Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Sáng kiến kinh nghiệm về biện pháp rèn luyện kỹ năng vận động cơ bản cho trẻ mẫu...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm về biện pháp rèn luyện kỹ năng vận động cơ bản cho trẻ mẫu giáo

.DOC
138
161
52

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP.THANH HÓA TRƯỜNG MẦM NON TƯỢNG LĨNH ---------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CHO TRẺ MẪU GIÁO Họ và tên : Chức vụ: Trường: THANH HÓA, THÁNG 11 NĂM 2014 -1- PHẦN MỞ ĐẦU Đất nước ta tiến hành Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa trong bối cảnh chính trị - xã hội ổn định. Sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực dồi dào, có lòng yêu nước, có trình độ khoa học công nghệ cao cùng với các phẩm chất nhân cách phù hợp. Con người đó phải là con người có sức khỏe, con người công nghệ, con người tri thức…là mô hình nhân cách con người Việt Nam mà giáo dục (GD) phải đào tạo ra. Như vậy, GD Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu mới của xã hội phải xây dựng con người có phẩm chất, năng lực, vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời Bác Hồ đã căn dặn. Rèn luyện KNVĐCB của trẻ MN nói chung và trẻ MG 3 – 4 tuổi nói riêng làm thỏa mãn nhu cầu hoạt động của trẻ, tăng cường thêm sức khỏe, cơ thể phát triển cân đối, hài hòa, tạo điều kiện phát triển ở trẻ sự cứng cáp của cơ bắp và niềm vui trong hoạt động. Hoạt động đó có liên quan chặt chẽ với quá trình GD nhằm mục đích phát triển thể chất, GD các phẩm chất tâm lý, hình thành nhân cách…để tạo dần nên sự hoàn thiện mọi mặt cho trẻ. Thế nên rèn luyện KNVĐCB cho trẻ được tiến hành thông qua tất cả các hình thức hoạt động như: hoạt động học tập, hoạt động vui chơi, dạo chơi, tham quan, lao động…Trong đó hoạt động ngoài trời (HĐNT) rất tốt đối với sức khỏe và việc học tập, vui chơi của trẻ. Vui chơi ngoài trời tạo cơ hội cho trẻ VĐ toàn thân, rèn luyện KNVĐ thô như: đi, chạy… Thực tế, ở nhiều trường, thời gian HĐNT của trẻ vẫn bị cắt xén thậm chí không được tổ chức hoặc tổ chức chưa tốt, quá trình tổ chức HĐNT của giáo viên còn đơn điệu, nhàm chán, mang nặng tính hình thức, điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế… -2- Xuất phát từ những yêu cầu lý luận và thực tiễn nên đề tài: “Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng vận động cơ bản cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động ngoài trời” đã được lựa chọn. -3- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Con người trong quá trình tiến hoá, để sinh tồn trong sự đấu tranh với tự nhiên đã hình thành và phát triển những kĩ năng như đi, chạy, nhảy, bò, leo trèo... Trải qua quá trình sống, con người đã nhận biết rằng các KNVĐCB càng thành thục bao nhiêu thì sẽ giúp ích nhiều trong việc tìm kiếm thức ăn và có thể hình thành những kĩ năng đó chỉ có thông qua củng cố, rèn luyện thường xuyên. Có thể nói các KNVĐCB hình thành cùng với sự tiến hoá của loài người thông qua con đường lao động và đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên. Trẻ em là giai đoạn bình minh của con người. Chăm sóc (CS) sức khỏe cho trẻ là một trong các nhiệm vụ quan trọng mà ngành GD thể chất quan tâm và giải quyết. Do đó nó là một trong những nội dung không thể thiếu được và còn là một trong những nhiệm vụ chính của hệ thống GD cho trẻ trước tuổi đi học. Trong đó nhiệm vụ giáo dưỡng là rèn luyện KNVĐCB được đặt lên hàng đầu. Thế nên vấn đề này là một vấn đề luôn được sự quan tâm của các nhà khoa học từ xưa cho đến nay, trong nước cũng như ngoài nước. 1.1.1. Một số nghiên cứu nước ngoài Con người từ thủa bình minh đã quan tâm đến việc rèn luyện thể chất, rèn luyện các KNVĐCB. Nhìn tổng quát, có hai nền văn minh: Phương Đông và Phương Tây. Cùng phát triển với nền văn hóa, việc rèn luyện thể chất của các nước Phương Đông có lịch sử hàng mấy ngàn năm. Xuất phát từ triết học Phương Đông với nền tảng học thuyết Âm – Dương, Ngũ hành, Bát quái, mục tiêu rèn luyện thể chất là rèn luyện con người toàn diện: thể lực, trí tuệ, khí -4- phách, v.v… tạo nên sức mạnh tổng hợp. Như Hoa Đà – danh y nổi tiếng của Trung Quốc ở thế kỉ II đã nói: “VĐ giúp khí huyết lưu thông và ngăn ngừa bệnh tật”. [44, 52] Phương Tây cổ đại, Hy Lạp cổ chia ra nhiều thành bang như Athens, Sparta, Thebes… Trong đó thành bang Sparte chú trọng đến rèn luyện thể chất, chủ yếu rèn luyện KNVĐCB cho trẻ em từ thời thơ ấu bằng con đường kinh nghiệm. Những trẻ khỏe mạnh, cứng cáp và có khả năng chống đỡ được các tác nhân của môi trường xung quanh thì để nuôi, trẻ ốm yếu bị thủ tiêu. Lúc bấy giờ các nhà triết học, các nhà GD chưa hiểu được các quy luật hoạt động của cơ thể, chưa thể giải thích được cơ chế tác động của các bài tập rèn luyện KNVĐCB do đó đánh giá hiệu quả của các bài tập theo kết quả bên ngoài (đúng hơn, thuần thục hơn, kĩ thuật hơn, có nhiều kĩ năng hơn…). Sau đó họ đã biết liên kết các biện pháp rèn luyện KNVĐCB cụ thể, cũng như các biện pháp rèn luyện và phát triển sức nhanh, sức mạnh, sức bền…thành một hệ thống thống nhất. Mục tiêu của nền GD này là đào tạo các chiến binh phục vụ cho các cuộc chinh chiến thế nên quá trình rèn luyện các kĩ năng chiến đấu như đi, chạy, lăn, bò, trườn, kĩ năng sử dụng vũ khí… được đặt lên hàng đầu. [39] Nhà sư phạm Tiệp Khắc kiệt xuất – J.A. Cômenxki (1592 – 1670) đã đặt cơ sở cho khoa học sư phạm. Ông cho rằng nguyên tắc phù hợp với tự nhiên là nguyên tắc cơ bản của hệ thống GD của mình. Theo ý kiến của ông, để GD được đúng, cần nghiên cứu tự nhiên và đi theo các quy luật của tự nhiên. Cho đến nay nguyên tắc phù hợp với tự nhiên do Cômenxki nêu lên vẫn giữ được ý nghĩa của nó. Ông nhấn mạnh đến tự nhiên bao quanh con người, tổ chức các HĐNT, dùng môi trường tự nhiên bên ngoài để rèn luyện các KNVĐCB cho con người. [39] Hệ thống GD thể chất ở Thụy Điển đại biểu ưu tú chính là 2 cha con P.Lingơ (1776 – 1839) và I.Lingơ (1820 – 1886). Qua việc nghiên cứu về giải -5- phẫu và sinh lý của trẻ em, hai ông nhấn mạnh đến sự cần thiết phải bắt đầu GD thể chất từ lứa tuổi còn thơ ấu và trẻ em cần phải áp dụng những bài tập tăng cường và phát triển thân thể. Theo ý kiến của ông: củng cố và tăng cường sức khỏe là nhiệm vụ duy nhất của thể chất nên trẻ em cần nâng cao sự gắng sức thể lực chung (thí dụ: bài tập đi bộ kết hợp với bật nhảy, các bài tập thăng bằng…). Tư thế đúng của tay, chân và mình được đặc biệt chú ý trong khi thực hiện các VĐ đi, chạy, nhảy… kết hợp với khả năng giữ thăng bằng. Để tiếp tục hoàn thiện thêm các bài tập Lingơ đã bổ sung dụng cụ trong quá trình rèn luyện các KNVĐCB [39]. Hệ thống GD thể chất ở Pháp Phơanxixcô Amôrốt (1770-1848) có công lớn trong việc biên soạn các bài tập rèn luyện KNVĐCB. Theo ông, những bài tập thể dục tốt là những bài tập hình thành các kĩ năng cần thiết trong cuộc sống như: đi, chạy, nhảy, leo trèo, trườn bò, ném, đấu kiếm… Quá trình tiến hành theo nguyên tắc chung vừa sức với người tập và đơn giản trong chừng mực có thể. Các bài tập tiến hành theo trình tự từ dễ đến khó. [39] Nhà GD học, giải phẫu học, thầy thuốc Piốt Lesghapht (1837 – 1909) có vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học và thực tiễn GD thể chất. Ông xuất bản một loạt tác phẩm về sinh học, giải phẩu, GD thể chất… Trong đó, quan trọng nhất là tác phẩm: “GD gia đình và hướng dẫn giáo dưỡng thể chất cho trẻ ở lứa tuổi đến trường”. Ông cho rằng GD thể chất là chuẩn bị con người cho lao động sáng tạo, sao cho có thể sử dụng sức lực, KNVĐCB… của mình với sự tiêu hao năng lượng ít nhất mà giành được kết quả tốt nhất. Trẻ em nên rèn luyện kĩ năng tự lĩnh hội các bài tập VĐ và các VĐ này được áp dụng trong các điều kiện khác nhau dưới các hình thức khác nhau. [39] Theo tác giả I.K.Khai-li-sốp trong cuốn GD thể dục cho thiếu nhi trong gia đình, ở vườn trẻ, lớp MG coi GD thể chất là bộ phận không thể -6- tách rời của nền GD, hướng đến rèn luyện cho trẻ các KNVĐCB và khả năng phối hợp giữa các KNVĐCB với nhau. Ông đặc biệt quan tâm đến việc rèn luyện thân thể qua chế độ sinh hoạt hàng ngày, “giờ bài tập”, trò chơi, hoạt động dạo chơi, các yếu tố thiên nhiên vô sinh … một cách có hệ thống. Các hoạt động đó không chỉ diễn ra ở nhà trường hoặc cơ quan GD nào khác mà chính các bậc phụ huynh phải hết sức chú ý đến việc rèn luyện các KNVĐCB cho trẻ. [17] Maria Montessori (1896 – 1952) bác sĩ, nhà tâm lí GD của nước Ý. Dựa trên nền tảng của tâm lí học phát triển và lý thuyết học, bà cho rằng trẻ em là một chủ thể tích cực, chủ động, tự lựa chọn nội dung học tập của mình một cách độc lập. Hình thức học này gọi là “hoạt động tự do”, “vui chơi tự do”. Trong quá trình CS GD trẻ em bà đưa ra 8 nguyên tắc cho phương pháp GD của mình. Trong đó nguyên tắc “VĐ và nhận thức” được nhắc đến đầu tiên. Bà nhấn mạnh đến việc trẻ chỉ được phát triển khi trẻ VĐ và tự VĐ. Bà cho rằng VĐ và nhận thức có mối quan hệ với nhau, suy nghĩ và VĐ là một quá trình. Những điều này cho thấy rằng GD nên tăng cường các hoạt động VĐ để mở đường cho hoạt động nhận thức. [48] Trong cuốn “Thể dục thể thao nhi đồng trước tuổi học” của tác giả Lưu Tân – người Trung Quốc đã chỉ ra 4 mặt của bài tập động tác: bài tập động tác cơ bản, bài tập thể dục cơ bản, trò chơi VĐ và các hoạt động VĐ với dụng cụ. Trong đó rèn luyện các bài tập động tác cơ bản là mục tiêu, nội dung quan trọng và là biện pháp cơ bản để thực hiện nhiệm vụ hoạt động thể dục thể thao. Theo ông hoạt động này có thể rèn luyện toàn bộ cơ thể một cách có hiệu quả, nâng cao và phát triển các tố chất thể lực, tăng cường thể chất; phát triển các năng lực hoạt động cơ bản và tạo điều kiện để các em thích ứng tốt hơn đối với xã hội. [36] Như vậy, vấn đề GD thể chất nói chung và rèn luyện KNVĐCB nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới. Mặc -7- dù theo đuổi những mục đích về chính trị, quân sự, giai cấp, tôn giáo, văn hóa, GD… khác nhau nên có những quan điểm khác nhau nhưng hầu như tất cả mọi nền văn minh, mọi tác giả đều thừa nhận vai trò to lớn của việc rèn luyện KNVĐCB trong cuộc sống của mỗi con người. 1.1.2. Một số nghiên cứu ở Việt Nam Những vốn sống kinh nghiệm của dân tộc ta cùng với mối quan hệ lâu đời với các nước láng giềng Phương Đông và ảnh hưởng của nền thể dục thể thao Phương Tây từ thế kỉ 19. Nên việc rèn luyện KNVĐCB cũng được khá nhiều các tác giả đề cập với nhiều khía cạnh khác nhau. Thời kỳ phong kiến có các trường học, tại đó cùng với các kiến thức về tôn giáo, trẻ em còn được học các kiến thức vệ sinh, rèn luyện thân thể. Hoạt động rèn luyện thể chất đặc biệt là rèn luyện KNVĐCB được tổ chức ở ngoài trời với không gian rộng rãi dưới hình thức: bài tập rèn luyện thân thể, trò chơi, trò chơi kết hợp với các bài đồng dao… để phát triển VĐ, ý thức thẩm mỹ, tăng vẻ đẹp và sự hài hòa của động tác… [39] Trong cuốn “Thể dục và trò chơi VĐ” của tác giả Đồng Văn Triệu, ông đã biên soạn 10 động tác thể dục cho trẻ em. Các bài tập thể dục này trên cơ sở sinh lý, tâm lý của “lớp vỡ lòng”, với mục đích giúp cho cơ thể trẻ phát triển đều đặn, tạo điều kiện chống bệnh tật. Ngoài ra ông còn sưu tầm những trò chơi dân gian để củng cố và rèn luyện các nhóm cơ bắp mà trẻ mới được học. Phần lớn các trò chơi này diễn ra ngoài trời, với khoảng không gian rộng rãi, thoáng mát và an toàn. [42] Tác giả Lương Kim Chung và Đào Duy Thư trong cuốn “Vun trồng thể lực cho đàn em nhỏ” đã đề cập đến phương pháp tổ chức các bài tập thể dục, trò chơi và HĐNT dựa trên những đặc điểm về sinh lý học, tâm lý học của các em MG. Trong đó ông xem HĐNT như là một phương tiện để GD KNVĐCB cho trẻ thế nên không nhất thiết phải gò trẻ vào kĩ thuật VĐ chính xác mà cần -8- thiết là trẻ được VĐ cơ bản nhiều và VĐ một cách tự nhiên trong môi trường thiên nhiên.[11] Trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thể dục thể thao” của tác giả Trương Quốc Yên đã cho chúng ta thấy quan điểm của Hồ Chí Minh – nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam và thế giới về vấn đề rèn luyện thể chất trong nhà trường và ngoài xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi GD và rèn luyện thể chất là một mặt cần thiết, quan trọng như các mặt GD khác. Người khẳng định nó đem lại cho tuổi trẻ sức khỏe, mà sức khỏe là cái quý nhất của con người. Cho nên phải rèn luyện sức khỏe ngay từ lứa tuổi nhỏ và những kĩ thuật động tác phải phù hợp với đặc điểm sinh lý, cấu trúc cơ thể và độ tuổi của con người. [52] Trong luận án Tiến sĩ của tác giả Đặng Hồng Phương: “Nghiên cứu phương pháp dạy học bài tập VĐ cơ bản cho trẻ MG lớn (5 – 6 tuổi)” đã đi sâu nghiên cứu và đề xuất các phương pháp dạy học bài tập VĐ cơ bản cho trẻ. Bà quan tâm đến bài tập VĐ và trò chơi VĐ từ đó đưa ra 4 nhóm phương pháp trong đó phương pháp ôn luyện KNVĐ cũ và xem yếu tố chơi, thi đua, chia nhóm như là phương tiện, hình thức tạo cơ hội cho trẻ được tích cực VĐ, rèn luyện KNVĐCB, giải quyết tình trạng nhiều trẻ trong một lớp học. [27] Nguyễn Thị Tuyết Ánh với luận văn Thạc sĩ đã nghiên cứu “Một số biện pháp tổ chức HĐNT nhằm phát triển thể lực cho trẻ 5 – 6 tuổi”. Tác giả đã đề cập và đưa ra các biện pháp: chọn lựa trò chơi phù hợp nhằm phát triển thể lực, lập kế hoạch, tạo môi trường, phương tiện phong phú, đánh giá trẻ trong HĐNT, tăng cường rèn luyện có hệ thống các KNVĐ là những biện pháp có tính chất quyết định đến sự phát triển các KNVĐCB. Đây là cơ sở để giúp trẻ tự tin, hứng thú với hoạt động, thích tham gia vào hoạt động. [1] Có thể thấy, các công trình nghiên cứu lý luận - thực tiễn trong và ngoài nước đã đề cập đến nhiều khía cạnh của việc rèn luyện KNVĐCB cho trẻ. Phần lớn các công trình đó tập trung nghiên cứu rèn luyện KNVĐCB -9- trong hoạt động học có chủ đích, hoạt động vui chơi… Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về mối quan hệ giữa rèn luyện KNVĐCB trong HĐNT. Vì vậy, dựa trên kết quả nghiên cứu của các công trình kể trên, chúng tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu “Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng vận động cơ bản cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động ngoài trời”, qua đây góp phần làm phong phú thêm thông tin về lý luận và thực tiễn cho vấn đề này. 1.2. Cơ sở lí luận về kĩ năng vận động cơ bản 1.2.1. Vận động * Khái niệm Khái niệm VĐ được quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau: Trong triết học, Ph. Ăngghen viết: “VĐ, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Có rất nhiều hình thức VĐ của vật chất (VĐ cơ học, vật lý, hóa học, sinh học, xã hội), trong đó hình thức VĐ phức tạp nhất của vật chất, đó là VĐ của sinh vật, cụ thể là VĐ của động vật cao cấp – con người. [28], [38] Xét ở góc độ sinh lý học, việc nắm vững các chi tiết VĐ được xác định bởi sự hình thành hệ thống mới của sự hoạt động não cho nên ta có thể nói rằng VĐ chính là quá trình hoạt động của hệ thần kinh cao cấp. [29] Trong tâm lý học, vận động là hoạt động có ý thức của con người, là sự chuyển hóa lẫn nhau để tạo ra cái mới [46]. VĐ thúc đẩy sự phát triển tâm lý. Ví như sự phát triển VĐ của bàn tay, ngón tay cho phép trẻ hoạt động một cách đa dạng với đồ vật, hay việc biết đi giúp trẻ mở rộng phạm vi tiếp xúc với môi trường xung quanh… nhờ đó mà tâm lý của trẻ phát triển. [9] -10- Ở góc độ giáo dục học, VĐ có trong tất cả mọi hoạt động của con người, nó có tác động tốt lên cơ thể nếu đúng tư thế và vừa sức. VĐ là sự tác động tích cực của các cơ quan VĐ của con người, phương tiện cơ bản, đặc biệt của quá trình GD thể chất. Chúng ta GD thể chất cho trẻ chủ yếu là thông qua hoạt động tự VĐ của trẻ. [29], [39] Theo Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Lân thì VĐ được hiểu là sự thay đổi chỗ hay tư thế của toàn bộ hay một phần thân thể. VĐ là điều kiện giữ gìn sức khỏe.[19] Vậy, có thể nói: Từ khi trẻ mới sinh ra, trẻ luôn thích hoạt động, VĐ tích cực. VĐ là sự chuyển động của cơ thể con người. Trong đó có sự tham gia của hệ cơ, hệ xương và sự điều khiển của hệ thần kinh. VĐ làm cho cơ thể trẻ phát triển đều đặn, cân đối, sức khỏe được tăng lên làm cơ sở cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người. * Nội dung phát triển vận động Phát triển các nhóm cơ: Cơ hô hấp, tay vai, cơ chân, cơ lưng, cơ bụng… Phát triển các VĐ cơ bản (VĐ thô): Đi, chạy, nhảy, thăng bằng, leo trèo… Trẻ thực hiện các VĐ theo nhạc, nhịp điệu và hiệu lệnh bằng lời, với các dụng cụ như bóng, dây, gậy, vòng… Phát triển các VĐ tinh: VĐ của bàn tay, sự khéo léo của các ngón tay, phối hơp VĐ mắt – tay và kĩ năng sử dụng các đồ dùng, dụng cụ (kéo, bút, đồ chơi…) *Cơ sở sinh lý của sự hình thành thói quen VĐ ở trẻ Qua nghiên cứu học thuyết của I.P.Páp-Lốp về sự hoạt động của hệ thần kinh cao cấp, quá trình hình thành những thói quen VĐ cơ bản đúng đắn của trẻ sẽ là cơ sở để tiếp tục phát triển và hoàn thiện chúng ở lứa tuổi tiếp theo. Cơ sở sinh lý của việc hình thành những thói quen VĐ là quá trình hình -11- thành kĩ năng, kĩ xão VĐ. Quá trình này diễn ra theo các giai đoạn liên tục và chúng có quan hệ với nhau. [29], [40], [42] Giai đoạn 1: Đây là giai đoạn hình thành hiểu biết sơ bộ về động tác. Quá trình hưng phấn có tính chất khuyếch tán lan truyền sang các trung tâm khác của cơ quan phân tích VĐ. Do đó trẻ thường thiếu tin tưởng trong khi VĐ, các cơ bắp căng hết sức, có nhiều động tác thừa, thiếu chính xác về thời gian và không gian. Có thể nói, đây là giai đoạn lan tỏa các phản xạ có điều kiện. Giai đoạn 2: Diễn ra các quá trình chuyên môn của các phản xạ có điều kiện. Phát triển ức chế để hạn chế quá trình kích thích lan truyền rộng rãi. Xác định được phối hợp và chính xác của VĐ, hình thành định hình động lực. Toàn bộ các phản xạ có điều kiện được phát triển theo thứ tự nhất định và có sự phối hợp cân bằng của các cơ quan bên trong. Trong chừng mực nào đó việc thực hiện động tác đã có độ chính xác cao hơn ở giai đoạn thứ nhất. Gian đoạn 3: Hình thành một hệ thống liên hệ tạm thời phức tạp có tính chất củng cố định hình động lực và ổn định được thói quen VĐ. Quá trình thực hiện động tác không còn bị gò bó, tiết kiệm được sức lực, tính nhịp điệu của động tác được thể hiện, trẻ tin tưởng vào hoạt động VĐ của mình và có thể thực hiện được những biến dạng động tác theo những điều kiện thực tiễn (trò chơi và cuộc sống). 1.2.2. Vận động cơ bản * Khái niệm: Vận động cơ bản là những VĐ cần thiết đối với con người trong cuôc sống và được sử dụng trong hoạt động và hoàn cảnh khác nhau như: đi, chạy, nhảy, bài tập thăng bằng…, khắc phục khó khăn: nhảy qua rãnh nước, trèo lên cây… Khi VĐ nó thu hút một số lớn cơ bắp làm việc. [26], [40] -12- * Khái niệm bài tập vận động: Bài tập vận động cơ bản là một loại bài tập thể chất, bao gồm một hệ thống các hành động VĐ được chọn lọc từ các VĐ cơ bản, tác động lên các nhóm cơ bắp lớn của cơ thể nhằm giải quyết nhiệm vụ giáo dưỡng và GD trong quá trình GD thể chất cho trẻ. [26] * Ý nghĩa Khi thực hiện bài tập VĐ cơ bản sẽ thu hút đa số các nhóm cơ bắp hoạt động, đẩy mạnh quá trình hoạt động sinh lý và nâng cao hoạt động sống của toàn bộ cơ thể. Như vậy qua luyện tập bài tập VĐ cơ bản giúp hoàn thiện khả năng làm việc của hệ thần kinh trung ương, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, củng cố và phát triển cơ bắp, rèn luyện, hình thành các tư thế đúng… Nó có tác dụng tốt tới sức khỏe và phát triển thể lực, tạo điều kiện phát triển các tố chất nhanh, mạnh, khéo… Ngoài ra, các bài tập VĐ cơ bản còn có tác dụng: + Giúp trẻ phát triển khả năng định hướng trong không gian: sự định hướng trong khi VĐ, vị trí để các dụng cụ, mối quan hệ giữa các vật trong không gian, phát triển khả năng ước lượng bằng mắt. + Giúp trẻ phát triển khả năng định hướng về thời gian: sự lâu dài – kéo dài của việc thực hiện VĐ, tính thứ tự của những giai đoạn riêng biệt của VĐ, thực hiện VĐ theo nhịp điệu cho sẵn hay theo nhịp điệu cá nhân… + Giúp trẻ phát triển khả năng định hướng trong hoạt động tập thể: vị trí của mình trong đội hình chung. Bài tập VĐ cơ bản góp phần GD thẩm mỹ cho trẻ, GD về cái đẹp khi VĐ, tính chính xác và tính biểu cảm. * Phân loại các bài tập vận động cơ bản. [8], [26], [27] Số lượng các bài tập thể dục cho trẻ vô cùng nhiều và đa dạng, nên cần phải có sự phân loại. Trên cơ sở đó đề ra phương pháp biện pháp để rèn luyện phù hợp với độ tuổi của mỗi trẻ. V.X.Pharphen đã tiến hành phân loại các bài tập VĐ cơ bản: -13- Dựa vào tình huống diễn ra ông chia thành bài tập chuẩn và bài tập không chuẩn. + Bài tập chuẩn: người tập biết trước được trình tự và hình thức tiến hành các động tác. Các bài tập chuẩn cũng rất phong phú: đi chạy, nhảy… Trong các bài tập này thành tích của người tập có thể đo được, đếm được. Bài tập không chuẩn (tình huống) các động tác luôn thay đổi phụ thuộc vào các tình huống. Ví dụ: chuyền bóng theo các hướng. Dựa vào quá trình hoạt động, do hoạt động cơ bắp đã gây nên những biến đổi sinh lý trong cơ thể vì vậy các bài tập thể lực có thể được phân ra làm các bài tập động và bài tập tĩnh. Đặc điểm nổi bật của các dạng bài tập trên là có sự di chuyển cơ thể hoặc một bộ phận của cơ thể trong không gian. Dựa vào tố chất thể lực, nguời ta chia bài tập VĐ cơ bản thành các loại: Bài tập về sức nhanh: đi, chạy… Bài tập sức mạnh: nhảy, ném… Bài tập sự khéo léo: cảm giác thăng bằng… Bài tập sức bền: đi, chạy chậm. Dựa vào cấu trúc, đặc điểm cấu tạo động tác và tính chu kì người ta phân chia thành 2 loại bài tập: + Bài tập VĐ cơ bản có chu kỳ: là những VĐ khi thực hiện chúng, toàn bộ cơ thể và một bộ phận nào đó của cơ thể không ngừng lặp lại vị trí ban đầu như đi, chạy, bò, trườn. + Bài tập VĐ cơ bản không có chu kì là những VĐ khi thực hiện chúng không có sự lặp lại các động tác của người tập như ném, nhảy… Trong một số bài tập VĐ cơ bản, các động tác không có chu kì xảy ra sau động tác có chu kì. Ví dụ: chạy đà để nhảy. Dựa vào tính chu kì, tố chất thể lực, đặc điểm của bài tập VĐ cơ bản…người ta chia VĐCB thành 4 nhóm: [26], [27] Nhóm 1: Đi, chạy, thăng bằng. -14- Nhóm 2: Nhảy, bật xa, bật sâu… Nhóm 3: Ném (xa, trúng đích…), chuyền, bắt. Nhóm 4: Bò, trườn, trèo… Nội dung của các bài tập VĐ cơ bản đối với trẻ MG 3 – 4 tuổi ở các trường MN hiện nay đó là hình thành, củng cố và phát triển các VĐ: đi, chạy, thăng bằng; bật, nhảy; ném, chuyền, bắt; bò, trườn, trèo. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ quan tâm đến việc rèn luyện “VĐ đi”, “VĐ chạy” và “thăng bằng” cho trẻ MG 3 – 4 tuổi. 1.2.3. Kĩ năng vận động cơ bản Tất cả các hoạt động con người, bao gồm cả hoạt động VĐ đều là phản xạ. Do yêu cầu, mục đích của VĐ và để thích nghi với điều kiện sống, các phản xạ VĐ được phối hợp lại với nhau thành một tổ hợp các động tác có ý nghĩa và trở thành kĩ năng. Khi những động tác thực hiện chuẩn xác, nhịp nhàng sẽ được gọi là kĩ năng. Khái niệm kĩ năng đã nói lên thói quen và phải trải qua một thời gian nhất định. Thế nên KNVĐ của trẻ em đuợc hình thành phải thông qua quá trình tập luyện thường xuyên. Kĩ năng VĐ là một hình thức hành động, được hình thành theo cơ chế phản xạ có điều kiện, nhờ quá trình luyện tập thường xuyên. Hay nói cách khác: * Kĩ năng vận động: là khả năng VĐ ở mức độ cần phải tập trung chú ý cao vào từng chi tiết của bài tập VĐ, các chi tiết của bài tập VĐ được luyện chưa liên tục, chưa nhuần nhuyễn, chưa đảm bảo độ bền vững. [41] * Bản chất của kĩ năng vận động Nhà sinh lý học người Nga Pavlov đã chỉ ra rằng trong quá trình hình thành các dạng hoạt động hay hình thành phản xạ có điều kiện phải có sự hình thành đường liên hệ thần kinh tạm thời giữa các vùng khác nhau trên vỏ bán cầu đại não. Mà hoạt động bình thường của vỏ não là kết quả của hai quá -15- trình hưng phấn và ức chế. Đường liên hệ thần kinh tạm thời được củng cố bằng những kích thích có điều kiện thông qua quá trình luyện tập. Hay nói một cách khác phản xạ có điều kiện là mối liên lạc giữa cơ thể và môi trường. Phản xạ có điều kiện cần có một quá trình xây dựng trong đời sống, trong luyện tập để hình thành đường liên hệ tạm thời. Quá trình hình thành phản xạ có điều kiện ở người và động vật thí nghiệm có sự khác biệt rõ rệt. Ở động vật đường liên hệ thần kinh tạm thời được hình thành chỉ bằng những kích thích có điều kiện và không điều kiên và lặp lại những kích thích đó. Ở người KNVĐCB có đặc điểm khác với phản xạ có điều kiện là trong KNVĐCB có sự tác động của hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai. Vì vậy sự hình thành KNVĐCB phức tạp hơn nhiều so với việc hình thành phản xạ có điều kiện ở động vật. Thí dụ phản xạ tiết nước bọt ở chó nhờ ánh đèn thì chỉ cần nhắc lại các kích thích từ 5-7 lần thì phản xạ đó được hình thành và bền vững. Nhưng quá trình hình thành KNVĐCB phải được củng cố bằng những kích thích có điều kiện thông qua quá trình luyện tập thường xuyên. Như vậy điều kiện căn bản để hình thành kĩ năng là phải củng cố đường liên hệ thần kinh tạm thời, tạo ra khả năng hưng phấn của hệ thần kinh. KNVĐCB được xây dựng dựa trên sự tác động của cả hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai. Việc xây dựng KNVĐ có thể được tiến hành thông qua phương pháp làm mẫu (thị phạm) và giảng giải. Như vậy KNVĐCB là những hình thái phản xạ học được trong cuộc sống, trong quá trình tập luyện theo cơ chế đường liên hệ thần kinh tạm thời. [8] * Các dấu hiệu đặc trưng của kĩ năng vận động cơ bản: - Việc điều khiển các động tác – thành phần của hành động trọn vẹn, diễn ra chưa được tự động hóa mà phải luôn luôn có sự kiểm tra của ý thức, do đó dễ mệt mỏi và rất căng thẳng. -16- - Cách thức giải quyết nhiệm vụ VĐ chưa ổn định, việc tìm tòi những cách thức mới hơn vẫn đang diễn ra. - KNVĐCB là mức độ đầu tiên để đi đến nắm vững các hành động VĐ mà bất cứ người học nào có thể bỏ qua được. Khoảng thời gian chuyển tiếp lên kĩ xảo rất khác nhau và phụ thuộc vào năng lực của từng người, vào sự hoàn thiện các phương pháp giảng dạy vào độ khó của động tác. - Rèn luyện KNVĐCB có một giá trị giáo dưỡng rất lớn bởi vì cơ sở của chúng ta là sự tìm tòi, sáng tạo, là sự so sánh, phân tích, tổng hợp đánh giá và các cách thức thực hiện động tác, tức là phải tư duy một cách tích cực. * Đặc điểm tiếp thu kĩ năng vận động cơ bản ở trẻ em Trong quá trình tập luyện, trẻ ở lứa tuổi này rất khó để thực hiện các động tác thực tập ngay được. Quá trình hình thành động tác ở trẻ tuân theo quy luật từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Thực tế cho thấy muốn hình thành động tác một cách chuẩn xác phải dựa trên những động tác đơn giản hoặc những động tác đã được tiếp thu từ trước Ở những kĩ năng nhiều thành phần thì không phải là mới hoàn toàn mà có những động tác đã được học từ trước. Như vậy, muốn tiếp thu được các kĩ năng động tác phức tạp phải dựa trên cơ sở lưu dấu vết của những động tác đã có trước. Khi cần phải tiếp thu các kĩ thuật VĐ phức tạp mà thành phần của chúng có nhiều động tác mới lạ, thường phải sử dụng các bài tập hỗ trợ, chuẩn bị xây dựng kĩ năng theo từng phần. Tóm lại muốn xây dựng những kĩ năng động tác phức tạp phải dựa trên cở sở của sự tiếp thu những động tác đơn giản. Ví dụ: Kĩ năng đi được hình thành trên cơ sở kĩ năng đứng, kĩ năng chạy được hình thành trên cơ sở kĩ năng đi. Trong thực tế cho thấy, có nhiều trường hợp các KNVĐCB được củng cố vững chắc không những không góp phần thúc đẩy, mà ngược lại còn cản trở sự hình thành kĩ năng động tác mới. Nhất là trong trường hợp cấu trúc động tác -17- mới làm thay đổi kĩ năng động tác cũ. Cho nên trong quá trình tập luyện, khi tập một động tác phải đảm bảo hình thành động tác đúng ngay từ đầu, vì sửa một động tác sai đã được củng cố vững chắc còn khó hơn và cần nhiều thời gian hơn tập một động tác mới. Khi một động tác được thực hiện nghĩa là từ khi tiếp nhận kích thích, thần kinh phân tích và tổng hợp rồi đưa ra chương trình VĐ. Đó là cả một quá trình đòi hỏi nhiều yếu tố tham gia. Bởi vì KNVĐ không phải chỉ là những cử động, động tác đơn giản mà là một tổ hợp nhiều cử động, nhiều động tác phối hợp với nhau theo một trình tự nhất định nhất định để tạo nên một hệ VĐ thống nhất. Trong quá trình hình thành KNVĐCB, dấu vết của hoạt động VĐ rất quan trọng bởi vì cấu trúc của một động tác được xác định bằng dấu vết của kích thích trước, dấu vết của động tác mới được hình thành và những tín hiệu qua cơ quan phân tích chạy lên hệ thần kinh báo hiệu việc hình thành nên chương trình làm việc của hệ VĐ. *Các giai đoạn hình thành kĩ năng vận động cơ bản Quá trình hình thành KNVĐCB cho trẻ MN diễn ra theo 3 giai đoạn. Giai đoạn 1: Hình thành KNVĐ đầu tiên Mục đích: Giúp trẻ có những hiểu biết sơ bộ về các thành phần cơ bản của kĩ thuật bài tập. Nhiệm vụ: Hình thành ở trẻ những biểu tượng toàn vẹn của bài tập, nắm được các bước cơ bản của bài tập. Cơ chế sinh lý: Diễn ra sự lựa chọn các phản xạ không điều kiện để hình thành phản xạ có điều kiện vừa thu được, đồng thời hình thành những phản xạ mới mà trẻ em chưa có kinh nghiệm VĐ. Trong khoảng thời gian ngắn trẻ làm quen với các động tác mới mang tính chất khuếch tán của quá trình hưng phấn trong vỏ đại não, thiếu sự ức chế trong. Cuối giai đoạn này là một hệ thống phản xạ VĐ tương ứng với phần cơ bản của kĩ thuật bài tập vừa tập được hình thành. -18- Đặc điểm: Trẻ thiếu tự tin trong lúc VĐ, các cơ bắp đều căng hết mức, dùng sức chưa đúng giữa các bước của bài tập và thiếu sự liên tục, có nhiều cử động thừa, thiếu chính xác về không gian và thời gian do quá trình hưng phấn bị khuyếch tán, lan truyền sang các trung tâm khác của cơ quan phân tích VĐ. Giai đoạn 2: Học sâu từng phần của bài tập. Mục đích: Chuyển kĩ năng thô sơ ban đầu thành kĩ năng chính xác, chú ý đến các chi tiết kĩ thuật. Nhiệm vụ: giúp trẻ nắm chắc hơn các phần cơ bản của kĩ thuật bài tập đã học và các chi tiết của nó. Cơ chế sinh lý: Sự ức chế phân biệt trong phát triển, hạn chế sự lan truyền của các quá trình hưng phấn. Vai trò của hệ thống tín hiệu thứ hai dần dần được nâng cao, hoàn thiện những VĐ trong vỏ đại não, tạo ra những mối liên hệ tạm thời phức tạp, nhờ việc lặp đi, lặp lại hệ thống các phản xạ có điều kiện của bài tập đã học, để dần tiến tới hình thành những định hình động lực ở giai đoạn sau. Đặc điểm: Trẻ hiểu nhiệm vụ và hành động của mình. Các kĩ năng VĐ được hình thành với đầy đủ các chi tiết của kĩ thuật bài tập, bắt đầu xuất hiện các tố chất VĐ, nhưng thường giao động. Trẻ biết dùng sức hợp lý giữa các phần của bài tập, củng cố hệ thống phản xạ về bài tập VĐ, bước đầu biết phối hợp giữa tay và chân. Giai đoạn 3: Củng cố và tiếp tục hoàn thiện KNVĐ, ổn định kĩ năng Mục đích: Chuyển những KNVĐ đã học thành kĩ xảo VĐ (nếu có thể) Nhiệm vụ: Củng cố kĩ thuật bài tập dã học, tiếp tục hoàn thiện các chi tiết kĩ thuật của bài tập đó. Cơ chế sinh lý: Hình thành định hình động lực của các mối liện hệ giữa các phản xạ đã được hình thành, trong mối liên hệ tác động qua lại giữa hệ thống tín hiệu thứ nhất liên quan đến phản xạ có điều kiện được thành lập trên cơ sở phản xạ không có điều kiện và hệ thống tín hiệu thứ hai liên quan -19- đến lời nói của giáo viên, tư duy của trẻ. Hệ thống tín hiệu thứ hai giữ vai trò chủ đạo. Đặc điểm: Trẻ đã nắm vững kĩ năng của bài tập VĐ đã học, trẻ biết tiết kiệm sức lực, tập thoải mái tự nhiên, không gò bó, tập một cách tự do, chính xác. Trẻ tự tin, tin tưởng vào hành động của mình và thực hiện nhiệm vụ một cách tự giác, áp dụng được những VĐ đó vào thực tế, khi dạo chơi, chơi trò chơi VĐ. 1.2.4. Đặc điểm vận động cơ bản của trẻ MG 3 – 4 tuổi 1.2.4.1. Vận động đi *Khái niệm Đi là một trong những loại VĐ cơ bản của con người. Đi là hoạt động cơ bản trong đời sống sinh hoạt học tập, lao động sản xuất. Thế nên đi có rất nhiều quan niệm khác nhau: Theo từ điển Tiếng Việt, đi là di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác bằng những bước chân. [52] Theo quan điểm sinh học, đi là phản xạ có điều kiện, là sự luân phiên giữa VĐ (di chuyển hai chân) và nghỉ ngơi (khi trọng tâm dồn lên một chân để chuyển một chân về phía trước - sau) tạo những điều kiện thuận lợi để thải từ các mô các chất cặn bã có trong máu. Ở góc độ giáo dục học, đi là VĐ có chu kì, là phương thức di chuyển vị trí cơ thể cơ bản nhất, tự nhiên nhất, dễ nhất và tiết kiệm sức nhất. Đi là một trong những nội dung giảng dạy ở trường MN, là hoạt động có tác dụng trực tiếp trong quá trình rèn luyện tư thế, tăng cường sức khỏe, phát triển toàn diện và nâng cao một số tố chất VĐ cơ bản. [28] *Mục đích và tác dụng của vận động đi -20-
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan