Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ...

Tài liệu Quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ

.PDF
100
22
130

Mô tả:

Th.s PHẠM TUẤN ANH (Chủ biên) TS. VŨ TRỌNG HÁCH,Th.S PHÙNG VĂN HIỂN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ sà Hữụ /r A Th.s PHẠM TUÁN ANH (Chù biên) TS. VŨ TRỌNG HÁCH, Th.s PHÙNG VĂN HIÈN QUAN LY NHA Nươc VÈ SỞ HỮU TRÍ TUỆ ■ ệỊt tX7 NHÀ XUÁT BẢN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT HÀ N Ộ I - 2 0 1 1 -Á .V I - i * ; .- .: - ! '! LỜI NÓI ĐÀU Sở hữu trí tuệ đã và sẽ luôn luôn là nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển của một nước bởi vì kinh nghiệm của các nước đã trải qua giai đoạn công nghiệp cho thấy nếu tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ lên 10% thì đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng 50% và các công nghệ cao sẽ tăng trưởng 40%. ở các nước phát triển, sở hữu trí tuệ đã phát triển vài trăm năm nay. Ở Việt Nam Luật Sở hữu trí tuệ ra đời năm 2005 - một văn bàn quy phạm pháp luật quan trọng nhất, đặt cơ sở pháp lý để tiến hành việc quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ trong giai đoạn thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ năm 2005 đến này nhiều bộ luật, luật và nghị định Chính phủ về thực thi quyền sở hữu trí tuệ đã được ban hành. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhận thức cùa công chúng về sở hữu trí tuệ và trong các doanh nghiệp còn hạn chế. Nhiều người còn chưa hiểu sở hữu trí tuệ là gì, ngay cả ở các cán bộ thực thi quyền; hệ thống pháp luật của Việt Nam về sở hữu trí tuệ còn tản mạn, chồng chéo ở nhiều văn bản, thiếu sự thống nhất đồng bộ, cho nên khó áp dụng; mức phạt các vi phạm sở hữu trí tuệ còn nhẹ, thiếu khả năng răn đe và thực thi; hệ thống các cơ quan thực thi còn yếu, nhất là tòa án xét xử chưa nhiều các vụ án liên quan sở hữu trí tuệ. Tài liệu được xuất bản này là một cố gắng nhằm đưa ra những kiến thức cơ bản nhất về sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam nhằm khắc phục những điểm yếu và thách thức trên. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song cuốn sách này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định và nhóm tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu nhàm hoàn thiện hơn ở lần xuất bản sau. Xin chân thành cám ơn. Nhóm tác giả 3 CHƯƠNG Ị GIỚI THIỆU VÈ SỞ HỮU TRÍ TUỆ , Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ xuất phát từ hai vai trò nổi bật của lác đối tượng sở hữu trí tuệ: đó là việc nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật rên thế giới và việc định hướng phát triển khoa học - công nghệ của các [Uốc gia. Ỉ v ề vai trò thứ nhất, chúng ta thấy các đối tượng sở hữu công nghiệp 'đang được bảo hộ kế thừa những thành quà lao động sáng tạo của nhiều thế hệ đi trước. Vai trò thứ hai của các đổi tượng sở hữu công nẹhiệp mà hiện nay chúng ta ít để ý đến là vai trò thông tin và định hướng đầu tư. Khi nộp đơn yêu cầu bảo hộ một đối tượng sở hữu công nghiệp là sáng chế hay giải pháp hữu ích, chủ thể nộp đơn phải bộc lộ đầy đủ cách thức tạo ra sáng chế trong bản mô tả (description) và thông báo cho các chủ thể khác biết về sáng chế cùa mình trên công báo sở hữu công nghiệp thông qua bản tóm tắt (abstract) và các yêu cầu bảo hộ (claim). Vì thế, cơ quan sở hữu công nghiệp cũng là nơi lưu giữ những thông tin vô giá về trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay 'trên thế giới. Không phải mọi thứ “trí tuệ” đều được bảo hộ dưới dạng quyền sở hừu trí tuệ. Ngược lại không phải mọi quyên sở hữu trí tuệ đêu là sản phâm của trí tuệ. Mặc dù không có định nghĩa chính thống và trực tiếp thế nào là sở hữu trí tuệ, ta có thể khái quát quyển sở hữu trí tuệ là tập hợp các quyển đối với tài sàn vô hình là thành quà lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh cùa cúc chủ thê, được pháp luật quy định bảo hộ. 1. Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 1.1. Khái niệm về quyền sở hữu tri tuệ Tài sàn trí tuệ là các sản phẩm sáng tạo trí tuệ, bao gồm Quyền tác giả và các quyền khác có liên quan. Sáng chế, Kiểu dáng công nghiệp, Nhãn hiệu, Tên thương mại, Chỉ dẫn địa lý, Giống cây trồng, Thiết kế bố trí mạch 5 tích họp bán dẫn, Bí mật kinh doanh (bí quyết sản xuất và bí mật thươn mại). Quyển sở hữu trí tuệ: Theo nghĩa rộng, Quyền sở hữu trí tuệ là cá quyền hợp pháp đối với tài sản trí tuệ. Các nước có luật pháp bảo hộ sở hừi trí tuệ vì hai lý do chính: - Thứ nhất, là đưa ra khái niệm luật định về quyền nhân thân và quyềi về tài sản của người sáng tạo trong hoạt động sáng tạo của họ và các quyềi của công chúng được tiếp cận những sáng tạo đó. - Thứ hai, là để thúc đẩy hoạt động sáng tạo, như biện pháp có chi đích trong chính sách của Chính phủ và phổ biến cũng như áp dụng các ke quả của hoạt động sáng tạo nhằm khuyển khích kinh doanh lành mạnh gó] phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo Luật Sở hữu trí tuệ ngày 29/11/2005 "Quyền sở hữu trí tuệ li quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả Ví quyền có liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyềi đối với giống cây trồng". Như vậy theo Luật Sở hữu trí tuệ, Quyền sở hữu trí tuệ được chií thành ba nhóm chính đó là: Quyền sở hữu công nghiệp, Quyền tác giả Ví quyền có liên quan và Quyền đối với giống cây trồng. 1.2. Quyền sở hữu công nghiệp Quyền sờ hữu công nghiệp (SHCN) là quyền của tồ chức, cá nhân đố với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn nhãn hiệu, tên thương mại, chi dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sánị tạo ra hoặc sở hữu; và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Bảo hộ sáng chế: sáng chế được bảo hộ dưới hình thức bàr.g độc quyền sáng chế nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: có tính mới, có tnnh độ sáng tạo, có khả năng áp dụng công nghiệp. Các đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế: - Phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học; - Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạ' động trí óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh, chương trìm máy tính; - Cách thức thể hiện thông tin; - Giải pháp chi mang đặc tính thẩm mỹ; 6 - Giông thực vật, giông động vật; - Quy trinh sản xuất thực vật, động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà íhông phải là quy trình vi sinh; - 0hương pháp phòng ngừa, chẩn doán và chữa bệnh cho người và động vậ. Bing độc quyền sáng chế là một văn bàng do cơ quan nhà nước có tham quyền (hoặc một cơ quan khu vực nhân danh một số quốc gia) cấp dựa trên cơ 5Ở một đơn yêu cầu bảo hộ. trong đó mô tả một sáng chế và thiết lập một điềi kiện pháp lý mà theo đó sáng chế đã được cấp. Bằng độc quyền chỉ có thê cược khai thác một cách bình thường (sản xuất, sử dụng, bán, nhập khẩu) với sự cho phép của chủ sờ hữu bàng độc quyền sáng chế. Đẳ đáp ứng được tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế, sáng chế phải thuộc đối tượng hìo hộ sáng chế. Đối tượng được bảo hộ sáng chế và không được bảo hộ sáng chế do luật pháp quy định và thường được định nghĩa bằng những ngoại lệ của việc bảo hộ sáng chế. nguyên tắc chung là việc bảo hộ sáng chế được dàih cho các sáng chế ở mọi lĩnh vực công nghiệp. Kiêu dáng công nghiệp: Theo nghĩa rộng, kiểu dáng công nghiệp đề cập đến nhũng hoạt động sáng tạo nhàm tạo ra một hình dáng, trang trí bên ìmoài CIO những hàng hóa được sản xuất hàng loạt, trong phạm vi giá cả có thể chấp nhận được song vẫn thỏa mãn điều kiện là mặt hàng đó phải hấp dẫn người tiêu dùng về thị giác và phải thể hiện một cách hiệu quả chức năng k< thuật đã định trước, về mặt pháp lý, kiểu dáng công nghiệp đề cập đến các quyền được nhiều nước công nhận, tuân theo một hệ thống đăng ký kiểu déng nhằm bảo vệ những đặc điểm trang trí nguyên mẫu và không mang chức năng kỹ thuật của một sản phẩm công nghiệp hoặc sản phẩm xuất phát từ hoạt động thiết kế kiểu dáng. Đối tượng của bảo hộ pháp lý kiểu dáng công nghiệp không phải là vật phẩm hay sản phẩm mà là kiểu dáng được ứng dụng hoặc được thể hiện trcn nhìng vật phẩm hay sản phẩm đó. Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp không áp dụng trực tiếp với những vật phẩm hoặc sản phẩm mà dành cho chủ sở hữu quyền độc quyền về kiểu dáng còng nghiệp, quyền khai thác thương mại những sản phẩm hay những vật phàm này. Hơn thế, bảo hộ kiếu dáng công nghiệp chỉ áp dụng với những vật phâm khi nó thể hiện hoặc tái tạo những kiểu dáng công nghiệp đã đưọc bảo hộ. Vì thế sự bảo hộ không càn trở những nhà sản xuất khác sản xuảt hoặc buôn bán những sản phẩm tương tự với cùng một chức năng kỳ thuát, miên là sản phâm đó không thê hiện hoặc tái tạo lại những kiêu dáng còng nghiệp đã được bảo hộ. Quyền hưởng sự bảo hộ pháp lý đổi với một kiểu dáng công nghii thuộc về người sáng tạo (hoặc tác giả hay người khởi đầu) của kiểu dái công nghiệp đó. Có hai vấn đề liên quan tới việc hoạt động của nguyên t này nảy sinh và thường là đổi tượng của những quy định pháp luật cụ thể. Trước hết, đó là vấn đề về quyền hưởng sự bảo hộ pháp lý đối V kiểu dáng công nghiệp do một người làm công hoặc một chủ thầu tạo theo nhiệm vụ. Trong trường hợp này, thông thường pháp luật quy địi quyền được bảo hộ pháp lý kiểu dáng công nghiệp đó thuộc về người cỉ hay thuộc về người yêu cầu thực hiện kiểu dáng công nghiệp, v ấn đề tì hai trong trường hợp này là việc sáng tạo kiểu dáng công nghiệp thuộc phạ vi nhiệm vụ mà người làm công đã được trả tiền để thực hiện, do đó ngư làm công nên tìm kiếm phần thưởng cho hoạt động sáng tạo với mức tl lao, trách nhiệm hợp lý và những điều kiện khác trong công việc. Tương như vậy đối với nạười chủ thầu, người chủ thầu trả tiền sáng tạo ra ki( dáng để sử dụng kiểu dáng do nguời thuê đó sáng tạo ra. Bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp là một lĩnh vực khác trong bảo \ sở hữu trí tuệ. “Mạch tích hợp” là một sản phẩm, dưới dạng thành phẩm hoặc bí thành phẩm, trong đó các phần từ - với ít nhất một phần tử tích cực và m số hoặc tất cả các mối liên kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm V liệu bán dẫn và nhàm thực hiện chức năng điện tử. “Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn” là cấu trúc không gian [ chiều cùa các phần tử mạch và các mối liên kết các phần từ trong mạch tú hợp bán dẫn. Theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 của Việt Nam: Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bÉ thành phẩm, trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một s hoặc tất cả các mối liên kết được gán liền bên trong hoặc bên trên tấm V liệu bán dẫn nhàm thực hiện chức nâng điện tử. Mạch tích hợp đồng ngh với IC, chip và mạch vi điện từ. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (thiết kế bố trí) là cấu trí không gian của các phần từ mạch và mối Hên kết các phần tử đó trong mạc tích hợp bán dẫn. Thiết kế bố trí mạch tích hạp là những sáng tạo cửa trí óc con ngưò Chúng thường là kết quả của một sự đầu tư lớn, cả về mặt thời gian nghiê cứu của các chuyên gia trình độ cao cũng như về mặt tài chính. Yêu cầu V sảng tạo những thiết kế bố trí mới để giảm kích thước của những mạch tíc lợp hiện hành và đồng thời nâng cao chức năng của chúng vẫn rất cần thiết. Vlạch tích hợp càng nhỏ thì càng cần ít nguyên liệu sản xuất và không gian :hứa chúng cũng sẽ nhỏ hơn. Mạch tích hợp được sử dụng trong rất nhiều oại san phẩm, bao gom những sàn phẩm dùng trong đời sống hàng ngày ìhư đồng hồ, máy thu hình, máy giặt, ô tô... cũrm như các thiết bị xử lý dữ iệu tinh vi khác. Bào hộ chổng cạnh tranh không lành mạnh: Gần một thế kỷ qua. bào lộ chống cạnh tranh không lành mạnh đã được thừa nhận là bộ phận cấu hành của bảo hộ sở hữu công nghiệp. Vào năm 1990, tại Hội nghị ngoại ịiao Brussel về sửa đổi Công ước Paris về Báo hộ sở hữu công nghiệp, lần ỉầu tiên sự thừa nhận này ghi nhận bằng việc bồ sung Điều 10 bis vào Công lớc. Bất cứ hành động cạnh tranh nào trái với thông lệ trung thực trong ĩnh vực công nehiệp hoặc thươntí mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh chông lành mạnh. Báo hộ chống cạnh tranh khôrm lành mạnh bổ sung một cách hữu hiệu :ho việc bảo hộ các quyền sở hĩru công nghiệp như các sáng chế và nhãn liệu hàng hóa đã đăng ký. trong trường họp một sáng chế hay một dấu hiệu chông được bảo hộ bởi một quyền như vậy. 1.3. Quyển tác giả và các quyển có Hên quan Quyển tác giá là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình iáng tạo ra hoặc sờ hữu. Quyển liên quan đến quyển túc giả (sau dây gọi là quyền liên quan) là Ịuyên của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, :hương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Luật Ọuyền tác giả là một nhánh của pháp luật đề cập đến quyền cùa Ìgười sáng tạo trí tuệ. Luật Quyền tác giả đồ cập đến các hình thức sáng tạo iặc biệt, chú yếu liên quan tới truyền thông đại chúng. Luật Quyền tác giả :ũng liên quan đến hầu hết các hình thức và phương pháp truyền đạt tới :ông chúng, không chỉ đổi với việc xuất bản mà còn cả với các lĩnh vực như )hát thanh và truyền hình, chiếu phim tại rạp... và thậm chí cả hệ thống sử iụng máy tính để lưu trữ và truy cập thông tin. Luật Quyền tác giả quản lý các quyền của người sáng tạo trí tuệ với :ác sản phấm sáng tạo của họ. Hầu hết các tác phẩm như sách, bức tranh, )ản vẽ chỉ tồn tại một khi các tác phấm này được thể hiện dưới một dạng vật :hất nhất định. Nhưng tuy vậy cũng có những tác phẩm lại tồn tại mà không hể hiện dưới dạng vật chất nào. Chẳng hạn thơ hoặc nhạc là những tác 9 phẩm ngay cả khi nó chưa được viết ra hoặc trước khi được ghi lại bằng cá nốt nhạc hoặc từ ngữ. Tuy nhiên, Luật Quyền tác giả chỉ bào hộ hình thức thể hiện ý tườn chứ không bảo hộ chính các ý tưởng đó. Sáng tạo được bảo hộ theo Luệ Quyền tác giả là sự sáng tạo trong việc lựa chọn và sấp xếp các từ ngừ, nc nhạc, mầu sắc và hình khối... Luật Quyền tác giả bảo hộ chủ sờ hữu cá quyền với những tác phẩm nghệ thuật nhàm chống lại những người “sai chép”, đó là những người lấy và sử dụng hình thức của các tác phâm nguyêi gốc đã được tác giả thể hiện. Bảo hộ quyền tác giả là một công cụ hữu hiệu nhất nham khuyei khích, làm giàu và phổ biến di sản văn hóa quốc gia. Sự phát triển của mộ đất nước phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động sáng tạo của người dân và việ khuyến khích sáng tạo cá nhân, phổ biển các sáng tạo đó là điều kiện thiể yếu đối với quá trình phát triển. Luật pháp có thể quy định sự bảo hộ không chi cho những người sáriỊ tạo các tác phẩm trí tuệ mà còn cho cả quyền lợi cùa những người hỗ tr< khác, những người giúp phổ biến các tác phẩm đó. Việc bảo hộ những ngưò hồ trợ cho người sáng tạo trí tuệ ở các nước đang phát triển cũng quan trọnị vì thành tựu văn hóa của những nước này bao gồm, không chỉ trên phạm V nhỏ, các buổi biểu diễn, các chương trình ghi âm, việc phát thanh truyềi hình các tác phẩm dân gian. Neu các nước đang phát triến thường có nhi cầu về sách báo nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học kĩ thucật giáo dục và nghiên cứu, thì ngược lại các nước này có thể phố biến di sải văn hóa dân tộc phong phú của mình tới thế giới, những di sản được bảo h< trong khuôn khổ pháp luật về Quyền Tác giả thông qua sự bảo hộ quyền cù; những người hồ trợ hay còn được gọi là các quyền liên quan (quyền kề cận) Bước đầu tiên là thông qua luật. Giá trị thực tiễn của pháp luật phi thuộc vào hiệu lực và sự áp dụng hiệu quả luật pháp đó. Có thế đạt điều nà) bang cách thiết lập các tổ chức của tác giả để thu và phân bo lệ phí tác già Quyền Tác giả, nếu được thực thi một cánh hiệu quả. sẽ là sự khích lệ đố với các tác giả và những người được chuyển nhượng (các nhà xuất bàn) đí sáng tạo và phố biến kiến thức. Xã hội cần phài chấp nhận điều dó nối muốn khuvến khích sáng tạo trí tuệ. đám bảo cho sự phát triển cua khoí học, nghệ thuật và kiến thức nói chung, để thúc đấy nền công nghiệp si dụng tác phẩm của các tác giả và để có thể phân phối tác phấm tới nhón người có liên quan một cách rộng rãi nhất. Theo quan điểm của người sáng tạo tác phẩm thì bảo hộ quyền tác gií chỉ có ý nghĩa nếu người sáng tạo thực sự được hưởng lợi từ tác phẩm đó vè 10 điều này không thể xảy ra nếu khôrm có việc công bố, phổ biến tác phâm và tạo điêu kiện thuận lợi cho việc phổ hiến dó. Đây là vai trò cơ bản cùa Luật Quyền tác giả tại các nước đang phát triển. Vai trò của Chính phù trong hoạt động này có thê gồm cà trợ giúp về mặt tài chính trong việc sáng tạo và xuất bàn sách giáo khoa và các tài liệu giáo dục khác, đầu vào cho giáo dục đào tạo, cũng như giúp đỡ phát triển hệ thống thư viện, thư viện lưu động dể phục vụ các khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa... Vì vậy, trong toàn hộ dây chuyền này. những mối liên hệ khác nhau, dó là sáng tác của tác giả, xuất hàn. phân phối và nâng cao hệ thống thư viện trên quy mô không thè bị xem nhẹ mà cần phải được thúc đẩy và phổi hợp tiến hành. 1.4. Quyền đổi với giống cây trồng Quyển đối với giong cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Việc sẵn có các giống cây được cải tiến và giống cây mới cho người trồng cây là cực kỳ quan trọng dối với ngành công nghiệp, nông nghiệp và công nghiệp làm vườn cùa tất cà các nước. Khả năng kháng bệnh của cây cối, sản lượng cao hơn và các cài tiến trong rất nhiều đặc trưng khác của cây trồng có thể tác động mạnh đến tính kinh tế của sản xuất mùa vụ và khả năng chấp nhận cùa nó đối với những người tiêu dùng cuối cùng. Tốc độ phát triển của những sự kiện trong nông nghiệp và làm vườn quốc tế ngày nay đã đến mức các giống được cải tiến phải sẵn có cho người trồng cây vào thời điểm sớm nhất có thể nếu sự cạnh tranh của chúng được bảo đảm. Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng là tổ chức, cá nhân chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển giống cây trồng hoặc đầu tư cho công tác chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển giống cây trồng hoặc được chuyển giao quyền đối với giống cây trồng. Các đối tượng nêu trên bao gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức cá nhân nước ngoài thuộc nước ký kết với CHXHCN Việt Nam thỏa thuận về bào hộ giống cây trồng; tổ chức, cá nhân nước ngoài có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam. Giống cây trồng được bảo hộ là giống cây trồng được chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển, thuộc danh mục loài cây trồng được Nhà nước bảo hộ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành, có tính mới, tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định và có tên phù hợp. 11 - Tính mới cùa giống cây trồng: Giống cây trồng được coi là có tín mới nếu vật liệu nhân giống hoặc sản phẩm thu hoạch cùa giống cây trần đó chưa được người có quyền đăng ký hoặc người được phép của người d bán hoặc phân phổi bàng cách khác nham mục đích khai thác giống câ trồng trcn lãnh thổ Việt Nam trước ngày nộp đơn đăng ký một năm hoệ ngoài lãnh thổ Việt Nam trước ngày nộp đơn đăng ký sáu năm đối với giôn cây trồng thuộc loài thân gỗ và cây nho, bốn năm đối với giống cây tron khác. - Tính khác biệt của giống cây trồng: + Giống cây trồng được coi là có tính khác biệt nếu có khả năng phâ biệt rõ ràng với các giống cây trồng khác được biết đến rộng rãi tại th( điểm nộp đơn hoặc ngày ưu tiên nếu đơn được hướng quyền ưu tiên. + Giống cây trồng được biết đến rộng rãi là giống cây trồng thuộc m( trong các trường hợp sau đây: * Giống cây trồng mà vật liệu nhân giống hoặc sản phẩm thu hoạc cùa giống đó đã được sử dụng một cách rộng rãi trên thị trường ở bất k quốc gia nào tại thời điểm nộp đơn đăng ký bảo hộ; * Giống cây trồng đã được bảo hộ hoặc được đăng ký vào Danh mụ loài cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào; * Giống cây trồng là đối tượng trong đơn đăng ký bảo hộ hoặc đưọ đăng ký vào Danh mục loài cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào, nếu các đơ này không bị từ chổi; * Giống cây trồng mà bản mô tả chi tiết cùa giống đó đã được côn bổ. - Tính đồng nhất của giống cây trồng: Giong cây trong được coi là c tính đồng nhất nếu có sụ biểu hiện như nhau về các tính trạng liên quan, tr những sai lệch trong phạm vi cho phép đối với một số tính trạng cụ th trong quá trình nhân giống. - Tính ổn định cùa giống cây trồng: Giống cây trồng được coi là c tính ổn định nếu các tính trạng liên quan cùa giống cây trồng đó vẫn gi được các biểu hiện như mô tả ban đầu, không bị thay đổi sau mỗi vụ nhâ giống hoặc sau mỗi chu kỳ nhân giống trong trường hợp nhân giống thc chu kỳ. - Tên cùa giống cây trồng 1. Người đăng ký phải đề xuất một tên phù hợp cho giống cây tron với cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng, íên đó phỉ 12 trùng với tcn dã đăng ký bảo hộ ở bất kỳ quốc gia nào có ký kết với Cộng hòa xã hội chù nghĩa Việt Nam thỏa thuận về bảo hộ giống cây trồng. 2. Tên cúa giống cây trồng được coi là phù hợp nếu tên đó có khả năng dề dàng phàn biệt được với tên của các giong cây trong khác được biết đến rộng rãi trong cùng một loài hoặc loài tương tự. 3. Tên của giống cây trồng không được coi là phù họp trong các trường họp sau a) Chi bao gồm các chữ số, trừ trường hợp chữ số liên quan đến đặc tính hoặc sự hình thành giống đó; b) Vi phạm đạo đức xã hội; c) Dễ gây hiểu nhầm về các đặc trưng, đặc tính của giống đó; d) Dễ gây hiểu nhầm về danh tính của tác giả; đ) Trùng hoặc tương tự đen mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên ihương mại, chỉ dần địa lý đã được bảo hộ trước ngày công bố đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng; e) Ảnh hưởng đến quyền đã có trước của tổ chức, cá nhân khác. 4. Tổ chức, cá nhân chào bán hoặc đưa ra thị trường vật liệu nhân giống của giống cây trồng phải sử dụng tên giống cây trồng như tên đã ghi trong Bằng bảo hộ, kể cả sau khi kết thúc thời hạn bảo hộ. 5. Khi tên giống cây trồng được kết hợp với nhãn hiệu hàng hóa, tên [hương mại hoặc các chỉ dẫn tương tự với tên giống cây trồng đã được đăng icý để chào bán hoặc đưa ra thị trường thì tên đó vẫn phải có khả năng nhận Diết một cách dễ dàng. 2. Tính chất cùa quyền sỏ' hữu trí tuệ v ề bản chất, quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản của chủ thể quyền đối với các thành quả lao động sáng tạo hay uy tín thương mại. Việc đánh giá khả năng bảo hộ SHTT thông qua các tiêu ihuẩn tương đối trừu tượng (trình độ sáng tạo, khả năng gây nhầm lẫn, yếu :ố đặc thù, v.v...). Vì vậy, ở mỗi bước nghiên cứu, chủng ta luôn vấp phải ihững khó khăn về các khái niệm và phải nhận biết nó thông qua áp dụng luật vào từng trường họp cụ thể. Ở các đối tượng sở hữu trí tuệ chúng ta có thể thấy một số điểm mà ở lác hình thức sở hữu khác trước đây không có. Đối với sở hữu thông :hường, chủ sở hữu có đù ba quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và 13 quyền định đoạt. Trong khi đó, quyền sở hữu trí tuệ không quy định gì về quyền chiếm hữu. Điều đó cũng phát sinh từ đặc tính vô hình của cãc đối tượng sở hĩru trí tuệ. Chúng ta không thể nắm bắt, chiếm hĩai được các kiến thức về một giải pháp kỹ thuật (GPKT) hay một kiểu dáng công nghiệp. Chí có một cách duy nhất để chiếm hữu chúng là giữ bí mật kiến thức đó. Một khi kiến thức được công bố, phổ biến thì bất cứ ai cũng có khả năng sử dụng và bất chước theo. Nó trở thành tài sán công cộng. Nếu các kiến thức đó không được pháp luật bảo hộ, thì sẽ dần đến hậu quả là không ai chịu phổ biến các bí quyết mà mình biết, và hậu quả là trình độ khoa học kỹ thuật không phát triển lên được. Làm sao khuyến khích nhà sáng chế chia sè kiến thức của mình cho nhiều người cùng sử dụng, đồng thời vẫn bảo đảm để quyền lợi của nhà sáng chế không bị ảnh hưởng. Đó là do pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ dưới dạng độc quyền. Ở đầy cần đặc biệt lun ý từ "độc quyền". Đó là nội dung mấu chốt của toàn bộ chế định về quyền sở hữu công nghiệp nói riêng và sở hữu trí tuệ nói chung. Chỉ có chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ (hay còn gọi là chủ thể quyền) mới có quyền ứng dụng các kiến thức của mình vào cuộc sống, chi có họ mới có quyền chuyển giao, phổ biến kiến thức của mình, chỉ có họ mới được phép bán những sàn phẩm hình thành từ thành quả lao động sáng tạo của họ. Neu thiếu từ "độc quyền" thì toàn bộ chế định về sở hữu trí tuệ sẽ mất hết ý nghĩa. Những người lao động sáng tạo không cần phải chờ đến khi có luật về sở hữu trí tuệ mới biết cách sử dụng và bán các kiến thức của mình, nhưng nếu không có luật về sở hữu trí tuệ thì bất cứ ai cũng có thể ăn cắp sáng kiến cùa các chù thể quyền và làm giàu trên công sức của những người lao động sáng tạo. Đen một lúc nào đó sẽ không còn ai có ý định sáng tạo để phục vụ xã hội nữa. Bản thân từ "độc quyền" cũng có sức hút rất lớn. Nó khuyến khích mọi người thi đua sáng tạo để được cấp bằng "độc quyền", vì trong kinh doanh, được bảo hộ độc quyền là đã đạt được một ưu thế lớn đối với các đối thủ cạnh tranh của mình. Chính vì vậy, để đánh giá luật sở hữu công nghiệp có đáp ứng được nhu cầu của xã hội hay không chính là ờ chỗ nó có đảm bảo được chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp được độc quyền sử dụng, định đoạt đối tượng mình sở hữu hay không. Mặc dù quyền sờ hữu trí tuệ là một dạng độc quyền, song đây không hẳn là một sự độc quyền mang tính tuyệt đối. Hơn nữa, độc quyền của sở hữu trí tuệ là độc quyền được thực hiện thông qua cơ chế bảo hộ của pháp luật và được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực thi. Cơ chế bảo hộ được thực hiện theo quan điểm: Bảo hộ có mục đích: bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để làm cơ sở thúc đẩy tính năng động sáng tạo cùa các chủ thể sản xuất kinh doanh; 14 - Báo hộ có chọn lọc: Nhà nước dặt ra các tiêu chuẩn bào hộ, dựa trên lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Chi các đối tượng thỏa mãn các tiêu chuẩn do pháp luật ncu ra mới được bào hộ. chứ không phái cứ "thành quả lao động sáng tạo" là được bảo hộ; - Bảo hộ có thời hạn: các quyền tài sàn trong sở hữu trí tuệ chi được bào hộ tối đa trong một thời hạn do pháp luật quy định (chúng ta sẽ xem xét trong các chương sau); và - Báo hộ có điều kiện: việc háo hộ phái được tiến hành đồng bộ với các giải pháp thực thi quyền bảo hộ. Ngoài ra, việc sử dụng quyền sở hữu côrm nghiệp không di ngược lại lợi ích xã hội hay cản trở không chính dáng các chủ thể sản xuất kinh doanh khác. 3.Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ Hiện nay trcn thế giới SHTT ngàv càng được quan tâm nhưng chủ yếu vấn đề quan tâm này lại thường xuyên là những vấn đề gây tranh cãi, những tranh luận trái ngược nhau mà thực ra rất nhiều nội dung về bảo hộ SHTT mà mọi người có thể nhất trí được với nhau. Vai trò sống còn của quyèn SI ITT trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội: - Quyền tác giả và văn hóa Việc bào hộ quyền tác già là quan trọng trong việc đạt được những thành quà văn hóa thì đương nhiên việc ăn cắp những sản phẩm được bảo hộ quyền tác giả - tức là việc sao chép trái phép các sản phẩm văn hóa - là mối nguy hại cho lĩnh vục sáng tác trong xã hội. - Bằng sáng chế và sự đổi mới Khái niệm về Bằng sáng chế dựa trên cơ sở thỏa hiệp có đi, có lại. Nhà sáng chế có độc Cịuyền tối cao trong việc sử dụng sáng chế của mình trong một thời gian nhẩt định. Đế đổi lại, quy định của hầu hết các quốc gia đều yêu cầu nhà sáng chế công bố phương pháp tỉm ra sáng chế cho mọi người có thể hiểu và học hỏi được từ những sáng chế này. Sau khi thời hạn bảo hộ sáng chế hết hạn thì bất cứ ai cũng có thể sử dụng hay bán sáng chế này. Nhà sáng chế được khuyến khích về mặt kinh tế để chấp nhận rủi ro và sáng tạo; xã hội nhận được lợi ích của sáng chế và kiến thức của nhà sáng chế được ứng dụng trong những lĩnh vực khác. Việc bảo hộ chặt chẽ sở hữu trí tuệ không chỉ thúc đẩy sức sáng tạo mà còn tạo ra niềm tin vững chắc vào nền kinh tế đó, đủ để thu hút đầu tư nước ngoài và tăng cường chuyển giao công nghệ. 15 - Nhãn hiệu và bão vệ người tiêu dùng Nhãn hiệu là một từ, cụm từ, ký hiệu, hoặc sự kết hợp các từ, các cụi từ, ký hiệu hay kiểu dáng nhằm xác định và phân biệt nguồn gốc của hàr hóa do một người sản xuất với hàng hóa do người khác sản xuất. Vì vậ qua nhãn hiệu xác định được người sàn xuất ra một mặt hàng và người dùng nhãn hiệu để biết được chất lượng của hàng hóa. Nhãn hiệu cũng giú khách hàng biết địa điểm cung cấp sự trợ giúp khi hàng hóa không đạt ch: lượng. Việc đảm bảo chất lượng và quy kết được trách nhiệm đã hoàn toàn 1 xóa sổ khi những kẻ làm hàng giả dùng nhãn hiệu và đánh lừa khách hàn bàng những sản phẩm do chúng sản xuất. Khi nghT tới hàng giả, nhiều ngư( có thể nghĩ ngay tới đồng hồ Rolex giả, bật lửa Zippo giả hay túi xách Lou Vuitton giả. Việc làm giả những sản phẩm này đã gây ra những tổn thi nghiêm trọng cho các công ty sản xuất hàng xịn và khiến cho chính phủ thi thu thuế. Ngoài ra, việc làm giả nhãn hiệu còn gây ra một hiệu quà nghiêi trọng khác, đó là làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự an toàn của cộng đồng Vai trò cùa Sở hữu trí tuệ đối với thương mại. Với một chính sách bảo hộ hợp lý, Nhà nước sẽ thúc đẩy nhanh cá hoạt động sáng tạo, đối mới kỳ thuật sản xuất, khuyến khích cạnh tranh làn mạnh giữa các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo ra một sản phẩm mới, nghiê cứu được một phương thức sản xuất, giải pháp mới đòi hỏi nhà nghiên cứ phải bỏ ra biết bao nhiêu thời gian, mồ hôi nước mất và tiền của. Song, ne như với những công sức mà mình đã bỏ ra như vậy lại không được tôn trọn và bảo vệ thì liệu các nhà nghiên cứu, sản xuất có còn hứng thú để tiếp tụ lao động nữa hay không? vấn đề bào hộ quyền SHCN hiện nay là vấn d toàn cầu, nhàm bảo đảm nội dung “khai thác độc quyền” sừ dụng của chủ s hữu trong một thời gian nhất định đổ người chù sở hữu thu lời từ các tá phẩm mà mình tạo ra. Việc chủ sở hữu được hưởng quyền lợi từ công trìn nghiên cứu cùa mình nhưng chi trong một khoảng thời gian nhất định d pháp luật quy định nhằm mục đích khuyến khích mọi tổ chức, cá nhâ nghiên cứu, sáng tạo ra và áp dụng nhanh chóng các kỹ thuật tiến bộ, tạo r những sàn phẩm mới đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Đồn thời, việc pháp luật bảo hộ đổi tượng SHCN giống như việc xác lập “ch quyền” để cho không ai có thể xâm phạm được và họ chỉ có thể tiến hàn nghiên cứu, sáng tạo ra những thành quả mới, tránh hiện tượng trùng lặp nhái lại. Nếu như chúng ta không có những biện pháp để tiến hành hoạt độn 16 bảo hộ quyền SHCN một cách có hiệu quả, thì kết quả tất yếu khách quan sẽ xảy ra, đó là tình trạng trì trệ, chán nản, không có hứng thủ trong hoạt động nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện cái mới; hiện tượng “ăn cắp bản quyền”; sao chép bắt chước nhau và nghiêm trọng hơn nữa là việc nghiên cứu trùng lặp, hoặc không công khai các kết quả nghiên cứu mới. Vai trò cùa Sở hữu trí tuệ đối với hoạt động đầu tư cỏ liên quan đến thương mại. Một mục đích của việc bảo hộ quyền SHTT là nhằm khuyến khích các hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và ngược lại. Một môi trường pháp lý lành mạnh nói chung và nói riêng trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu trí tuệ luôn là yếu tố cực kỳ quan trọng, ảnh hường tới quyết định của chủ đầu tư nước ngoài. Nếu một doanh nghiệp ở nước này muốn đưa mặt hàng của họ vào để chiếm lĩnh thị trường một nước khác, họ cần phải có một sự đảm bảo là mặt hàng của họ không bị xâm phạm đến quyền SHTT đối với sản phẩm đó của họ. Còn nếu không có sự bảo đảm này, nghĩa là quyền SHTT của doanh nghiệp này bị xâm phạm, doanh nghiệp thất bại, uy tín giảm sút. Do vậy, doanh nghiệp đương nhiên cần lường trước khả năng này. Trong quá trình hội nhập toàn cầu như hiện nay, việc bảo hộ quyền SHTT lại càng đóng vai trò quan trọng. Ví dụ như ở Việt Nam, các công ty nước ngoài từ khi bắt đầu buớc chân vào hoạt động kinh tế ở Việt Nam, họ đều nhanh chóng tìm cách đăng ký bảo hộ các đối tượng SHTT của mình nhằm mục đích “độc quyền khai thác” và đảm bảo không ai được bắt chước hay “ăn cắp” các đối tượng SHTT đã được bảo hộ đó của họ. Họ cho rằng, đó là một đảm bào cho việc đầu tư có hiệu quả. Trong những năm vừa qua, iặc biệt là sau đại hội Đảng VI (1986), Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra một :hính sách phát triển kinh tế mới với một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa (Điều 15 Hiến pháp 1992). Từ đó đến nay số lượng đơn xin đăng ký bảo hộ quyền SHCN tại Việt Nam của người nước ngoài ngày :àng tăng và có chiều hướng tăng nhanh. Ví dụ: trong vòng 8 năm (từ 1981 - 1988) số đom đăng ký nộp trực tiếp cho Cục SHCN là 1.700 đơn, trong đó :ó 780 đơn là của nước ngoài, con sổ này quả là quá ít so với số lượng đơn ihỉ nộp riêng trong năm 1998: 5.832 đơn, trong đó có 3.233 đơn của người nước ngoài, chiếm 55,4% và năm 1999 là 6.385 đơn với 3.049 đơn của Igười nước ngoài, chiếm 47,75% tổng số đơn. Chắc chắn ràng, trong tương lai, con số này còn tăng hơn nữa, góp Dhần tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, việc mở rộng, thu lút vốn đầu tư nước ngoài và quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt 17 là trong giai đoạn hiện nay, khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO và hòa nhập vào ASEAN. Một mục đích nữa của người nước ngoài khi đăng ký đôi tượng bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam, đó là nhàm chào bán quyền sử dụng các đôi tượng SHTT mà họ đã được bảo hộ cho các tô chức sản xuât, kinh doanh của Việt Nam, thông qua hợp đồng lixăng, đây cũng là biện pháp hữu hiệu thúc đẩy sản xuất, đổi mới kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Vai trò của Sở hữu trí tuệ đối với hoạt động chuyển giao công nghệ cỏ liên quan đến thương mại. Một mục đích của việc bảo hộ quyền SHTT là nhằm khuyến khích các hoạt động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào trong nước và ngược lại. Ngoài mục đích để được “độc quyền khai thác” và đảm bảo không ai được bắt chước hay “ăn cắp” các đối tượng SHTT đã đăng ký, người chủ văn bằng bảo hộ còn nhằm vào mục đích chào bán quyền sử dụng đối tượng SHTT mà họ được bảo hộ này cho các tổ chức sản xuất, kinh doanh trong nước (bán lixăng). Hiện nay, trên thể giới, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo lixăng đã và đang là biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy sáng chế, đổi mới kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Đây chính là kinh nghiệm thành công của các nước như Nhật Bản, Đài Loan, Singapo, Thái Lan... Theo thống kê của Cục Sở hữu công nghiệp, trong khoảng thời gian khoảng 10 năm trở lại đây, từ khi Việt Nam có chính sách mở cửa nên kinh tế, hoạt động sở hữu trí tuệ bắt đầu phát triển, khoảng 2/3 số lixăng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa được ký kết giữa một bên là nước ngoài và một bên là Việt Nam. Điều đó chứng tỏ hoạt động sở hữu trí tuệ đã tác động trực tiếp đến việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam và giữa các cơ sở trong nước với nhau. Vai trò của Sở hữu trí tuệ đối với hoạt động lưu thông hàng hóa. Việc bảo hộ quyền SHTT không chỉ nhằm mục đích bảo hộ trong phạm vi quốc gia mà nó còn có tính mở rộng sang các nước khác có quan hệ kinh tế, sản xuất, khoa học công nghệ với quốc gia đó. Thông qua hoạt động này nó sẽ giúp cho việc bảo vệ lợi ích quốc gia trong lĩnh vực SHTT tốt hơn. Ví dụ, trường hợp của Công ty kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam (Vifon) đăng ký quyền SHTT đổi với đối tượng là nhãn hiệu hàng hóa (NHHH) tại thị trường Mỹ. Công ty này đã tốn kém rất nhiều tiền bạc và thời gian (4 năm và hom 8.000 USD) cho việc giải quyết tranh chấp trong việc đăng ký nhân hiệu. Cho đến tháng 5/1999, Cồng ty Vifon mới được cấp văn bằng 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan