Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận một đoạn thơ, bài thơ cho học sinh lớp 9 trư...

Tài liệu Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận một đoạn thơ, bài thơ cho học sinh lớp 9 trường thcs nga an

.PDF
22
15
109

Mô tả:

MỤC LỤC Trang 1. MỞ ĐẦU................................................................................................................1 1.1. Lí do chọn đề tài...............................................................................................1 1.2. Mục đích nghiên cứu........................................................................................1 1.3. Đối tượng nghiên cứu:.....................................................................................1 1.4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................2 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM..........................................................3 2.1. Cơ sở lí luận:....................................................................................................3 2.2. Thực trạng của vấn đề:.....................................................................................3 2.2.1. Thực trạng chung:......................................................................................3 2.2.2. Về phía giáo viên:......................................................................................4 2.2.3. Về phía học sinh:.......................................................................................4 2.3. Các giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện:................................................5 2.3.1. Tích hợp với giờ dạy văn bản:...................................................................5 2.3.2. Củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết bài nghị luận về một đoạn thơ...5 2.3.3: Cung cấp kiến thức các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật cần ......9 2.3.4. Các dạng bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:...................................12 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:............................................................19 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................................20 3.1. Kết luận:............................................................................................................20 3.2. Kiến nghị:.......................................................................................................20 3.2.1. Đối với tổ chuyên môn............................................................................20 3.2.2. Đối với nhà trường...................................................................................20 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Trong nhà trường bộ môn Ngữ văn nói chung, văn nghị luận nói riêng chiếm một vị trí rất quan trọng, giúp học sinh hình thành và phát triển tư duy, khả năng lập luận. Vì vậy trong chương trình THCS văn nghị luận được bố trí dạy ngay từ lớp 7 tiếp tục rèn luyện và nâng cao ở lớp 8 và lớp 9. Tuy nhiên, việc tạo lập được một văn bản nghị luận là vô cùng khó đối với học sinh THCS, bởi văn nghị luận không chỉ đòi hỏi phải có kiến thức chính xác sâu rộng phong phú, những suy nghĩ quan điểm đúng dắn về đời sống xã hội mà còn đòi hỏi cả sự tư duy lô gíc chặt chẽ với những cách lập luận sâu sắc thấu tình, đạt lí thì bài văn mới có thể hấp dẫn, thuyết phục người đọc, người nghe. Đặc biệt để làm được bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ lại càng khó hơn, vì đây là kiểu bài thuộc nhóm nghị luận văn chương. Để làm được kiểu bài này đòi hỏi học sinh ngoài có những kĩ năng trên, còn phải có năng lực cảm nhận, nhận xét đánh giá về thơ, vừa phải có kiến thức về bài thơ, đoạn thơ ấy (về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, giá trị nội dung, nghệ thuật….) Trong nhiều năm qua, bản thân tôi luôn được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9, tôi luôn có ý thức trong công tác giảng dạy, đặc biệt chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ vì đây là dạng bài khó luôn có trong các đề thi lớp 9 mà hầu hết học sinh lại không làm được. Hoặc nếu học sinh có làm được thì chất lượng và hiệu quả của một bài văn Nghị luận là chưa cao Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng của việc làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ trong nhà trường THCS hiện nay, tôi quyết định chọn đề tài “Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga An” 1.2. Mục đích nghiên cứu. Sở dĩ, tôi chọn đề tài này với mong muốn đáp ứng nhu cầu thực tiễn của người học và nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn, nhất là nghị luận về văn chương nói chung và nghị luận về tác phẩm thơ nói riêng. Đồng thời nhằm trao đổi với đồng nghiệp một vài kinh nghiệm. Qua đó giúp cho học sinh lớp 9 nắm vững hơn phương pháp làm kiểu bài này và nâng cao hơn nữa chất lượng bài thi, bài kiểm tra và kết quả học tập cho học sinh lớp 9. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Nghiên cứu đối tượng học sinh trung học lớp 9A,B thông qua các tiết dạy chương trình chính khóa, chương trình bổ trợ,... - Nghiên cứu cách thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực của đồng nghiệp. - Nghiên cứu đề tài qua việc các em ôn tập, thực hành tạo lập văn bản nghị luận văn chương và nhất là thơ. - Kết quả làm bài văn nghị luận về tác phẩm thơ. 1 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Nghiên cứu lý thuyết. - Quan sát sư phạm. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Đối chiếu kết quả bài làm của hai lớp 9A, B trước và sau khi áp dụng của đề tài vào giảng dạy. - Phương pháp thông kê . 2 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 2.1. Cơ sở lí luận: Chúng ta đã biết rằng tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật mà người nghệ sĩ mất bao công sức, bao trải nghiệm để sáng tạo nên. Thơ chỉ thật sự có giá trị khi mang ý nghĩa đời sống, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm tư, tình cảm nhận thức của con người. Đứng trước một tác phẩm văn học, một đoạn thơ hay một bài thơ người đọc suy nghĩ và bộc lộ tình cảm, cách hiểu, cách đánh giá về tác phẩm ấy chính là quá trình nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là kiểu bài thuộc nhóm nghị luận văn chương. Mục đích của kiểu bài này là qua việc tìm hiểu các tín hiệu nghệ thuật (như hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu…) nhận xét, đánh giá được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ ấy. Tìm hiểu, phân tích thơ là một việc khó, đánh giá thơ lại càng khó và phức tạp hơn, bởi lẽ thơ là sản phẩm của cảm xúc, trí tưởng tượng mang dấu ấn cá nhân. Quá trình tiếp nhận thơ ca cũng đồng thời là quá trình tiếp nhận mang tính chất chủ quan sâu sắc. Bài nghị luận vì thế mà cần có sự kết hợp giữa việc trình bày hiểu biết về những “dấu ấn cá nhân” của tác giả,đồng thời phải nói lên được những cảm nhận, đánh giá chủ quan của bản thân người viết. Kiến thức được thể hiện trong một bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là kiến thức tổng hợp, kết hợp của nhiều hiểu biết về đặc trưng thể loại, về tác giả, về hoàn cảnh sáng tác…Vì vậy việc rèn luyện giúp cho học sinh có kĩ năng làm tốt bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là một việc làm rất cần thiết. 2.2. Thực trạng của vấn đề: 2.2.1. Thực trạng chung: Thực trạng học và làm văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ của học sinh hiện nay đang là vấn đề đáng lo ngại. Theo thống kê kết quả thi học kì và thi vào THPT của học sinh lớp 9 Trường THCS Nga An nói riêng, nhiều trường trong huyện Nga Sơn nói chung mấy năm gần đây thì bài thi môn văn của học sinh điểm cao rất ít, phần lớn là điểm trung bình và dưới trung bình nhất là những năm đề ra làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, trong đó có nhiều bài văn của học sinh khiến người chấm dở khóc dở cười bởi những sai sót quá cơ bản của học sinh. Ngoài các lỗi về chính tả, dùng từ, diễn đạt…nhiều em còn sai kiến thức cơ bản do suy diễn theo cảm tính, rất ít học sinh biết rung động trước những tác phẩm văn học, đặc biệt là thơ. Do vậy khi làm bài học sinh thường suy luận chủ quan hoặc tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên giảng, hoặc là diễn nôm bài thơ mà chưa biết phân tích. Bình luận sâu sắc các tín hiệu nghệ thuật thậm chí có chỗ ‘râu ông nọ cắm cằm bà kia” nhầm nội dung tác phẩm này với tác phẩm khác, tác giả này với tác giả khác. Bố cục bài làm chưa rõ ràng, mạch lạc. Ở một số bài 3 yếu còn gạch đầu dòng ở mỗi ý…Sở dĩ chất lượng bài làm văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ của học sinh thấp như vậy là do nhiều nguyên nhân. 2.2.2. Về phía giáo viên: Mặc dù những năm gần đây hầu hết giáo viên đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học, nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Ngay trong những giờ dạy các văn bản thơ - bước chuẩn bị quan trọng đầu tiên để các em làm tốt bài văn nghị luận nhiều giáo viên vẫn cứ quen thói cũ dạy theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều : giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe ghi chép nên giờ học tác phẩm văn chương chưa thu hút được sự chú ý của học sinh, nhiều em tỏ ra bàng quan, thờ ơ. Mặt khác trong giờ hướng dẫn rèn luyện cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ hầu hết giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh một cách chung chung theo 2 tiết trong sách giáo khoa nên học sinh không có kĩ năng vận dụng kiến thức vào để làm bài. 2.2.3. Về phía học sinh: Phần lớn học sinh hiện nay không ham muốn học tập môn Ngữ văn, nhất là ngại làm những bài văn. Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã hội, thì một phần cũng do làm văn quá khó, lại mất nhiều thời gian. “Công thức” làm văn cho các em lại không được hình thành cụ thể. Các em không phân biệt rõ các thao tác nghị luận chính mà mình sử dụng. Càng ngày, kĩ năng tạo lập văn bản của học sinh càng kém hơn, và rất hiếm có những bài văn nghị luận có được sức hấp dẫn, thuyết phục bởi cách lập luận rõ ràng, chính xác, đầy đủ và chặt chẽ từng luận điểm luận cứ…Bài viết của các em khi thì sai về yêu cầu thao tác nghị luận, khi lại không sát, không đúng với nội dung nghị luận của đề bài. Ví dụ, đề bài yêu cầu cảm nhận các em lại làm như một bài phân tích, thiếu cảm xúc, thái độ tình cảm; đề bài yêu cầu nghị luận về một nội dung của tác phẩm các em lại nghị luận về toàn bộ tác phẩm đó; các em không không phân biệt được viết như thế nào là bài bình giảng, viết như thế nào là bài phân tích một đoạn thơ bài thơ; hoặc khi nghị luận kết hợp giải quyết một ý kiến nào đó liên quan tới tác phẩm, các em lại quên mất việc giải quyết ý kiến đó (quên giải thích ý kiến, quên xoáy vào tác phẩm để làm rõ ý kiến) mà cứ sa vào nghị luận toàn bộ tác phẩm… Vào đầu năm học, tôi khảo sát kĩ năng nghị luận thơ của học sinh qua bài tập nhỏ: - Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về một đoạn thơ đã học…? - Vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật qua một bài thơ đã học? - Kết quả khảo sát chất lượng trước khi thực hiện đề tài như sau: Giỏi Khá TB Yếu Kém Lớp Sĩ Số SL % SL % SL % SL % SL % 9A 38 1 2.6 8 21 13 34.2 12 31.5 4 10.5 9B 35 0 0 7 20 10 28.5 15 42.8 3 8.5 4 Kết quả trên cho thấy nguyên nhân mấu chốt học sinh không biết làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là do các em không có kiến thức về bài thơ, đoạn thơ đó hoặc thiếu kĩ năng làm kiểu bài văn nghị luận này. Vậy nên, việc nâng cao mở rộng, luyện tập thêm cho học sinh kĩ năng làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là rất cần thiết. 2.3. Các giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện: Để học sinh có kĩ năng làm được bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ Tôi thực hiện theo các giải pháp và cách thức tổ chức sau: 2.3.1. Tích hợp với giờ dạy văn bản: Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ hội tụ cả hai yếu tố: năng lực cảm thụ văn chương và phương pháp làm bài nghị luận. Lời văn của bài phải chặt chẽ, thể hiện chính kiến của người viết (yếu tố nghị luận) lại vừa gợi cảm sinh động thể hiện sự rung động với tác phẩm (yếu tố văn chương). Đây là điểm khác biệt với các dạng văn nghị luận khác. Thực tế không phải học sinh nào cũng có khả năng cảm thụ ngay từ khi tiếp xúc với tác phẩm. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, học sinh làm trung tâm của quá trình tiếp nhận nhưng không thể coi nhẹ vai trò chỉ đạo, hướng dẫn của thầy, đặc biệt là sự dẫn dắt để học sinh phát hiện và khắc sâu những điểm sáng và chi tiết nghệ thuật trong bài thơ, và đó cũng là việc làm thường xuyên của tôi trong mỗi giờ dạy văn bản thơ. Ví dụ khi dạy văn bản thơ bước đầu bao giờ tôi cũng cho học sinh phát biểu, trình bày nêu cách hiểu và cảm nhận về tác phẩm sau khi đã soạn bài ở nhà. Đây là bước chuẩn bị quan trọng để các em làm tốt kiểu bài này. 2.3.2. Củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ: - Khái niệm: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy. - Yêu cầu đối với bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ: Thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật của thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, vần, nhịp, cách sử dụng dấu câu... Vì vậy yêu cầu: + Nôi dung: bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần nêu lên được các nhận xét, đánh giá và sự cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải gắn với sự phân tích, bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc của tác phẩm. + Lời văn: phải gợi cảm, thể hiện những rung động chân thành của người viết. + Bố cục: Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục rõ ràng, mạch lạc 5 - Các bước làm bài văn nghị luận về bài thơ, đoạn thơ: Bước 1: Tìm hiểu đề, tìm ý: -Tìm hiểu đề: Đây là bước đầu tiên và rất quan trọng nhưng lâu nay nhiều khi học sinh thường bỏ qua dẫn đến tình trạng làm lệch hướng, lạc thể loại của đề bài yêu cầu (lạc đề). Vậy chúng ta phải làm thế nào? + Giáo viên yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề bài, tìm và gạch chân những từ ngữ quan trọng để xem xét, xác định chính xác thể loại nghị luận cần hướng tới? + Xác định thể loại, kiểu bài nghị luận? (chú ý từ: suy nghĩ, phân tích, cảm nhận để thực hiện đúng phương pháp làm bài). Hiện nay nhiều em học sinh lớp 9 đang băn khoăn lo lắng: “Nhiều lúc em không biết cái mình đang viết là phân tích hay cảm nhận.” Và nếu thầy cô ra hai đề “Em hãy phân tích đoạn thơ trên” hoặc cảm nhận của em về đoạn thơ trên” thì em sẽ làm hoàn toàn giống nhau…Đó là những lời bộc bạch chân thành dễ hiểu. Bởi vì phân tích và cảm nhận là những thao tác cơ bản của kiểu bài nghị luận văn chương. Mà trong chương trình Ngữ văn 9 tập 2 có 6 tiết cung cấp kiến thức về nghị luận văn chương (Nghị luận về thơ và nghị luận về truyện) nhưng lại không có một tiết học nào dạy về cách làm bài cụ thể ở hai dạng phân tích và cảm nhận. Trong lúc đó, đề môn ngữ văn thi vào THPT thì ngày càng tăng cường kiểm tra sự vận dụng sáng tạo kiến thức đã học với hai yêu cầu cụ thể là phân tích và cảm nhận. Theo tôi, để học sinh tháo gỡ được băn khoăn, viết đúng hai dạng đề này cần phải giúp các em phân biệt sự khác nhau giữa phân tích và cảm nhận. Tuy nhiên sự phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối. “Phân tích”, theo từ điển đã định nghĩa: “là cơ sở để tổng hợp, tổng hợp là mục tiêu của phân tích”. Phân tích và tổng hợp gắn bó chặt chẽ với nhau. Vậy khi làm bài phân tích đòi hỏi học sinh phải xem xét một cách toàn diện, khách quan từ hình thức đến nội dung. Ngòi bút của các em phải sắc bén để chia cắt đối tượng. Nếu là thơ thì phải tìm hiểu ngôn từ, hình ảnh giọng điệu….Nếu là chuyện thì tìm hiểu nhân vật, nghệ thuật kể, ý nghĩa cốt truyện…khi gặp các dạng đề này nên phân tích dẫn chứng trước để rút ra nhận xét, đánh giá sau. Còn cảm nhận là trình bày những suy nghĩ, cảm xúc, những nhận xét, đánh giá của mình về cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Cảm nhận xoáy vào những ấn tượng chủ quan của người viết về những điểm sáng thẩm mĩ trong văn bản văn chương. Vì vậy yêu cầu người viết phải biết lắng nghe, chắt lọc những xúc cảm, những rung động của chính mình xem yếu tố nào gây thành ấn tượng đậm nhất, nắm lấy nó rồi viết ra. Ấn tượng của các em về tác phẩm càng sâu đậm, ám ảnh bao nhiêu thì bài viết cảm nhận càng xúc động, sâu sắc bấy nhiêu. Có thể nói “cảm nhận” nghiêng về “cảm” còn phân tích nghiêng về “hiểu”. Nếu như phân tích thì tác động vào nhận thức, trí tuệ thì cảm nhận tác động vào cảm xúc, tâm hồn. 6 Tuy nhiên nếu phân tích mà không có cảm nhận thì bài viết sẽ rất khô khan. Chúng ta nên lồng cảm nhận vào phần tổng hợp của bài phân tích, tức là phần cuối đoạn hoặc cuối bài. Ngược lại cảm nhận mà không có phân tích thì cảm nhận ấy thiếu cơ sở thuyết phục. Trong cảm nhận phải có phân tích để đào sâu, làm điểm tựa, làm đòn bẩy cho cảm xúc thăng hoa cất cánh. Hay nói cách khác, mọi rung động, cảm xúc của người viết bắt nguồn từ sự phân tích bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu…nhân vật, cốt chuyện hay chủ đề của tác phẩm. Sau đây xin dẫn ra một ví dụ cụ thể để các em cùng xem xét: Ví dụ: Cho đoạn thơ: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. (Sang thu, Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập hai) Đề 1: Phân tích đoạn thơ trên Bài làm: …“Sang thu”, cảnh vật thời tiết thay đổi. Tất cả còn những dấu hiệu mùa hạ nhưng đang giảm dần mức độ, cường độ, từ gay gắt chuyển hóa thành dịu êm. Phép tiểu đối giữa nắng và mưa, vẫn còn và đã vơi thể hiện sự phân hóa mong manh giữa hai mùa. Bởi vì làm sao có thể đong đếm đầy vơi những dấu hiệu của thiên nhiên lúc giao mùa. Khi đất trời sang thu, những hàng cây lâu năm không còn bất ngờ trước những tiếng sấm chuyển mùa nữa. “Sấm” và “hàng cây đứng tuổi” là hình ảnh ẩn dụ. Sấm chỉ những vang động, những sóng gió cuộc đời. Còn “hàng cây đứng tuổi” chỉ những người từng trải, thường điềm tĩnh chín chắn thêm trước những vang động sóng gió cuộc đời. Từ những thay đổi của mùa thu đời người, để rồi ta thấu hiểu rằng “Hãy biết chấp nhận bình tĩnh sống với lòng tin. Hãy mở rộng lòng mình để yêu thiên nhiên, đất nước, con người” Đề 2: Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ trên. Bài làm: …“Vẫn là nắng, mưa, sấm chớp, bão giông nhưu mùa hạ, nhưng mức độ đã khác rồi. Để ý sẽ thấy cái gì cũng bắt đầu đi vào chừng mực, vào thế ổn định. Và cái “đứng tuổi” của cây là cái chốt cửa để mở sang một thế giới khác: thế giới sang thu của hồn người. Vẻ chín chắn điềm tĩnh của cây trước sấm sét bão giông hay chính là sự từng trải chín chắn của con người sau những dâu bể cuộc đời? Ở cái tuổi ấy, con người một mặt sâu sắc thêm, mặt khác lại khẩn trương gấp gáp hơn vì quỹ thời gian không còn nhiều nữa.Thì ra, trước mắt việc đi mãi, ngoảnh đầu thu đến rồi. Bốn mùa luân chuyển vô hình, lặng lẽ; bỗng chợt thu. Đời người vất vả, tất bật, bộn rộn, lo toan, bỗng chốc thấy mái tóc pha sương: sững sờ mình cũng đã sang thu. Nhan đề “Sang thu” vừa bao trùm lại vừa thấm vào cảnh vật: hương quả sang thu, ngọn gió, màn sương sang thu…Nhưng trong từng cảnh sang thu của thiên nhiên đất trời tạo vật là lồng lộng hồn người sang thu… 7 - Tìm ý: Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ phải tìm hiểu nhà thơ, cuộc đời sự nghiệp, phong cách sáng tác, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, đặc biệt phải bám sát bố cục của bài để tìm luận điểm. Bước 2: Lập dàn bài. Đây là bước mà học sinh coi là khó nhất khi làm bài. Và các em cũng hay bỏ qua để thực hiện bước viết bài. Tại sao vậy? Vấn đề này cũng dễ lí giải: thứ nhất, các em có một tâm lí sợ mất nhiều thời gian khi làm bài. Thứ hai, không có thói quen, chưa tập thành nếp lập dàn bài trước khi viết bài hoàn chỉnh. Thứ ba, không thuộc bài cũ cho nên cũng không thể lập được dàn bài. Thứ tư, do thói quen chủ quan của một số em. Như vậy, dẫn đến hậu quả hệ thống luận điểm sắp xếp không theo trật tự lô gic, các ý lộn xộn, hoặc bỏ ý, bỏ luận điểm trong bài bài viết. Vậy, bước này, giáo viên cần phải làm gì để giúp các em tránh khỏi những tồn tại trên? + Xác định về thời gian làm bài cho một đề cụ thể. Đây là khâu chuẩn bị làm bài mà giáo viên nên rèn cho học sinh thói quen tốt để các em khỏi lúng túng trong việc phân bố thời gian sao cho hợp lí khi làm bài, tránh tình trạng thiếu giờ hoặc thừa giờ. + Yêu cầu các em xác định bố cục bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Tìm ý cho mỗi phần của bố cục chính là chuẩn bị các yếu tố, điều kiện cần thiết cho việc xây dựng bài văn. Nếu các em tìm được các luận điểm chính xác, điểm sáng trong bài thơ sẽ là điều kiện phân tích, bình luận trong bài văn đúng và hay tạo nên cách viết riêng cho mình Bố cục chung của bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ: Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu nhận xét, đánh giá của mình. Thân bài: Lần lượt trình bày những suy nghĩ, nhận xét, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ. Kết bài: Khái quát chung về giá trị và ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ. Bước 3: Viết bài. - Khi thực hiện bước này, nhất thiết người viết phải bám sát vào dàn bài đã lập để triển khai hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng. -Về hình thức bài văn: bố cục của bài viết, các đoạn trong bài phải được trình bày theo trình tự lô gic, có sự liên kết chặt chẽ cả nội dung lẫn hình thức, các câu trong đoạn phải thống nhất với nội dung của đoạn. Các đoạn trong bài được trình bày theo các cách lập luận (diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, song hành…) -Về nội dung của bài văn: tùy từng yêu cầu của đề bài và phần dàn ý đã lập mà chúng ta triển khai các luận điểm rõ ràng. Tránh tình trạng diễn nôm bài thơ. Bước 4: Đọc và sửa lỗi. 8 Đây là bước cuối cùng khi hoàn thiện bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Người viết phải có thói quen rà soát lại bài làm của mình để sửa lỗi về nội dung lẫn hình thức. - Về nội dung, người viết phải soát lại hệ thống luận điểm, luận cứ. - Về hình thức, người viết phải soát lại bố cục, các đoạn văn, các câu văn diễn đạt, lỗi chính tả thường mắc phải. 2.3.3: Cung cấp kiến thức các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật cần chú ý khi nghị luận về thơ: Giáo viên chỉ ra cho học sinh nắm được các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật mà nhà thơ thường dùng để biểu hiện tình cảm, tư tưởng qua: Ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu, biện pháp tu từ, thể thơ, nhan đề…Và những điều lưu ý khi phân tích các yếu tố ấy. Kiến thức lí luận chung này rất quan trọng giúp học sinh làm quen và dần khắc sâu kĩ năng phân tích thơ. a. Ngôn ngữ Thơ - Kiến thức lí luận: Ngôn ngữ thơ cô đọng, lời ít ý nhiều mang dấu ấn riêng của mỗi người nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ phải chính xác, giàu hình tượng và biểu cảm tạo nên tính họa, tính nhạc trong thơ. Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngôn từ. Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học không có cách nào khác là nhờ vào hệ thống này. “Văn học là nghệ thuật ngôn từ” do tầm quan trọng ấy mà người ta xem nhà văn, nhà thơ là người lao động chữ nghĩa. P.Reveredy nói: “Chỉ một từ thôi cũng đủ tiêu diệt bài thơ hay nhất”. Không cần lý giải dài dòng vẫn thấy vai trò quan trọng của từ ngữ thơ. Đó là những từ “sáng”, từ “đắt”, từ làm nên giá trị nội dung thơ. - Tổ chức thực hiện: Giáo viên cần chỉ ra cho hoc sinh chú ý không thoát li từ ngữ, phát hiện và phân tích từ ngữ thơ bằng cách đặt ra các câu hỏi: Tại sao tác giả không dùng từ này mà lại là từ khác? Ví dụ: Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió xe (Sang Thu –Hữu Thỉnh) - “Phả”: động từ có nghĩa là tỏa vào trộn lẫn. Người ta có thể dùng các từ: lan, tan, bay, tỏa …thay cho từ “phả” nhưng cả bấy nhiêu từ không có cái nghĩa đột ngột bất ngờ... Từ “phả” cho thấy mùi hương ổi ở độ đậm đặc nhất, thơm nồng quyến rũ hòa trong gió heo may lan tỏa khắp không gian tạo nên mùi hương ngọt mát của những trái ổi chín vàng rộ, gợi ta liên tưởng đến những khu vườn xum xuê trái ngọt ở nông thôn Bắc Bộ. - Đặt ra câu hỏi: Tại sao từ này lại lặp lại nhiều lần có tác dụng gì? Có bao nhiêu từ đồng nghĩa với từ ấy? Có thể thay thế từ này với các từ khác không? - Trong câu thơ ấy, đoạn thơ ấy những từ ngữ nào cần chú ý phân tích? Ở đây cũng cần nhắc nhở các em không phải từ nào, câu nào cũng đáng phân tích cũng có giá trị như nhau, chính vì vậy biết phát hiện phân tích cũng là năng lực trình độ. 9 Trong thực tế không ít em đi phân tích hết các câu, từ nào cũng khen hay dẫn đến cách suy diễn tán tụng thái quá. Thần thái của thơ có khi được tập trung trong một từ, một cụm từ, hay một câu thơ. Giáo viên khi hướng dẫn phân tích cần gợi mở cho học sinh tìm, phát hiện các “nhãn tự”, các từ “sáng”, từ “đắt” và cảm nhận chính xác nghĩa biểu đạt nội dung của các từ ngữ ấy. Ví dụ: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng... (Mã Giám Sinh mua Kiều –Truyện Kiều, Nguyễn Du) Chỉ bằng từ “tót” Nguyễn Du đã giết chết Mã Giám Sinh, vạch trần bộ mặt giả dối, bản chất lưu manh, vô học của con buôn họ Mã. Hay câu thơ: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi lại đi trời xanh thêm” (Bài thơ tiểu đội xe không kính) - “chông chênh” là từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tư thế không bằng phẳng, không chắc chắn, gợi sự nguy hiểm của người lính trên đường lái xe ra tuyền tuyến. Đây là nét vẽ hiện thực được Phạm Tiến Duật tái hiện lại cuộc đời gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn. Trong hoàn cảnh chiến đấu cam go họ phải ăn - những bữa ăn vội vàng, xoàng xĩnh, phải ngủ - những giấc ngủ tranh thủ, ngắn ngủi trên xe hay dọc đường đi giữa làn mưa bom bão đạn quân thù… Song từ: “chông chênh”còn gợi tả phong thái ung dung của người lính. Bom đạn của quân thù không thể hủy diệt sự sống ngược lại sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại bất diệt trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang, tư thế của người chiến thắng của chính nghĩa… Như vậy, từ ngữ thơ mang thần thái của thi phẩm và tài năng thơ của người sáng tác. b. Hình ảnh thơ: - Kiến thức lí luận: Hình ảnh thơ không phải là tổng số của nhiều hình ảnh mà chính sự chọn lọc những hình ảnh có giá trị biểu cảm, giàu sức gợi có tính hàm xúc, thể hiện tư tưởng, tinh thần, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. - Tổ chức thực hiện: khi giảng văn, giáo viên gợi cho học sinh nhận ra đâu là hình ảnh cần phân tích, cảm nhận. Ví dụ: Viết về mùa xuân, Nguyễn Du đã miêu tả hình ảnh nào? Cảm nhận của em về bức tranh mùa xuân qua các hình ảnh ấy? Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (Truyện Kiều - Nguyễn Du) Viết về mùa xuân chỉ bằng hai câu thơ tuyệt bút, Nguyễn Du đã phác họa bức tranh xuân tươi tắn, tràn ngập ánh sáng, màu sắc. Hình ảnh đặc trưng của mùa xuân: thảm cỏ non xanh vô tận chân trời là gam nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy, điểm xuyết vài bông hoa lê trắng, màu sắc hài hòa tới mức tuyệt 10 đối: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời), nhẹ nhàng, tinh khiết (vài bông hoa trắng). Chữ “điểm” làm cho cảnh vật trở nên sinh động chứ không tĩnh tại. Nguyễn Du, tuy không tả mặt biển mà ta như dập dờn say giữa những con sóng đung đưa của cỏ xanh hoa trắng. “Thi trung hữu họa” là đấy. Tóm lại, khi nghị luận về thơ, giáo viên chỉ cho học sinh sự cần thiết cần bám vào hình ảnh thơ để khai thác nội dung thơ. c. Giọng điệu: - Kiến thức lí luận: “giọng điệu là một phương diện biểu hiện quá trình chủ thể sáng tạo. Giọng điệu thể hiện thái độ lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói đến” (Thuật ngữ văn học) - Tổ chức thực hiện: Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận ra giọng điệu của từng nhà thơ qua đọc hiểu văn bản để thấy được phong cách sáng tác, cái khác biệt của người nghệ sĩ. Từ đó nhận ra đặc điểm âm hưởng thơ của một thời đại văn học, một giai đoạn lịch sử dân tộc, cốt cách tâm hồn một lớp thế hệ, một địa phương. Giọng điệu được thể hiện qua nhịp thơ, ngôn ngữ thơ và nội dung thơ... Ví dụ: Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang tính khẩu ngữ, đậm chất lính tráng, khoẻ khoắn, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. “Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. (Bài thơ về Tiểu đội xe không kính- Phạm Tiến Duật) Giọng điệu thơ Thanh Hải tha thiết, trìu mến, trữ tình như hồn phách con người cố đô: .....Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. (Mùa Xuân nho nhỏ) Viễn Phương chân thành, nhẹ nhàng, tinh tế, giàu cảm xúc. Thơ Y Phương đẹp như một bức tranh thổ cẩm nhiều màu sắc, mang cái hồn cái vía của con người vùng cao. Bằng Việt trong trẻo, mượt mà thường khai thác những kỉ niệm và mơ ước của tuổi trẻ nên rất gần gũi với người đọc.... Nắm được đặc điểm giọng điệu của từng nhà thơ, làm rõ đặc điểm đó qua văn bản đôi khi chỉ cần một khổ thơ cũng đủ minh chứng cho phong cách thơ tác giả ấy. d. Biện pháp tu từ: - Kiến thức lí luận: Muốn làm bài văn phân tích thơ đúng, hay và sâu, học sinh phải có kiến thức vững về Tiếng việt, nhận biết và cảm được vai trò của biện pháp tu từ trong việc diễn đạt nội dung thơ. 11 Các biện pháp tu từ chính là những phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm cho ngôn từ văn học. Phân tích biện pháp tu từ chính là chỉ ra tính hiệu qủa của cách viết, cách nói ấy chứ không đơn thuần là gọi được tên, liệt kê các biện pháp mà nhà thơ. - Tổ chức thực hiện: Giáo viên cung cấp kiến thức khái niệm lí luận về các biện pháp tu từ trên kết hợp với dẫn chúng cụ thể, giao bài tập thực hành kiểm tra đánh giá kết quả (kiến thức về biện pháp tu từ các em đã học từ lớp 6, vì vậy thông qua các tiết giảng văn giáo viên lồng ghép để khắc sâu kiến thức thêm.) 2.3.4. Các dạng bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ: Lưu ý đối tượng nghị luận một đoạn thơ, bài thơ rất đa dạng, bao gồm: nghị luận về một đoạn thơ, nghị luận về một bài thơ, nghị luận về một khía cạnh nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ hoặc có thể là nghị luận tổng hợp từ hai ba đoạn, bài thơ trở lên. Với mỗi kiểu bài, yêu cầu nghị luận có sự khác nhau.Vì thế học sinh phải căn cứ vào yêu cầu cụ thể để làm bài, tránh ôm đồm, tham lam kiến thức hoặc sơ sài, hời hợt. a.. Dạng bài nghị luận về một bài thơ: Khi tiếp xúc với dạng đề này, khá nhiều học sinh thắc mắc, băn khoăn là có cần chép hết bài thơ trong phần mở bài không? Làm thế nào để học thuộc cả một bài thơ dài ? Phân tích nội dung hay nghệ thuật trước? Phân tích nội dung thì phân tích như thế nào? Để giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của học sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh cách làm cụ thể. - Đối với dạng đề này học sinh có thể làm theo cách sau: + Khi giới thiệu bài thơ (nên để ở phần mở bài) học sinh không cần dẫn nguyên bài thơ, chỉ cần giới thiệu tên bài thơ, tác giả, hoàn cảnh ra đời, chủ đề chính của bài thơ. + Để tìm hiểu giá trị bài thơ (bao gồm giá trị nội dung và nghệ thuật) có thể chọn phân tích cắt ngang (tức phân tích theo bố cục – các đoạn của bài thơ) hoặc bổ dọc (tức theo các ý trong thơ). Với cách phân tích thứ nhất, học sinh cần nắm chắc bố cục bài thơ, từ đó lần lượt phân tích từng đoạn cho đến hết bài thơ. Với cách thứ hai, trước hết cần bao quát được hệ thống ý (cũng có thể hiểu là những biểu hiện, diễn biến cảm xúc của nhân vật trữ tình) sau đó tập hợp, phân tích những câu thơ có cùng nội dung cảm xúc ấy. Quá trình phân tích, cảm nhận bài thơ phải theo trình tự từ nghệ thuật đến nội dung. Đây là quá trình ngược lại với quá trình sáng tác của nhà thơ, là quá trình người đọc tự giải mã những tín hiệu ngôn ngữ để tìm đến nội dung tư tưởng, nội dung cảm xúc của nhà thơ gửi gắm. + Trong quá trình phân tích không nhất thiết phải trích dẫn tất cả những câu, đoạn trong bài thơ (nếu là bài thơ dài) mà các em có thể chọn những câu thơ, đoạn thơ tiêu biểu để phân tích và làm dẫn chứng minh hoạ. 12 Ví dụ: Em hãy phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh Cách làm: Đối với đề này bài làm cần đáp ứng được các yêu cầu sau: Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm Hữu Thỉnh thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông là người viết nhiều, viết hay về quê hương và cuộc sống con người, đặc biệt là về mùa thu. Với tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra những chuyển biến rất nhẹ nhàng của đất trời khi mùa thu đến mà với những bộn bề công việc người ta rất khó có thể nhận ra. Với bài thơ “Sang thu” (sáng tác 1977) Hữu Thỉnh đã góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một bức tranh thu với những nét mới mẻ, sáng tạo, đầy ắp hơi thở của sự sống. Thân bài: Phân tích bài thơ - học sinh có thể đi phân tích theo nhiều cách khác nhau có thể phân tích theo từng khổ cũng có thể phâm tích theo mạch cảm xúc. Khổ 1: Là những dự cảm mùa thu đã về Phân tích những hình ảnh, hiện tượng thể hiện sự biến chuyển của đất trời lúc sang thu: tác giả đã cảm nhận qua nhiều yếu tố, bằng nhiều giác quan và qua sự rung động thật tinh tế. - Hương ổi lan vào không gian, phả vào gió se - Sương giăng mắc nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm. - Tâm trạng nhà thơ ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng qua các từ “bỗng”, “hình như” Khổ 2 và 3: Miêu tả bức tranh thiên nhiên đất trời lúc sang thu - Từ khung cảnh chật hẹp nơi làng quê, nhà thơ đã dần hé mở thêm cho không gian cả chiều cao, rộng, sâu. Đầu tiên nhà thơ quan sát sự vật ở tầng thấp sau đó đến tầng cao. Chú ý phân tích hình ảnh “có đám mây mùa hạ - Vắt nửa mình sang thu”. Đây là hình ảnh thú vị thể hiện sự liên tưởng phong phú và sự sáng tạo độc đáo, mới mẻ của nhà thơ. - Phân tích hình ảnh thiên nhiên khổ cuối: Khi mùa thu sang, những dấu hiệu thiên nhiên mùa hạ vẫn còn: nắng, mưa, sấm nhưng đã giảm dần về mức độ, cường độ: nắng bớt nắng chói, gay gắt; mưa nhẹ hạt hơn; sấm bớt đến bất ngờ; hàng cây già hơn. Song các hình ảnh “nắng, mưa, sấm” còn là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho những khắc nghiệt, chuyển biến của ngoại cảnh, cuộc đời. Hàng cây đứng tuổi chỉ những con người từng trải. Qua hình ảnh này nhà thơ gửi gắm triết lí: Con người đã từng trải luôn vững vàng trước những tác động, biến đổi của ngoại cảnh, cuộc đời. Kết bài: đánh giá chung Tóm lại: Đọc “Sang thu”, ta không chỉ cảm nhận được những khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời của mùa thu nơi làng quê Bắc Bộ mà còn thấy được tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và tấm lòng yêu thiên nhiên cùng bài học triết lí, kinh nghiệm sâu 13 xa mà Hữu Thỉnh gửi gắm qua những nét mới mẻ, sáng tạo của một tiếng thu đầy ắp sự sống. b. Dạng bài nghị luận về một đoạn thơ: Phạm vi kiến thức của dạng bài nghị luận này hẹp hơn so với nghị luận về một bài thơ, nhưng điều đó không có nghĩa là đơn giản, nhẹ hơn so với yêu cầu nghị luận về một bài thơ. Đây là dạng đề đòi hỏi người viết phải thể hiện được những kiến thức, khả năng cảm thụ cụ thể của bản thân. - Khi nghị luận ngoài việc phân tích đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, cần phải đánh giá được vai trò, vị trí của đoạn thơ trong việc góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Điều đó cũng có nghĩa là khi phân tích trình bày cảm nhận về một đoạn thơ không bao giờ được tách rời với tổng thể là cả bài thơ. - Những đoạn thơ mở đầu tác phẩm thường khơi gợi cảm hứng chủ đạo của bài thơ. Những đoạn cuối thường kết tinh giá trị, bộc lộ rất rõ thi tứ hoặc thể hiện tính chất triết lí của bài thơ đó. Việc nắm được ý nghĩa của những vị trí đắc địa này cũng tạo thuận lợi nhất định cho quá trình làm bài. - Trình tự cơ bản của bài nghị luận về một đoạn thơ cần lưu ý: +Mở bài: Giới thiệu khái quát về vị trí, nội dung của đoạn thơ trong toàn bài thơ (chú ý các thao tác trích dẫn đoạn thơ nếu là đoạn ngắn) +Thân bài: Tập trung phân tích giá trị về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ được yêu cầu nghị luận, tránh lạm dụng trích dẫn tư liệu mở rộng quá nhiều. +Kết bài: đánh giá chung về đoạn thơ trong mối quan hệ với tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. - Ví dụ: Phân tích đoạn thơ : Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc Mùa xuân nho nhỏ- Thanh Hải Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Thanh Hải, sáng tác 1980- không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời.Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với thiên nhiên, đất nước, cuộc đời thể hiện ước nguyện chân thành được cống hiến, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. Đoạn thơ thể hiện rõ nhất lẽ sống cao đẹp ấy của nhà thơ là: 14 Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc Thân bài: - Phân tích lẽ sống cao đẹp của nhà thơ qua đoạn “Ta làm………xao xuyến” Đoạn thơ chinh phục ta bởi những lời tha thiết của một cái tôi trữ tình tự nhiên, dung dị. Nếu ở đầu bài thơ hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, “một con chim chiền chiện”là nét vẽ của mùa xuân thiên nhiên, thì giờ đây chính Thanh Hải lại muốn làm nên một nét xuân hồng của mùa xuân đất nước. Làm một con chim hót để gọi xuân về, làm bông hoa đẹp toả hương sắc cho vườn hoa cuộc đời, làm một nốt trầm trong bản hoà ca thanh bình của đất nước. “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” còn là những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp, cho niềm vui và tài năng của con người. Với điệp ngữ “ta làm” nhà thơ đã bày tỏ ước mơ giản dị mà cao đẹp của mình. Như Tố Hữu đã từng nói: “Nếu là con chim chiếc lá Thì con chim phải hót chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Đó cũng là lẽ sống, là ước nguyện chung của mỗi người dân Việt Nam. Làm con chim, cành hoa, chỉ nhỏ bé khiêm nhường vậy thôi nhưng đáng quý, đáng trân trọng biết nhường nào. - Phân tích lẽ sống cao đẹp của nhà thơ qua đoạn: “Một mùa xuân.....tóc bạc” Đoạn thơ gieo vào lòng người đọc những cảm xúc trong trẻo, ngọt ngào “Một mùa xuân nho nhỏ” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho những dâng hiến của tác giả với cuộc đời, ấy là cái đẹp, là niềm vui, tài năng mà Thanh Hải muốn góp phần tô điểm cho mùa xuân đất nước. Sự dâng hiến của ông là tự nguyện, khiêm nhường “lặng lẽ” và hết mình “tuổi đôi mươi” hay ”khi tóc bạc”. Lẽ sống cao cả ấy của Thanh Hải đã làm nên triết lí sống cao đẹp. Kết bài: Khái quát chung Tóm lại, với thể thơ 5 chữ, nhịp thơ tha thiết sâu lắng, hình ảnh thơ đẹp giàu ý nghĩa, ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu. Đoạn thơ đã đem đến cho người đọc một bản tình ca yêu đời, một lẽ sống cao đẹp của nhà thơ sông Hương núi Ngự. Đây cũng là đoạn thơ đặc sắc kết tinh vẻ đẹp của cả bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Thanh Hải: nồng nàn, dịu ngọt, thiết tha và sâu lắng. 15 c. Dạng bài nghị luận về một khía cạnh của bài thơ, đoạn thơ: - Đề nghị luận có thể tập trung ở một phương diện, một khía cạnh cụ thể về nội dung hay nghệ thuậtcủa bài thơ, đoạn thơ. Ví dụ với bài “Bếp lửa” của Bằng Việt đề có thể yêu cầu học sinh trình bày cảm nhận về hình ảnh người bà và tình bà cháu (nội dung), hoặc phân tích ý nghĩa của hình tượng bếp lửa (nghệ thuật). Hay với bài “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đề có thể yêu cầu cảm nhận về hình tượng người lính (nội dung), hay bàn về bút pháp hiện thực, lãng mạn (nghệ thuật). - Khi làm kiểu bài này, cần xác định trọng tâm nghị luận (tức khía cạnh cụ thể mà đề yêu cầu). Tuy nhiên cần tránh tình trạng tách rời hoàn toàn nội dung và nghệ thuật trong quá trình phân tích, cảm nhận. Khi gặp đề bài có yêu cầu thiên về khai thác phương diện nội dung cần đánh giá được các yếu tố nghệ thuật thể hiện nội dung đó. Trái lại gặp đề bài có yêu cầu thiên về khai thác phương diện nghệ thuật cần rút ra nội dung thể hiện. Ví dụ 1: Phân tích nét nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong việc miêu tả chân dung nhân vật qua đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” (Trích “Truyện Kiều”) Cách làm: Đây là đề yêu cầu nghị luận về khía cạnh nghệ thuật của đoạn thơ. Đối với đề này, bài làm cần đáp ứng một số yêu cầu sau: Mở bài: Giới thiệu khái quát về Nguyễn Du Trên thi đàn văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Du là thiên tài văn học. Đặc biệt là ngòi bút miêu tả chân dung nhân vật.Với đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” (Trích “Truyện Kiều”) ta sẽ thấy rõ nét đặc sắc ấy. Thân bài: Phân tích nét đặc sắc trong việc miêu tả chân dung nhân vật trong đoạn trích - Tác giả đi theo bút pháp lí tưởng hoá, ước lệ tượng trưng (lấy chuẩn mực vẻ đẹp của thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp của con người) - Dẫn chứng - Dùng bút pháp cổ điển truyền thống, tác giả đi theo trình tự từ khái quát đến cụ thể: đầu tiên tác giả miêu tả vẻ đẹp chung của hai chị em Thuý Kiều sau đó miêu tả vẻ đẹp riêng của từng người. - Dùng nghệ thuật đòn bẩy, họa mây lẫy trăng: Miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân trước làm nền rồi tập trung miêu tả làm nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều. - Cái tài của Nguyễn Du còn thông qua việc miêu tả chân dung nhân vật để ngầm dự báo cho cuộc đời, số phận của nhân vật sau này. Vẻ đẹp của Thuý Vân phúc hậu đoan trang dự báo một cuộc sống bình lặng êm ả, suôn sẻ.Còn vẻ đẹp của Thuý Kiều là vẻ đẹp sắc sảo mặn mà, có chiều sâu nội tâm ngầm dự báo một cuộc đời truân chuyên, trắc trở đầy đau khổ của nàng sau này. - Nguyễn Du còn có cái tài trong việc chọn lọc chi tiết để lột tả cái thần thái của nhân vật. Khi miêu tả nhân vật Thuý Vân tác giả miêu tả cụ thể khuôn mặt, lời nói, làn da, mái tóc. Còn khi miêu tả Kiều lại theo bút pháp chấm phá điểm nhãn, 16 tập trung vào cái thần thái, cái hồn của vẻ đẹp qua đôi mắt, đôi mày “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn” tác giả chú ý lột tả chiều sâu nội tâm nhân vật để làm rõ nét tính cách nhân vật: con người có trí tuệ thiên bẩm với tâm hồn đa sầu đa cảm. Kết bài: Đánh giá chung Đây là đoạn thơ đặc sắc tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật của Nguyễn Du đáng để cho chúng ta trân trọng và học tập. Ví dụ 2: Từ bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, hãy viết về những suy tư của người lính sau chiến tranh. Cách làm: Với đề này yêu cầu học sinh chủ yếu nghị luận về phương diện nội dung (Nhân vật trữ tình trong thơ- người lính sau chiến tranh). Vì vậy bài làm cần làm rõ được các nội dung sau: Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm hoặc giới thiệu về hình ảnh người lính sau chiến tranh. Thân bài: Phân tích những suy tư của người lính sau chiến tranh: - Trong quá khứ (thời tuổi thơ và những năm tháng chiến tranh ở rừng) con người sống gắn bó, giao hoà, thuỷ chung với thiên nhiên đồng, sông, bể, rừng (biểu tượng cho hình ảnh đất nước bình dị, hiền hậu) tiêu biểu là ánh trăng. Trăng và người trở thành tri kỉ tưởng như không bao giờ có thể quên được. - Khi chiến tranh kết thúc, người lính trở về bị hấp dẫn bởi cuộc sống hiện đại đầy đủ nơi đô thị mà thờ ơ, vô tình với những ngày gian khổ cùng đồng chí đồng đội-> trăng trở thành người dưng qua đường. - Trong hoàn cảnh bất ngờ, ánh sáng nhân tạo vụt tắt, bóng tối bao trùm, vầng trăng xuất hiện khiến con người ngỡ ngàng. Trước người bạn vô tình ấy, trăng chẳng nói chẳng trách, khiến người lính cảm thấy có cái gì rưng rưng - Ánh trăng trước sau vẫn vậy: mộc mạc, giản dị và thuỷ chung, tình nghĩa. Trăng vẫn lặng lẽ tròn đầy một cách trong sáng vô tư mặc cho thời gian trôi, mặc cho bầu bạn xưa ai đó quay lưng. Nhưng trăng cũng nghiêm khắc nhắc nhở, khơi gợi niềm xúc động, đánh thức lương tâm để con người nhận ra sự vô tình vô nghĩa của mình. Kết bài : Đánh giá chung Với giọng điệu tâm tình, tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm. Bài thơ là lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước bình dị, hiền hậu. Qua đó gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ d. Dạng nghị luận tổng hợp về thơ: Khác với dạng đề yêu cầu nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cụ thể, dạng đề tổng hợp về thơ thường có phạm vi rộng, bao quát hơn (thường liên quan đến 2 đoạn, 2 bài thơ trở lên). Một trong những cơ sở để hình thành một đề bài tổng hợp về thơ là những nét tương đồng đó. Học sinh cần phát hiện ra được cả những điểm 17 khác biệt- yếu tố tạo nên nét riêng, sự độc đáo, hấp dẫn. Chính vì thế nghị luận tổng hợp về thơ thường đặt ra yêu cầu đối chiếu, so sánh…để hướng tới mục đích tìm ra cả nét tương đồng lẫn khác biệt. Khi làm bài cần tránh tình trạng phân tích, cảm nhận riêng lẻ, tách rời đoạn, bài hay đối tượng nghị luận: chẳng hạn đề yêu cầu viết một bài văn với nhan đề “Tình yêu Tổ quốc qua các bài thơ hiện đại đã học ở SGK Ngữ văn 9- tập I”, nhiều học sinh chỉ phân tích lần lượt tình yêu Tổ quốc qua từng bài thơ mà quên thao tác tổng hợp, đánh giá cần thiết. Với đề bài này, học sinh vẫn có thể chọn cách viết như trên (chỉ tìm hiểu tình yêu Tổ quốc qua từng tác phẩm) nhưng sau đó cần rút ra những nét chung, nét riêng (kể cả trong nghệ thuật biểu hiện). Ví dụ: Vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ qua hai bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Cách làm: Đề bài này có phạm vi yêu cầu tương đối tự do: có thể phân tích, chứng minh, bình luận, phát biểu cảm nghĩ về vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ qua hai bài thơ. - Về trình tự làm: có thể phân tích từng bài thơ hay kết hợp phân tích cả hai bài, song phải thể hiện được năng lực phân tích tác phẩm văn học tổng hợp, đánh giá. - Về nội dung: Cần làm rõ, thấy được những điểm giống nhau và khác nhau của hình tượng người lính trong hai bài thơ thuộc hai thời kì khác nhau. + Giống nhau: Những người lính trong hai bài thơ đều có chung những phẩm chất tốt đẹp như lí tưởng cao đẹp vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, có tình cảm đồng chí cao đẹp, có tinh thần dũng cảm kiên cường… + Khác nhau: Những người lính thuộc hai thế hệ khác nhau, ở hai thời kì khác nhau (thời chống Pháp và thời chống Mĩ), tính cách, phẩm chất có nét khác nhau, trong môi trường chiến đấu khác nhau. Anh bộ đội trong bài thơ “Đồng chí”, họ là những người lính xuất thân từ nông dân bình dị, mộc mạc. Cuộc sống trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp còn thiếu thốn gian khổ. Nét nổi bật ở những người lính này đó là tình đồng đội, đồng chí của những con người cùng chung cảnh ngộ, cùng chung lí tưởng chiến đấu, là tình thương của những con người tri âm tri kỉ. Anh bộ đội trong bài “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là những người lính tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ có học vấn, có bản lĩnh chiến đấu, có đời sống tình cảm tâm hồn, khí phách, khí thế mới mang tính thời đại. Họ trẻ trung, sôi nổi hơn và được đặt trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt hơn. - Đánh giá: + Từ buổi đầu kháng chiến chống Pháp đến cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ đã liên tục phát triển lên một tầm cao mới, rõ nhất là ở tư thế ung dung, hiên ngang của họ. 18 + Hai bài thơ, trong hai giai đoạn văn học nhưng đều đã hoàn thành xuát sắc sứ mạng của thi ca sau Cách mạng tháng Tám là thể hiện nhân vật trung tâm của thời đại một cách cao đẹp – Anh bộ đội cụ Hồ. Đó là những người lính cùng chiến đấu cho hoà bình, độc lập tự do của Tổ quốc. Đặc biệt họ đều là những con người giàu lòng yêu nước, yêu quê hương, có tình đồng chí đồng đội sâu nặng, bền vững. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Trên đây là những biện pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong năm học 2016 - 2017, 2017- 2018 để hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Sau khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, chất lượng làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ của học sinh lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã nâng cao rõ rệt. Giờ đây tình trạng học sinh làm một bài nghị luận về một đoạn thơ hay bài thơ chỉ có nửa trang giấy hoặc chỉ viết có một đoạn văn không còn nữa. Bây giờ mỗi khi gặp dạng đề này các em không còn phải lúng túng, băn khoăn lo lắng vì không biết làm như thế nào, bắt đầu từ đâu. Đa số các em đã biết cách vận dụng những kiến thức đã học trong phần văn bản thơ vào làm bài, đồng thời biết phân tích, bình giảng, đưa ra những nhận xét, đánh giá, cảm nhận của mình về giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ đó. Cũng nhờ áp dụng đề tài này mà trong năm học 2016- 2017 chất lượng bài kiểm tra, bài thi học kì, và thi vào THPT môn văn của lớp tôi giảng dạy đạt kết quả cao hơn so với trước khi áp dụng đề tài này. Kết quả cụ thể của bài viết số 7 tiết 134 - 135 năm học 2017 – 2018 như sau : Giỏi Khá TB Yếu Kém Lớp Sĩ Số SL % SL % SL % SL % SL % 9A 38 8 21.0 12 31.5 16 42.1 2 5.2 0 0 9B 35 5 14.2 10 28.5 18 51.4 2 5.7 0 0 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan