân loại. Mà vốn hiểu biết ấy được làm giàu bằng nhiều cách. Các em có thể dùng con mắt để quan sát, thu nhận thông tin, mọi cảnh quan của thiên nhiên; dùng đôi tai tinh nhạy ghi nhận 1 âm thanh của trời đất, của cuộc sống và có thể dùng trí tuệ của mình để phân tích, đánh giá các hiện tượng tự nhiên, xã hội theo một cách riêng.Để làm được việc đó, các em rất cần được trang bị cho bản thân một kĩ năng đọc và khả năng cảm nhận, ghi nhớ tốt nhất. 2. Cơ sở thực tiễn Trong thực tế ở lớp 3, chương trình dạy Tập đọc vô cùng phong phú và đa dạng. Trong phân phối chương trình gồm 31 bài Tập đọc – Kể chuyện ( mỗi bài dạy trong 2 tiết ) và 31 bài Tập đọc ( mỗi bài dạy trong 1 tiết ) thuộc 15 chủ đề : - Măng non, Mái ấm, Tới trường, Cộng đồng, Quê hương, Bắc – Trung – Nam, Anh em một nhà, Thành thị và Nông thôn. - Bảo vệ Tổ quốc, Sáng tạo, Nghệ thuật, Lễ hội, Thể thao, Ngôi nhà chung, Bầu trời và mặt đất. Chương trình Tiếng Việt lớp 3 không có tiết Kể chuyện riêng mà bố trí trong bài tập đọc hai tiết ở đầu mỗi tuần.Khi học sinh đọc, kể lại được tác phẩm văn chương con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dạy năng lực hành động, sức mạnh cũng như bồi dưỡng tâm hồn. Do đó Tập đọc - Kể chuyện đóng một vai trò cực kì quan trọng trong dạy môn Tiếng Việt ở tiểu học. Đọc giúp học sinh có thể giải mã được các tín hiệu ngôn ngữ, thông hiểu văn bản, giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như có hình ảnh. Kể chuyện giúp cho các em cảm thụ tốt hơn cái hay, cái đẹp của tác phẩm, góp phần tích lũy vốn văn học, mở rộng vốn sống cho trẻ. Từ đó gieo vào tâm hồn các em những ước mơ, hoài bão về một tương lai tươi đẹp. Góp phần rèn luyện và phát triển kĩ năng nói, kể trước đám đông. Qua đó, các em sẽ tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp với mọi người để thu hút sự chú ý của mọi người, các em phải tìm cách làm sao để đọc và kể sao cho hấp dẫn nhất. Nếu chất lượng phân môn Tập đọc – Kể chuyện được nâng cao, các em sẽ có điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập các môn khác. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập đọc – Kể chuyện ? Đó là điều tôi 2 luôn băn khoăn suy nghĩ và trong năm học này tôi chọn cho mình đề tài nghiên cứu “ Các giải pháp nâng cao chất lượng học phân môn Tập đọc – Kể chuyện lớp 3. ”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích cụ thể như sau: - Nâng cao hiểu quả dạy học phân môn Tập đọc – Kể chuyện lớp 3. - Giúp học sinh có khả năng đọc diễn cảm và kể chuyện tự nhiên hơn. - Tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em nhận thấy tầm quan trọng của phân môn Tập đọc – Kể chuyện, từ đó giáo dục động cơ học tập cho các em. III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Để đạt được những mục tiêu đã đề ra ở trên tôi đã thực hiện những nhiệm vụ sau: - Khảo sát và đánh giá thực trạng đọc và kể chuyện của học sinh lớp mình giảng dạy. - Cố gắng tìm ra một số biện pháp để tháo gỡ những khó khăn trong việc dạy phân môn Tập đọc – Kể chuyện cho học sinh. - Nghiên cứu những vấn đề lí luận có liên quan đến việc rèn kĩ năng đọc và kể chuyện cho học sinh. VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã tiến hành sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp điều tra - Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp quan sát sư phạm. - Phương pháp phỏng vấn V. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Học sinh lớp 3G trường tôi. VI. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU Từ tháng 9 năm 2017 đến hết tháng 3 năm 2018. 3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Môn Tiếng Việt ở trường có nhiệm vụ hình thành hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Vì những lẽ trên, dạy phân môn Tập đọc có một ý nghĩa vô cùng to lớn ở Tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Từ đó giúp trẻ chiếm lĩnh ngôn ngữ dùng để giao tiếp và học tập. Đọc là công cụ để học các môn học khác. Bên cạnh đó, phân môn Kể chuyện có vị trí đặc biệt quan trọng không kém trong dạy học tiếng mẹ đẻ, vì hành động kể là một hành động “nói” đặc biệt trong hoạt động giao tiếp. Kể chuyện vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết về đời sống và tạo điều kiện để học sinh rèn luyện một cách tổng hợp các kĩ năng Tiếng Việt như nghe, đọc, nói trong hoat động giao tiếp. Khi đọc, học sinh đã tiếp nhận tác phẩm văn học ở dạng có âm thanh (đọc thành tiếng). Khi kể chuyện, các em đang tái sản sinh một tác phẩm nghệ thuật ở dạng lời nói. Vì truyện là một tác phẩm văn học nên kể chuyện có cả sức mạnh của văn học. Truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Sự hiểu biết về cuộc sống, về con người, tâm hồn, tình cảm của các em sẽ nghèo đi biết bao nhiêu nếu không có môn học Kể chuyện trong trường học.Kể chuyện ở lớp 3 được gắn bó chặt chẽ với phân môn Tập đọc, đều là kể lại câu chuyện học sinh đã đọc trong bài tập đọc đầu mỗi tuần trong thời gian 0,5 tiết. Dạy tốt phân môn Tập đọc – Kể chuyện là tạo cho học sinh một nền tảng vững chắc để học tốt môn học Tiếng Việt và tất cả các môn học khác. Có đọc đúng, đọc trôi chảy mới cảm thụ được bài văn và từ đó sẽ hiểu tất cả các văn bản khác để diễn đạt bằng lời thật tốt. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt nền móng đầu tiên. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN 4 Năm học 2017 – 2018 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3G với tổng số 60 học sinh. Sau khi nhận lớp, qua quá trình giảng dạy học sinh, tôi thấy lớp tôi có những thuận lợi và khó khăn như sau : 1.Thuận lợi : - Đa số học sinh ngoan có ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập. Trong lớp có nhiều em yêu thích học môn Tiếng Việt; đọc to rõ ràng; học thuộc bài nhanh và rất tích cực phát biểu xây dựng bài. Cha mẹ học sinh luôn quan tâm sát sao và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho con trong quá trình học tập. - Cơ sở vật chất : Trường lớp sạch sẽ, thoáng mát. Lớp học đủ ánh sáng và được trang bị đầy đủ đồ dùng học tập cũng như đồ dùng bán trú. Đây là yếu tố luôn mang lại sự thoải mái giúp cho học sinh học tập tốt hơn. - Các đồng chí trong Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sát sao trong lĩnh vực chuyên môn. Nhắc nhở và giúp đỡ kịp thời tới từng giáo viên trong quá trình giảng dạy, tạo điều kiện tốt giúp học sinh đạt được kết quả cao trong học tập. 2. Khã kh¨n. - Trong thực tế giảng dạy phân môn Tập đọc – Kể chuyện ở lớp 3 hiện nay tôi nhận thấy giáo viên đã dạy đúng chương trình và sách giáo khoa, học sinh nắm chắc nội dung bài và được rèn đọc tốt hơn. Tất cả học sinh đều được tham gia đọc và kể (theo cá nhân, cặp đôi, nhóm). Tuy nhiên, không thể tránh khỏi những tồn tại và khó khăn. Một số giáo viên phối hợp các hình thức dạy học còn máy móc, chưa chú ý hướng dẫn đọc diễn cảm, sửa ngọng cho học sinh, phân bố thời gian tiết dạy chưa hợp lý, chưa phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động cá nhân với thảo luận nhóm của học sinh, chưa khuyến khích học sinh phát huy tính sang tạo khi kể chuyện, chưa khai thác đồ dùng hợp lý…. - Đầu năm học, sau khi dạy xong một bài Tập đọc – Kể chuyện, tôi đã thu được kết quả khảo sát cụ thể ở lớp tôi như sau: 5 Kĩ năng đọc và kể Tổng số chuyện chưa tốt Kĩ năng đọc và kể Kĩ năng đọc và kể chuyện bình thường chuyện tốt HS Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ 60 22 36,6% 25 34,8% 13 21,6% III . GIẢI PHÁP Đứng trước tầm quan trọng, vị trí nhiệm vụ của phân môn Tập đọc – Kể chuyện và dạy học phân môn này ở lớp 3 cũng như tình hình thực tế giảng dạy hiện nay, tôi mạnh dạn xin trình bày các giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập đọc – Kể chuyện lớp như sau: 1. Biện pháp 1: Điều tra về cấu trúc, kĩ năng, nội dung chương trinh phần Tập đọc, Kể chuyện ở lớp 3 a. Kĩ năng đọc - Đọc một số văn bản nghệ thuật, hành chính, báo chí, khoa học thưởng thức (chú trọng đọc tên riêng nước ngoài, từ dễ đọc sai do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương). - Đọc thầm tìm hiểu ý chính của đoạn, nội dung của bài; nhận xét về nhân vật, hình ảnh, chi tiết; đặt đầu đề cho đoạn văn, tác phẩm. - Đọc thuộc một số bài thơ, bài văn, đoạn văn ngắn. b. Kĩ năng kể chuyện - Kể từng đoạn hoặc kể lại toàn bộ câu chuyện sau khi đọc tác phẩm. - Kể lại câu chuyện theo lời của nhân vật. c. Cấu trúc dạng bài Tập đọc - Kể chuyện Tập đọc được học trong 31 tuần (không kể 4 tuần ôn tập), được phân bố vào từng tuần với các phân môn khác với 15 chủ điểm. Mối tuần có 2 tiết Tập đọc trong đó Tập đọc đầu tuần là dạng bài Tập đọc - Kể chuyện. 31 tuần là 31 câu chuyện giúp học sinh mở rộng tầm hiểu biết. Các dạng bài Kể chuyện thuộc phân môn Tập đọc có cấu trúc và yêu cầu khác nhau như sau: Cấu trúc dạng bài Tập đọc – Kể chuyện: 6 - Câu chuyện có lời thoại: 22 bài. - Câu chuyện dạng tự sự: 9 bài. Yêu cầu của phần Kể chuyện: - Yêu cầu dựa vào tranh để kể: 17 bài. - Yêu cầu dựa vào câu gợi ý: 7 bài. - Các yêu cầu khác: 7 bài. 2. Biện pháp 2: Phân loại học sinh Để giúp cho việc dạy học theo đối tượng học sinh có hiệu quả, ngay từ đầu năm học, tôi đã điều tra và theo dõi việc đọc, kể chuyện của các em hàng ngày để ghi vào sổ theo dõi; ghi chi tiết về ưu, nhược điểm của mỗi em; để lên kế hoạch học theo nội dung, chương trình và thời điểm của năm học, đồng thời theo dõi sự tiến bộ từng ngày của các em, dù là rất nhỏ. Từ đó kịp thời động viên, khuyến khích các em và thay đổi kế hoạch dạy học sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Có như vậy mới có thể giúp các em phát huy được ưu điểm, khắc phục được những mặt còn hạn chế. Tôi đã sắp xếp chỗ cho các em học sinh đọc yếu ngồi cạnh các bạn đọc khá, đọc tốt để trở thành đôi bạn cùng tiến, giúp đỡ nhau trong việc đọc khi hoạt động cá nhân, nhóm hay cặp đôi. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ tác phẩm văn học, dựa vào đó mới có thể kể lại, truyền đạt lại một cách sinh động, lôi cuốn người nghe. 3. Biện pháp 3: Nâng cao chất lượng dạy và học qua hoạt động làm mẫu của giáo viên Đối với đối tượng là học sinh tiểu học thì việc làm mẫu của giáo viên đóng một vai trò quan trọng. Chỉ chiếm 0,5 thời gian trong 1 tiết học nên việc giáo viên kể chuyện mẫu thường diễn ra không thường xuyên. Thay vào đó giáo viên sẽ gợi ý cho các em cách kể chuyện sao cho tự nhiên, giáo viên có thể hướng dẫn kể mẫu một đoạn nào quá khó kết hợp với lời hướng dẫn. Giáo viên đưa ra một số cách kể mẫu, khuyến khích học sinh dùng cử chỉ, điệu bộ sao cho sinh động và có thể làm mẫu cho các em, từ đó học sinh mới phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh. 7 4.Biện pháp 4 : Chú trọng sự chuẩn bị của học sinh Học sinh ít đọc sách, không chịu đọc sách ở nhà. Nếu có đọc thì học sinh cũng chưa biết cách đọc, chỉ đọc một cách đại khái qua loa, đọc cho có học, lười tìm hiểu; học sinh đọc còn chậm, chưa biết cách ngắt nghỉ hơi khi đọc; chưa có sự chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp với tiết kể chuyện. Chính vì những tồn tại đó, trước khi kết thúc một tiết Tập đọc bao giờ tôi cũng dành một ít phút dặn dò học sinh chuẩn bị trước bài sau. Đọc nhiều lần ở nhà cho trôi chảy và chuẩn bị trước phần câu hỏi, tìm hiểu nội dung bài trong sách giáo khoa để nắm rõ nội dung bài. Từ đó dặn học sinh tập kể chuyện miệng trước ở nhà đối với tiết Tập đọc đầu tuần để khi lên lớp kể các em không bị lúng túng do thiếu tự tin trước đám đông hay vì chưa nắm được nội dung truyện. 5. Biện pháp 5: Rèn kĩ năng Tập đọc, Kể chuyện cho học sinh 5.1.Tập đọc a. Chuẩn bị đọc cho học sinh Tôi luôn chú ý đến tư thế đọc của học sinh. Khi ngồi đọc cần ngay ngắn, khoảng cách từ sách đến mắt khoảng 30- 35cm, cổ và đầu thẳng. Khi cô giáo gọi đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Trước khi đọc câu đầu, đoạn đầu hay toàn bài phải đọc tên bài. Tư thế đứng đọc phải đoàng hoàng, thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay. b. Luyện phát âm đúng và sửa ngọng cho học sinh thông qua việc đọc thành tiếng Đầu năm tôi đã phân loại để nắm được trình độ của học sinh và chia các đối tượng như đã nói ở trên. Sau đó tôi phân nhóm, mỗi nhóm có các đối tượng: giỏi, khá, trung bình để các em tự hỗ trợ và có ý thức cùng nhau tiến bộ hơn. Chú ý đến những học sinh phát âm nặng do ảnh hưởng địa phương để từ đó có kế hoạch luyện đọc cho từng em. Tôi đặc biệt quan tâm đến những em học sinh yếu, là giáo viên chủ nhiệm lớp tôi đã thường xuyên liên lạc với gia đình để cùng hỗ trợ em trong việc luyện đọc ở nhà. Bên cạnh đó, tôi cũng quan tâm đến 8 những đối tượng khác để phát huy được năng lực, sở trường của từng em trong lớp. Để luyện phát âm đúng, sửa được ngọng cho học sinh, trước hết và thực chất phải giải quyết vấn đề phương ngữ. Mục tiêu của chúng ta đặt ra là luyện cho học sinh vươn đến một tiếng nói dân tộc Việt Nam thống nhất, đẹp đẽ về mặt âm thanh. Muốn vậy, chúng ta phải luyện cho học sinh đọc đúng, hay trong phạm vi giao tiếp rộng hơn phương ngữ hẹp của mình. Khi hướng dẫn phát âm tôi phân tích cho các em thấy sự khác biệt của phát âm đúng và phát âm sai mà các em mắc phải. Giáo viên làm mẫu hoặc mô tả hệ thống môi, răng, lưỡi khi phát âm. Ví dụ: Khi dạy bài“Cô giáo tí hon” (Tiếng Việt 3, tập 1)có đoạn: “Mấy đứa nhỏ làm y hệt đám học trò, đứng cả dậy, khúc khích cười chào cô”. “Đàn em ríu rít đánh vần theo. Thằng Hiển ngọng líu, nói không kịp hai đứa lớn. Cái Anh hai má núng nính, ngồi gọn tròn như củ khoai, bao giờ cũng giành phần đọc xong trước”. Để học sinh đọc tốt các từ khúc khích, ríu rít, ngọng líu, núng nính giáo viên phát âm chuẩn là học sinh sẽ đọc đúng theo. Với nhiều em do quá ảnh hưởng bởi địa phương, dù phát âm nhiều lần nhưng vẫn bị sai: núng nính đọc sai thành lúng lính, ngọng líu đọc sai thành ngọng níu dù đã được nghe cô và các bạn đọc đúng. Vì vậy, tôi đã hướng dẫn các em cách phát âm l - n (lờ/nờ) bằng một số cách sau: - Hướng dẫn học sinh đặt lưỡi đúng vị trí khi phát âm: + Âm n: đầu lưỡi đặt ở chân răng hàm trên vòm cứng, lúc này miệng hơi mở, khi nói, lưỡi cứng và bật nhẹ đầu lưỡi xuống, phát âm “nờ”. + Âm l: đầu lưỡi đặt ở chân hàm răng trên, lúc này miêng hơi mở, khi nói uốn nhanh đầu lưỡi cong lên, bật mạnh và rơi tự do xuống, phát âm “lờ”. - Luyện phát âm bằng cách tìm những câu nói, bài thơ, cụm từ giúp dễ phân biệt l/n: + Nếu nói lầm lẫn lần này thì lại nói lại. 9 + Nói năng nên luyện luôn luôn Nói lời lưu loát luyện luôn lúc này Lẽ nào nao núng lung lay Lên lớp lú lẫn lại hay nói lầm. Ngoài ra, giáo viên cần chú ý luyện đọc đúng cho các em các vần dễ nhẫm lẫn như: ưu, ươu, uyu, uya... trong các từ như lưu luyến, con hươu, đêm khuya, khuỷu tay…;các tiếng có âm đầu s - x, ch - tr, hay r - d - gi. Giáo viên vận dụng phương pháp luyện đọc theo mẫu, yêu cầu học sinh nghe và nhìn; giáo viên đọc mẫu thật chuẩn, học sinh chú ý nghe và nhìn miệng giáo viên để đọc theo, học sinh sẽ nhận diện và khắc sâu trí nhớ cách đọc sao cho đúng. Khi đọc tên riêng nước ngoài như: Ê-đi-xơn, Cô-rét-ti, En-ri-cô… cần phải đọc tốc độ vừa phải, không nên đọc chậm hay ngắt rời rạc từng tiếng.Những phần luyện này tôi luôn kết hợp trong phần luyện đọc cá nhân. Vì vậy, dù đọc ở mức độ nào cũng phải yêu cầu phát âm đúng, tuy nhiên cũng không nên quá nhấn mạnh ở các phụ âm như: tr- ch, s - x, r – d- gi làm giọng đọc mất tự nhiên. c. Luyện cho học sinh đọc ngắt nghỉ đúng Ngoài việc rèn đọc đúng, chính xác, giáo viên cần hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ hợp lý để đọc đúng nội dung. Thực tế trong lớp vẫn còn có một số học sinh hiểu sai nghĩa nên ngắt sai. Đối với những bài văn xuôi, khi đọc phải nghỉ hơi theo dấu câu nhưng có em lại đọc luôn một mạch. Các em cứ đọc mãi đến khi nào hết hơi của mình rồi mới chịu nghỉ để lấy hơi đọc tiếp, hết hơi chỗ nào lại ngắt hơi đúng chỗ đó. Khiến cho người nghe thấy khó hiểu ý nghĩa của câu văn. Vì vậy, giáo viên có định hướng cho các em bằng các câu hỏi gợi mở: Việc ngắt nghỉ hơi phải phù hợp với dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Phải dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp để xác định cách ngắt nhịp đúng các câu. Khi đọc ngắt nhịp đúng câu, giáo viên gọi một số em đọc đúng và cho cả lớp đánh dấu vào sách bằng kí hiệu cho dễ nhớ.Học sinh luyện đọc đoạn cần luyện đọc đúng. Lưu ý tới việc ngắt nghỉ theo dấu câu và ngắt với 10 câu văn dài. Học sinh còn cần chú ý đến các bài tập đọc dạng bài thơ để ngắt nghỉ đúng dòng thơ, khổ thơ, thể thơ. Đối với bài thơ, tùy theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh cách đọc sao cho đúng nhịp câu thơ. Tuy vậy cũng phải dựa vào từng dòng cụ thể để ngắt cho đúng để ý nghĩa câu thơ, đoạn thơ được bộc lộ đúng. Ví dụ: Bài “Về quê ngoại” (Tiếng Việt 3, tập 1) “Em về quê ngoại/ nghỉ hè,/ Găp đầm sen nở/ mà mê hương trời.// Gặp bà/ tuổi đã tám mươi,/ Quên quên/ nhớ nhớ những lời ngày xưa”.// d. Luyện đọc diễn cảm cho học sinh Đọc diễn cảm ở đây được hiểu là đọc hay, được xem là một yêu cầu đặt ra khi đọc một văn bản, một tác phẩm. Ở Tiểu học không yêu cầu học sinh có phong cách đọc riêng mà yêu cầu học sinh có ý thức đọc đúng ngữ điệu để biểu đạt đúng ý nghĩa, tình cảm mà tác giả đã gửi gắm vào trong tác phẩm, đồng thời biểu hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Giáo viên có thể đọc mẫu sau đó dùng câu hỏi gợi mở cho học sinh để thôi thúc khả năng tư duy, tự tìm ra cách đọc của các em. Tôi chỉ là người lắng nghe và sửa cách đọc cho từng em học sinh. Tôi luôn khuyến khích các em cố gắng đọc diễn cảm. Ví dụ: Sau mỗi bài tập đọc tôi thường hướng dẫn các em đọc diễn cảm cả bài hoặc một đoạn. Hướng dẫn học sinh đọc phù hợp với nội dung của đoạn. Tổ chức các thi đọc diễn cảm, đọc phân vai…(đối với tác phẩm có nhiều lời thoại). Chính vì vậy mà giờ Tập đọc lớp tôi, các em rất thích và hào hứng khi tham gia đọc diễn cảm. Dưới đây tôi xin đi vào chi tiết một số phương diện liên quan đến đọc diễn cảm, nghiên cứu sâu để giúp các em đọc tốt hơn: Cao độ: Khi nói đến việc sử dụng cao độ để đọc diễn cảm là muốn nói đến những chỗ lên giọng, xuống giọng có dụng ý nghệ thuật. Phần tập đọc trong 11 sách giáo khoa có rất nhiều văn bản truyện, ở đó luôn có sự xen kẽ lời nhân vật và lời của người dẫn chuyện. Khi đọc những lời dẫn chuyện cần đọc với giọng nhỏ hơn, thấp hơn với lời nói trực tiếp của nhân vật. Tôi nói với học sinh: đó là sự chuyển giọng mà những lời dẫn như nền thấp để cho những lời hội thoại nổi lên. Ngữ điệu: Ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên cao hay hạ thấp giọng đọc, nhấn giọng. Ví dụ: (1) Bài “Cậu bé thông minh” (Tiếng Việt 3, tập 1) Bài văn được viết theo thể kể chuyện – kể về một cậu bé thông minh, tài giỏi, nhanh trí. Tình tiết câu chuyện hấp dẫn, sinh động. Khi đọc, phải thể hiện rõ giọng của từng nhân vật, học sinh cần làm rõ các chi tiết đó bằng cách nhấn giọng vừa phải ở các từ ngữ như:“ầm ĩ”, “tìm được”, “trọng thưởng”… Đặc biệt các câu đối thoại giữa Đức Vua và cậu bé ngữ điệu đọc phải toát lên vẻ ngộ nghĩnh, ngây thơ nhưng thể hiện sự thông minh của cậu bé với những câu trả lời hồn nhiên. Tôi hỏi học sinh: “Để thể hiện đúng câu trả lời rất hồn nhiên, vô tư của cậu bé, con cần đọc với giọng như thế nào?”. “Muôn tâu Đức Vua – cậu bé đáp – bố con mới đẻ em bé, bắt con phải đi xin sữa cho em. Con không xin được, liền bị đuổi đi”. Với lời của Đức Vua khi quát cậu bé: “- Thằng bé này láo, dám đùa với trẫm! Bố ngươi là đàn ông/ thì đẻ sao được!” Khi đọc câu này tôi dặn học sinh cần lên cao giọng ở cuối câu cảm, phải nhấn giọng ở một số từ như “láo, đùa, đàn ông, đẻ sao được” để thể hiện đúng sắc thái nhân vật là đang quát cậu bé. Tôi cũng nhắc học sinh lưu ý sự khác nhau khi đọc hai câu cảm ở trên. Câu cảm thứ nhất (Thằng bé này láo, dám đùa với trẫm!) thể hiện sự hách dịch của nhà vua. Câu cảm thứ hai (Bố ngươi là đàn ông/ thì đẻ sao được!) gần như là một câu hỏi nên phải lên giọng ở tiếng “được”. Đối với những bài văn xuôi, khi đọc, ngoài việc tìm những dấu câu đặc biệt như dấu chấm hỏi, dấu chấm than để hướng dẫn học sinh; giáo viên cần phải 12 chú ý nhắc học sinh ngắt hơi ở dấu hai chấm, dấu chấm phẩy. Đặc biệt phải biết ngắt hơi ở những chỗ không có dấu câu là những chỗ tách ý. Về tốc độ đọc: Tốc độ đọc chi phối sự diễn cảm, có ảnh hưởng đến việc thế hiện nghĩa, cảm xúc. Ví dụ: - Cảm xúc phấn khởi tự hào cũng cần thể hiện với tốc độ không quá chậm. Những bài văn xuôi trữ tình, chứa chan cảm xúc như bài “Nhớ lại buổi đầu đi học”(Tiếng Việt 3, tập 1) cần phải được đọc chậm, nhất là những câu “Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng”. Cường độ: Trước khi nói đến sử dụng cường độ trong đọc diễn cảm phải nói đến chuyện dạy đọc to. Khi đọc trước nhiều người, học sinh phải tính đến người nghe. Các em phải hiểu rằng không chỉ đọc cho mình nghe mà phải đọc cho các bạn và cô giáo cùng nghe. Như vậy, phải đọc sao cho cả tập thể nghe rõ. Nghĩa là phải đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy. Nhưng như thế không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên như cách đọc để gây sự chú ý của một số học sinh. Vì vậy tôi nhắc các em khi đọc, phải mở miệng to và tròn tiếng, lấy hơi đọc sao cho luồng khí phát ra từ cổ họng phải dễ dàng, thoải mái, mạnh vừa phải, đủ để cả lớp nghe rõ. Cường độ với hợp với cao độ sẽ tạo ra giọng vang hoặc giọng trầm lắng. Ngoài ra, tôi cho học sinh hiểu rằng “đọc diễn cảm” không phải là đọc sao cho “điệu”, thiếu tự nhiên dựa vào ý thức chủ quan của mỗi người đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài đọc. Vì vậy phải hòa nhập được với câu chuyện, bài văn, bài thơ, phải có cảm xúc mới tìm thấy ngữ điệu thích hợp. Chính tác phẩm quy định ngữ điệu cho chúng ta chứ không phải chúng ta tự đặt ra ngữ điệu. Bởi lẽ đó, tôi luôn dung câu hỏi gợi ý hoặc nhắc các em đặt mình vào câu chuyện, hóa thân vào nhân vật, vào tác giả, đặt mình vào trong ngữ cảnh của bài đọc. Từ đó lấy cảm xúc đúng nhất để thế hiện tốt bài đọc. Bên cạnh đó, trong tiết dạy Tập đọc tôi luôn tạo một bầu không khí thoải mái để các em không cảm thấy nhàm chán khi đọc mà trái lại hứng thú, ham 13 đọc. Với những học sinh rụt rè nhút nhát tôi thường khích lệ động viên, không gắt gỏng để các em khắc phục nhược điểm đó và khi đọc bớt bối rối, luống cuống. Đối với các em học sinh nghịch ngợm, thiếu tập trung tôi thường chỉ định cho đọc nối tiếp. Các em khá, giỏi được tôi cho đọc mẫu nhằm giúp các em phát huy sở trường. Trong mỗi tiết Tập đọc tôi đều theo dõi chất lượng đọc của các nhóm học sinh qua việc đọc thành tiếng. đ. Rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh Khả năng đọc và vốn sống của học sinh Tiểu học còn hạn chế nên về cơ bản dạy đọc hiểu ở Tiểu học là cách phân tích văn bản đi từ hiểu nghĩa của bộ phận nhỏ (giải nghĩa từ, trả lời câu hỏi cuối bài) đến hiểu nội dung và đích của toàn bài. Để giúp các em cảm nhận văn bản, hiểu văn bản thì việc dạy môn Tập đọc phải chú ý rèn luyện khả năng đọc hiểu cho học sinh. Đó là vấn đề cần thiết, quan trọng đối với học sinh lớp 3. Có hiểu nội dung bài đọc mới có cách đọc đúng và hay được. Việc luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong các bước đọc thầm. Kết quả đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa từ, cụm từ, câu, đoạn, bài, tức là toàn bộ những gì đọc được. Vì vậy đối với các em để cảm thụ văn học tốt thì nền tảng là vốn từ, hiểu từ ngữ và vận dụng một cách có hiệu quả vào những bài học cụ thể thì tôi rất chú trọng phần tìm hiểu bài. Có thể kết hợp đan xen lồng giảng các biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng trong bài. Bằng vốn sống, bằng năng lực của học sinh, cần định hướng giúp các em đến với nghệ thuật văn chương một cách tự nhiên khéo léo. Ví dụ: Bài “Mưa” (Tiếng Việt 3, tập 2) “Mây đen lũ lượt Chớp đông chớp tây Kéo về chiều nay Rồi mưa nặng hạt Mặt trời lật đật Cây lá xòe tay Chui vào trong mây Hứng làn nước mát”…. Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa để vẽ nên khung cảnh trời mưa rất sinh động. Bên cạnh đó, trong dạy Tập đọc cũng nên chú trọng quan điểm “tích hợp”. Rèn đọc cho các em không chỉ giờ tập đọc mà tất cả các môn học khác. Tập cho 14 học sinh lướt qua văn bản để phân loại được thể loại văn bản, từ đó có phong cách, giọng đọc phù hợp với nội dung. 5.2. Kể chuyện a. Hướng dẫn học sinh đọc và cảm thụ câu chuyện Khâu chuẩn bị của người kể vô cùng quan trọng. Đọc để thâm nhập truyện là bước đầu làm quen với truyện kể. Người kể phải đọc đi đọc lại câu chuyện, phải suy nghĩ về những sự việc, con người trong câu chuyện, phải đồng cảm với suy nghĩ, tâm tư của tác giả, số phận của nhận vật. Đọc nhiều lần thì mới hiểu hết ý nghĩa, ngôn từ của câu chuyện. Đọc diễn cảm để lắng nghe từng âm điệu mà tác giả gửi gắm vào lời nói, giọng điệu cử chỉ, điệu bộ của từng nhân vật. Điều này tôi đã giúp các em có thể thực hiện tốt ở phần đọc diễn cảm và đọc hiểu. Khi đã nắm rõ nội dung, cốt truyện, các em sẽ kể lại tốt được câu truyện. b. Giúp học sinh chọn lời kể trong khi kể chuyện Khi đọc truyện, người đọc cần bám sát vào ngôn từ trong văn bản. Khi kể chuyện, lời kể thoát ra khỏi văn bản và trở thành ngôn từ của người kể. Trên cơ sở nắm vững cốt truyện, nhớ kĩ các tình tiết, hiểu thấu đáo nội dung và nghệ thuật của truyện, người kể chọn lời kể sao cho phù hợp. Có như vậy câu chuyện được kể tự nhiên hơn, không phải kể như kiểu thuộc vẹt, phụ thuộc vào văn bản. Tôi dặn học sinh: - Lời kể có khi được lược bỏ hết chi tiết rườm rà, không cần thiết. - Lời kể có thể thêm một số từ, câu hoặc đoạn nhỏ miêu tả nhân vật, tả cảnh nhằm bộc lộ tình cảm, tâm trạng, tính cách nhân vật cho câu chuyện trở nên sinh động hấp dẫn hơn. Ví dụ: Truyện “Cậu bé thông minh” (Tiếng Việt 3, tập 1) Trích văn bản: “Vua biết là đã tìm được người giỏi, bèn trọng thưởng cho cậu bé và gửi cậu bé vào trường học để luyện thành tài”. Lời kể của học sinh: 15 “Nhận lại chiếc kim khâu từ tay sứ giả, nhà vua vô cùng mừng rỡ. Vua trọng thưởng cho hai bố con cậu bé và gửi cậu vào trường học ở kinh đô để đào tạo thành nhân tài”. - Khi kể theo lời của một nhân vật trong chuyện phải chú ý từ ngữ xưng hô. Ví dụ: Truyện “Các em nhỏ và cụ già” (Tiếng Việt 3, tập 1) Trích văn bản: “Đám trẻ lặng đi. Các em nhìn cụ già đầy thương cảm. Một lát sau, xe buýt đến. Giúp ông cụ lên xe rồi, các em còn đứng lại nhìn theo mãi mới ra về”. Lời kể của học sinh theo lời một bạn nhỏ: “Chúng tôi lặng đi. Nước mắt tôi ứa ra. Tất cả chúng tôi nhìn cụ già với nhiều ái ngại và thương cảm. Chúng tôi chờ chuyến xe buýt đến. Tôi và các bạn giúp cụ lên xe. Chúng tôi đứng lặng, dõi nhìn cho đến lúc chiếc xe khuất hẳn rồi mới kéo nhau về”. c. Giúp học sinh lựa chọn ngữ điệu kể Ngữ điệu kể bao gồm các yếu tố sau: - Sự lên cao giọng hoặc hạ thấp giọng ở những lời kể khác nhau (câu kể, câu hỏi, câu cảm thán, câu cầu khiến). - Sự ngắt nghỉ trong lời kể (tạo sự chờ đợi, không khí yên tĩnh…). - Cường độ (to/ nhỏ) và tốc độ (nhanh/ chậm) của lời kể. - Sắc thài tình cảm của giọng kể (vui, buồn, hờn, giận, mệt mỏi, hào hứng, dịu dàng, tức giận…). Phần này khi học sinh đọc diễn cảm, các em đã được tôi hướng dẫn rất kĩ như đã nói ở trên trong giờ luyện đọc. Vì vậy sẽ dễ dàng chọn ngữ điệu khi kể chuyện sao cho phù hợp nhất với đặc điểm nội dung nghệ thuật của truyện, tùy theo tình cảm, tâm trạng, tính cách của nhân vật. Tôi cũng cho học sinh hiểu rằng, giọng khi kể chuyện cũng giống như khi đọc truyện, nếu giọng kể cứ đều đều từ đầu đến cuối thì câu chuyện sẽ trở nên nhàm chán, không hấp dẫn. Ngoài ra để tạo sự tự tin khi nói trước đám đông, ngay từ những tiết kể chuyện đầu tiên, tôi đã dặn các em cách lôi cuốn người nghe ngay từ đầu câu 16 chuyện bằng cách gợi mở, dùng từ ngữ để dẫn dắt, luyện cách mở đầu vào câu chuyện. Ví dụ: (1) Truyện “Ai có lỗi?” (Tiếng Việt 3, tập 1) Lời kể của học sinh khi kể tranh 5: “Các bạn có biết, sau khi đôi bạn cùng lớp Cô-rét-ti và En-ri-cô làm lành với nhau ở cổng trường, chuyện gì đã xảy ra nữa không? Các bạn nghe tớ kể tiếp nhé: Về đến nhà, En-ri-cô kể lại câu chuyện ấy cho bố nghe. Cậu ta tưởng sẽ làm bố vui lòng. Nào ngờ, bố cậu ta nghiêm giọng mắng: “Đáng lẽ chính con phải đưa tay trước cho bạn chứ! Con có lỗi thế mà lại giơ thước dọa đánh bạn”. d. Hướng dẫn học sinh cử chỉ, điệu bộ khi kể chuyện Kể chuyện là một hoạt động mang tính nghệ thuật nên có yêu cầu diễn xuất. Diễn xuất trong kể chuyện bao gồm ngữ điệu kể và sự thể hiện qua nét mặt, điệu bộ của người kể. Tùy theo nội dung và các diễn biến của các tình tiết qua nét mặt, điệu bộ của người kể cần phối hợp một cách tự nhiên cùng với lời kể. Tuy nhiên không quá cường điệu mà chỉ là sự phối hợp tự nhiên với ngữ điệu kể. Trước khi học sinh kể, tôi sẽ kể mẫu vài chi tiết, đồng thời kết hợp cử chỉ điệu bộ cho học sinh xem như nét mặt, cử chỉ của tay. Từ đó động viên, kích thích sự sáng tạo của học sinh khi kể chuyện để lôi cuốn người nghe. Ví dụ: Khi kể câu chuyện “Các em nhỏ và cụ già” (Tiếng Việt 3, tập 1) Tôi kể và hướng dẫn mẫu cho học sinh như sau: “Các con sẽ thể hiện động tác, cử chỉ, điệu bộ theo nội dung, chi tiết mà các con kể”: - “Hôm ấy, chúng tôi đi dạo chơi đang trên đường trở về”. (chân bước đi như đang dạo về). - Dừng lại rồi kể tiếp, tay chỉ sang một phía hơi chếch lên cao, mắt hướng lên cùng với tay kết hợp kể: “Mặt trời tà tà về chân núi phía Tây. Gió chiều mát rượi. Đàn sếu đang sải cánh trên bầu trời xanh”. - “Chúng tôi đang ríu tít chuyện trò”. (khuôn mặt thể hiện sự tươi vui, miệng mỉm cười). Khi kết hợp cử chỉ điệu bộ với ngữ điệu kể là đã góp phần chắp cánh cho trí tưởng tượng và thúc đẩy sự sáng tạo của các em. 17 đ. Sử dụng các phương tiện hỗ trợ khi kể chuyện Có thể sử dụng các phương tiện hỗ trợ cho kể chuyện như: các tranh ảnh, đồ vật, cảnh vật liên quan đến câu chuyện… để minh họa, dẫn dắt câu chuyện, đồng thời chắp cánh cho trí tưởng tượng bay bổng, phong phú của người nghe về câu chuyện. Hiện nay vấn đề này chưa thật sự được các trường, các giáo viên đặc biệt quan tâm. Hơn nữa đồ dùng của tiết Kể chuyện hầu hết là dựa vào tranh minh họa trong sách giáo khoa. Vì vậy tôi thường chiếu to tranh minh họa để hiệu quả tiết dạy được cao hơn khi sử dụng tranh trong sách. Bởi khi kể học sinh sẽ không phải nhìn sách giáo khoa, tránh trường hợp có em nhìn vào nội dung bài Tập đọc - Kể chuyện. Trong phần kể chuyện, với yêu cầu dựa vào tranh để kể, tôi cho học sinh khai thác nội dung từng tranh trước. Từ đó yêu cầu các em nhẩm lại nội dung của đoạn đó một cách dễ dàng dựa vào tranh. Ví dụ: khi dạy cho học sinh kể bài “Nhà ảo thuật” (Tiếng Việt 3, tập 2) tôi giúp học sinh khai thác nội dung từng tranh như sau:  Tranh 1: - Buổi biểu diễn nghệ thuật gì được người ta dán quảng cáo khắp nơi? - Mặc dù rất thích, nhưng vì sao hai chị em Xô-phi và Mác không đi xem ảo thuật?  Tranh 2: - Xô-phi và Mác đi đâu? - Hai chị em đã giúp chú Lý – nhà ảo thuật việc gì? - Vì sao hai chị em về ngay mà không chờ chú Lý?  Tranh 3: - Tối hôm đó, chú Lý hỏi thăm nhà ai? - Bước vào nhà, chú Lý nói gì với mẹ của Xô-phi và Mác?  Tranh 4: - Từ lúc chú Lý ngồi vào bàn, cả nhà Xô-phi và Mác đã chứng kiến những bất ngờ gì (ở đĩa bánh, trong lọ đường, dưới chân Mác)? 18 - Hai chị em cảm thấy thế nào về chú Lý và các tiết mục ảo thuật? Ngoài việc kể chuyện theo tranh, để học sinh có thể dựng và diễn lại câu chuyện thì các đồ dùng “dựng cảnh” là rất cần thiết. Ví dụ: Bài “Giọng quê hương”(Tiếng Việt 3, tập 1) Khi dựng lại câu chuyện, giáo viên cần chuẩn bị bàn ghế nhựa, bát đũa… để học sinh diễn lại bối cảnh trong quán ăn. Có như vậy mới gây được hứng thú và e. Tập cho học sinh kể một số chi tiết hoặc từng đoạn của câu chuyện Đây là một việc làm quan trọng quyết định sự thành công của học sinh khi tham gia kể chuyện. Giúp học sinh nắm vững, hiểu và có cảm xúc đối với câu chuyện sắp kể. Nhờ vậy các em tự tin, mạnh dạn và chủ động. Học sinh Tiểu học còn nhỏ tuổi, khả năng ghi nhớ, khả năng chú ý có những hạn chế. Vì thế lúc đầu nên để cho các em kể từng phần câu chuyện. Tập kể một số chi tiết, tình tiết quan trọng, tập kể từng đoạn trong câu chuyện. Khi kể từng đoạn như vậy, do dung lượng ngắn, học sinh có điều kiện tập vận dụng các kĩ năng thích hợp với nội dung đoạn truyện. Phần này tôi thường hướng dẫn các em tìm nội dung chính của từng đoạn truyện hay đặt tên cho từng đoạn của câu chuyện. Từ ý chính đó học sinh tìm chi tiết liên quan và kể lại một đoạn của câu chuyện. Khi dạy học sinh tập kể từng đoạn, tôi không gò ép các em phải rập khuôn theo văn bản hay theo lời kể của cô mà để các em tự kể theo giọng điệu riêng, theo cách kể chuyện riêng, xuất phát từ cách cảm, cách hiểu của mình. Chỉ khi nào các em quên hoặc không kể được, tôi mới gợi ý, hướng dẫn thêm. g. Tập cho học sinh kể toàn bộ câu chuyện Đây là mức tập luyện ở mức độ cao. So với kể từng đoạn, việc kể toàn truyện đòi hỏi người kể phải có trí nhớ tốt, chủ động trong cách kể. Song nó cũng cho phép người kể sáng tạo và thể hiện khả năng của mình. Ở lớp 3 tôi dạy, thường cuối tiết học, tôi mới cho một hoặc hai học sinh khá giỏi kể lại toàn truyện. Đó là mục đích để các bạn kể chưa tốt sau khi đã kể từng đoạn nhỏ thì theo dõi bạn kể lại cả truyện từ đó rút kinh nghiệm cho bản thân. Để kể lại toàn 19 bộ câu chuyện học sinh cần luyện tập theo cả hai yêu cầu: kể đúng và kể hay. Để kể đúng, các em cần nắm vững nội dung truyện. Để kể hay, các em phải luyện tập nhiều để đạt trình độ thành thục hơn. h. Những lưu ý khi hướng dẫn học sinh kể chuyện Giáo viên cần lưu ý học sinh đến đặc điểm riêng của từng loại bài để dễ dàng hướng dẫn học sinh và tiến trình bài dạy diễn ra một cách nhẹ nhàng nhằm rèn luyện kĩ năng kể chuyện cho học sinh một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, giáo viên cần lưu ý khi hướng dẫn học sinh kể chuyện: - Nếu có em đang kể bỗng lúng túng vì quên truyện, giáo viên có thể nhắc nhở một cách nhẹ nhàng để em đó nhớ lại câu chuyện. - Nếu có em kể thiếu chính xác, cũng không nên ngắt lời thô bạo. Chỉ nhận xét khi em đó đã kể xong. - Nên động viên, khuyến khích các em tự tin, hồn nhiên như là đang kể cho anh, chị, em hay bạn bè nghe. Giáo viên cần quan niệm đúng mức về kể sáng tạo. Chúng ta không coi việc học sinh kể thuộc lòng câu chuyện, kể chính xác từng câu chữ trong văn bản truyện là thiếu sáng tạo. Chỉ trong trường hợp học sinh kể như đọc văn bản, vừa kể vừa cố nhớ lại một cách máy móc từng câu chữ trong văn bản, giáo viên mới nhận xét là kể chưa tốt. Sau mỗi lần kể, cả lớp và giáo viên nhận xét nhanh theo những yêu cầu sau: - Về nội dung: Kể có đủ ý, đúng trình tự không? - Về diễn đạt: Nói đã thành câu chưa? Dùng từ có phù hợp không? Đã biết kể bằng lời của mình chưa? - Về cách thể hiện: Giọng kể có thích hợp, có tự nhiên không? Đã biết phố hợp giữa lời kể với điệu bộ, nét mặt chưa? Cần đặc biệt khen ngợi những học sinh có lời kể sáng tạo và động viên kịp thời những em kể chưa tốt. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan