Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Quan điểm của hồ chí minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa x...

Tài liệu Quan điểm của hồ chí minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam và sự vận dụng của đảng cộng sảnviệt nam trong việc phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay

.PDF
16
1
101

Mô tả:

lOMoARcPSD|17838488 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA MARKETING BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ BÀI: Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay Họ và tên sinh viên: Trần Phương An MSV: 111200025 Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh _26 Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện HÀ NỘI – 2022 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 1 CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.....................................2 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...................................................................................................................... 2 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH.................3 CHƯƠNG II. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.................................................6 1. Thực tiễn vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.......................................................6 2. Mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam..................8 KẾT LUẬN......................................................................................................................12 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................13 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 MỞ ĐẦU Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh tế rất phát triển. Tất nhiên, đối với các nước có nền kinh tế phát triển, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều thuận lợi hơn, có thể diễn ra ngắn hơn so với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế lạc hậu. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Nó diễn ra từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được quy định bởi đặc điểm của cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế, xã hội của chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam đã trải qua hơn 60 năm, đây là khoảng thời gian lâu dài đối với một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, nhưng đối với thời kỳ quá độ - một giai đoạn chuyển tiếp từ một hình thái kinh tế xã hội cũ sang một hình thái kinh tế xã hội mới thì chỉ là một chặng đường của thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH và tiến lên Cộng sản chỉ nghĩa. Thời kì quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện trên tất các các lĩnh vực, nhằm biến một cái cũ thành cái mới tiến bộ hơn. Để thực hiện thành công TKQĐ tiến lên CNXH phải giải quyết những nhiệm vụ về kinh tế, chính trị… Trong đó trọng tâm là những nhiệm vụ về kinh tế, nhiệm vụ này được Lênin phân tích rất rõ trong chính sách kinh tế mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của Người cơ bản là tư tưởng kinh tế - chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế là một bộ phận đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta trong công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Việc nghiên cứu “Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay” sẽ cung cấp cho ta những thông tin vô cùng quý báu về đặc điểm kinh tế trong một giai đoạn quan trọng của đất nước để bước đầu hình thành cho mình những tư duy kinh tế. Qua đó giúp ta hiểu được tình hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam hiện nay. 1 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Tính quy luật chung về kinh tế của mỗi quốc gia dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, quan điểm này được Lênin đưa ra trong Chính sách kinh tế mới, để thay thế cho Chính sách cộng sản thời chiến đã lạc hậu và kìm hãm sự phát triển kinh tế. Đồng thời, Lênin đưa ra các thành phần kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH là: Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội.Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới, Lênin luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô nhượng, hợp tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuê cơ sở sản xuất.v.v.được xem là “chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ nghĩa tư bản để đi vào chủ nghĩa xã hội. Phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là biện pháp “quá độ đặc biệt” mà còn là khâu “trung gian” để chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, điểm xuất phát trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nông dân, mà trước hết là từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa vào khôi phục và phát triển kinh tế tiểu nông để khôi phục và phát triển đại công nghiệp. Ngay Đại hội X Đảng cộng sản bolshevik (bôn-sê-vích) Nga, Lênin đã yêu cầu chính quyền Xô viết phải nhanh chóng phát triển nền sản xuất tiểu nông bằng cách khuyết khích nền kinh tế nông dân cá thể với những biện pháp “quá độ”, những hình thức “trung gian” có khả năng cải tạo nông dân, đổi mới nông thôn và chuyển đổi nền kinh tế tiểu nông của những người nông dân cá thể thành nền sản xuất tập thể có tính xã hội chủ nghĩa, diễn ra một cách tuần tự, có tính kế thừa, thận trọng. Về kinh tế tư bản tư nhân, khi chính sách kinh tế mới được áp dụng trong thực tiễn nước Nga, Lênin hiểu rõ có thể chủ nghĩa tư bản sống lại, nhưng ông cho rằng không sợ nó, mà kiêu gọi Chính quyền Xô viết cần sử dụng tư nhân nông dân, thợ thủ công, thương nhân…để phát triển kinh tế đất nước, bởi vì tư bản tư nhân sẽ tạo ra nhiều hàng hóa tiêu dùng cho xã hội - cơ sở ổn định chính trị. Kinh tế chủ nghĩa xã hội, Lênin đánh giá rất cao vị trí, vai trò của thành phần kinh tế này, đây là xương sống của nền kinh tế -những mạch máu kinh tế cơ bản như công nghiệp, ngân hàng, tài chính tín dụng luôn nằm trong tay chính quyền Xô viết, thuộc sở hữu nhà nước. Khi chính sách kinh tế mới được thực hiện, Lênin chủ trương các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo chế độ tự hoàn vốn, chế độ hoạch toán kinh tế, các xí nghiệp này được giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm vật chất với kết quả hoạt động của mình. Về thứ tự các thành phần kinh tế, Lênin đã cố tình sắp xếp các thành phần kinh tế theo thứ tự, cấp độ tăng lên về tính chất xã hội chủ nghĩa của mỗi thành phần kinh tế; tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử; sự biến đổi tỷ trọng các thành phần kinh tế 2 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 phải theo hướng xã hội chủ nghĩa; tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh và thống nhất giữa các thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của đất nước và tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của Các Mác - Ăngghen, Lênin về những vấn đề kinh tế - chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc phát triển kinh tế của nước nhà trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Từ quan điểm của Lênin về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH, phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Người đã chỉ ra những thành phần kinh tế trong vùng tự do trước năm 1954 ở nước ta bao gồm: Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản quốc gia. Khi miền bắc hoàn toàn giải phóng đi lên CNXH, Hồ Chí minh đã chỉ ra những hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế cụ thể tương ứng. Sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân; tương ứng với ba loại hình sử hữu đó là năm thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước. Trong các thành phần kinh tế nêu trên thì thành phần kinh tế quốc doanh là thành phần kinh tế lãnh đạo, phát triển mau hơn cả. Tuy nhiên, trước đổi mới tháng 12 năm 1986 ở nước ta thực chất chỉ phát triển hai thành phần kinh tế, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể dựa trên hai hình thức sử hữu Nhà nước và tập thể. Chính vì vậy, trong một thời gian dài nền kinh tế của chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, không giải phóng được nguồn lực phát triển kinh tế của đất nước. Thực tiễn cho thấy nguyên nhân sâu xa của mối quan hệ giữa LLSX và QHSX ở nước ta vào thời kỳ này không phù hợp, trong khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ lạc hậu, còn quan hệ sản xuất chúng ta lại xậy dựng chủ yếu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và vận dụng sáng tạo học thuyết kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin; đặc biệt là kế thừa và phát triển những quan điểm của V.I.Lênin về chính sách kinh tế mới (NEP) vào thực tiễn xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam với những nội dung cụ thể và nổi bật là: Thứ nhất, thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế Nhận thức rõ tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam sẽ tất yếu tồn tại đan xen nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Từ nhận định: “Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”(1), Người kết luận: “Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ 3 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”(2). Tuy nhiên, mục đích đó phải được thực hiện từng bước phù hợp với điều kiện cụ thể. Thứ hai, xác định tính chất của các thành phần kinh tế và chính sách của Nhà nước đối với từng thành phần kinh tế. Trong tác phẩm Thường thức chính trị (năm 1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, ở vùng tự do của ta còn tồn tại sáu thành phần kinh tế: kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội; các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội; kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ; kinh tế tư bản của tư nhân; kinh tế tư bản quốc gia (Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo). Khi nước ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền tư bản (Trung Quốc, Việt Nam) phải “kinh qua chế độ dân chủ mới”. Trong chế độ dân chủ mới có 5 loại kinh tế khác nhau: “A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân). B - Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C - Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội). D - Tư bản của tư nhân. E - Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh). Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”(3). Thực chất, đó là quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó, Nhà nước cần quan tâm đến sự phát triển của các thành phần kinh tế ở các mức độ phù hợp. Kinh tế quốc doanh (hay kinh tế nhà nước) là thành phần kinh tế có tính chất xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở chế độ sở hữu toàn dân: tài sản các xí nghiệp ấy là của chung của nhân dân, của Nhà nước, chứ không phải của riêng. Trong quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, “xưởng trưởng, công trình sư và công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhân. Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân”(4). Kinh tế quốc doanh có vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, do đó, Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên nhằm xây dựng nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Kinh tế hợp tác xã (bao gồm các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi công ở nông thôn) là thành phần kinh tế có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa, được hình thành từ hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Bởi vì, trong thành phần kinh tế này, “nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình sản xuất không phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột”(5). Chủ tịch Hồ Chí Minh coi hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc thông qua hình thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đó cũng là sự thống nhất với quan điểm của V.I.Lênin về tổ chức hợp tác xã: đảm bảo tính dân chủ, tự nguyện, bình đẳng, chú trọng lợi ích của hội viên và phù hợp với điều kiện từng địa phương. 4 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đó là “kinh tế lạc hậu” bởi nó mang tính tự cung tự cấp, tự túc, ít trao đổi mua bán. Đối với thành phần kinh tế này: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện”(6). Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mang tính bóc lột. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần quan trọng vào xây dựng kinh tế. Do đó, Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ nhưng phải hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Người nhấn mạnh: “Nếu mình thuyết phục khéo, lãnh đạo khéo, họ có thể hướng theo chủ nghĩa xã hội”(7). Đồng thời, những hoạt động đầu tư, phát triển kinh tế chính đáng có lợi cho Việt Nam của kiều bào cũng được Nhà nước giúp đỡ và bảo hộ. Kinh tế tư bản quốc gia (hay kinh tế tư bản của Nhà nước) là thành phần kinh tế hỗn hợp. Nhà nước và tư nhân hùn vốn để kinh doanh, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản, tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội. Nhà nước thực hiện việc lãnh đạo hoạt động của thành phần kinh tế này theo kế hoạch thống nhất. Để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế, Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ các nhà tư sản công thương cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác. Thứ ba, phải có các nguyên tắc đảm bảo đoàn kết, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong chiến lược phát triển kinh tế Một là, công tư đều lợi: "công" là kinh tế quốc doanh, là thành phần kinh tế lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới. Đảng, Nhà nước phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh, Nhân dân phải ủng hộ kinh tế quốc doanh; đồng thời phải trừng trị những người có hành động phá hoại kinh tế quốc doanh như trộm cắp của công, khai gian lậu thuế. "Tư" bao gồm những nhà tư bản dân tộc, kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Hai là, chủ thợ đều lợi: thừa nhận sự bóc lột của nhà tư bản là tất yếu, nhưng Chính phủ cần phải “ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay”(8). Đối với công nhân, Đảng và Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Để đảm bảo lợi ích lâu dài, Người cũng căn dặn: “Anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên”(9). Sự hợp tác trong sản xuất, việc chấp nhận những quyền lợi trong chừng mực nhất định của cả chủ và thợ cũng là một trong những động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ba là, công nông giúp nhau: lĩnh vực công thương đẩy mạnh phát triển thương nghiệp và chế biến, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa trong nông nghiệp để làm sợi dây đoàn kết “Liên minh công nông”. Bốn là, lưu thông trong - ngoài, tức là phải thực hiện chính sách mở cửa phát triển hợp tác kinh tế theo hướng các bên cùng có lợi. Nói theo ngôn ngữ hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập quốc tế, tham gia vào các chuỗi cung ứng, chuỗi sản phẩm, chuỗi giá trị. 5 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 Những quan điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa là cơ sở lý luận nền tảng trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. CHƯƠNG II. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Thực tiễn vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Thực tiễn hơn 30 năm Việt Nam phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta đã có sự lựa chọn sáng suốt, đúng đắn khi quyết định chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 năm 1986. Đã tạo ra bước đột phá về tư duy đổi mới thể chế, cơ chế trong quản lý kinh tế và đã vận dụng một cách sáng tạo nhất quan điểm của Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tùy vào từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn từng thành phần kinh tế cho phù hợp, nhưng quan điểm nhất quán trong suốt thời kỳ đổi mới cho đến nay, Đảng ta khẳng định phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 năm 1986 - Đại hội đổi mới, Đảng xác định 5 thành phần kinh tế chủ yếu: Kinh tế XHCN (Quốc doanh, tập thể, gia đình), Kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, Kinh tế tự túc, tự cấp, Kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) Đảng ta tiếp tục định 5 thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh, Kinh tế tập thể, Kinh tế cá thể, Kinh tế tư nhân, và Kinh tế tư bản nhà nước; do vậy Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII chỉ rõ: “Từ các hình thức sở hữu cơ bản sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”. Đại hội VIII (năm 1996) có 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, Kinh tế hợp tác xã, Kinh tế cá thể, tiểu chủ, Kinh tế tư bản tư nhân và Kinh tế tư bản nhà nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nêu ra 6 thành phần kinh tế cơ bản. Tại Đại hội IX (năm 2001), gồm có 6 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà nước, Thành phần kinh tế hợp tác xã, Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ, Thành phần kinh tế tư bản tư nhân, Thành phần kinh tế tư bản nhà nước, và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; Kinh tế hỗn hợp (thuộc sở hữu cổ phần). Tại Đại hội X (năm 2006), gồm có 5 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà nước, Thành phần kinh tế tập thể, Thành phần kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư bản tư nhân), Thành phần kinh tế tư bản nhà nước, và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.Như vậy Đại hội X chỉ khác Đại hội IX ở chỗ đã sát nhập hai thành phần kinh tế kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư bản tư nhân thành một thành phần đó là kinh tế tư nhân, là 6 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 vì hai thành phần này có điểm chung giống nhau là đều dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX; mặt khác chúng ta xóa đi sự mặc cảm đối với kinh tế tư bản tư nhân và nó sẽ thuận hơn khi nói đến đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Tại Đại hội XI (năm 2011), gồm có 4 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tại Đại hội XII (năm 2016), Đảng ta chủ yếu nhấn mạnh đến 4 thành phần kinh tế sau: Thành phần kinh tế nhà nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu chúng ta so sánh với các thành phần kinh tế mà Lênin và Hồ Chí Minh đề cập, thì không thấy thành phần kinh tế tư bản nhà nước, đây là thành phần kinh tế mà Lênin cho rằng có vai trò rất quan trọng trong việc liên kết giữa tử bản tư nhân và chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò nhất định trong cơ cấu thành phần kinh tế, trước hết là thành phần kinh tế Nhà nước. Đây là thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh cho rằng là thành phần kinh tế lãnh đạo, phát triển mau hơn cả. Tư tưởng này của Bác được Đảng ta vận dụng đưa vào trong các Nghị quyết Đại hội của đảng. Trong Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước thể hiện qua: Đi đầu về nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân; Bằng nhiều hình thức hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng XHCN; Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để Nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế định hướng XHCN. Chính vì vậy, trong suốt chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã cho thành lập các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, nắm giữ những ngành, lĩnh vực kinh tế then chốt của đất nước - được xem là xương sống, mạch máu của nền kinh tế nước nhà, và đây là công cụ kinh tế thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, nhằm điều tiết kinh tế, hỗ trợ, định hướng các thành phần kinh tế khác đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, thành phần kinh tế tập thể, Đảng ta xác định đây là thành phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; thứ ba, thành phần kinh tế tư nhân là một trong những động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; thứ tư, về thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước”. 7 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, Đảng ta hầu như không hoặc có đề cập nhưng không rõ ràng về thành phần kinh tế tư bản nhà nước, đây là thành phần kinh tế mà theo Lênin là nó có vai trò rất quan trọng, là thành phần kinh tế trung gian trong việc liên kết thành phần kinh tế tư bản tư nhân với thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, là “chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua” chủ nghĩa tư bản, để đi vào chủ nghĩa xã hội, là thành phần kinh tế có vai trò cầu nối giữa Tư bản thương nghiệp và XHCN, để thành phần kinh tế XHCN định hướng thành phần kinh tế tư bản tư nhân đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, đây là thành phần kinh tế đóng vai trò trung gian giữa Thành phần kinh tế tư nhân với Thành phần kinh tế nhà nước, đó là sự kiên kết giữa tư nhân trong nước, nước ngoài với tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước. Thông qua đó chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp, công ty, tổng công ty, tập đoàn kinh tế kinh tế tư nhân trong thời kỳ đẩy mạnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong văn kiện XII Đảng ta không đề cập một cách rõ ràng nhất về thành phần kinh tế này, chỉ đề cập đến một nội dung nhỏ về thành phần kinh tế tư bản nhà nước “tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”, nếu chúng ta đi phân tích nội dung này với khái niệm thành phần kinh tế tư bản nhà nước thì nội hàm của nó gần như giống nhau, bởi vì, thành phần kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế liên kết giữa tư nhân trong nước và nước ngoài với Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong các chặng đường phát triển kinh tế khác nhau thì nhận thức về thành phần kinh tế cũng có sự thay đổi, đó là quá trình khách quan phù hợp với quy luật nhận thức. Cho nên, quá trình đổi mới tư duy về các thành phần kinh tế ở nước ta qua các kỳ Đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn. 2. Mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thành tựu của văn minh nhân loại và thực tiễn quá trình đổi mới ở nước ta, Đảng ta đã nhận thức, vận dụng sáng tạo về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đề tài khái quát quan điểm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Đảng. Từ đó làm rõ đột phá lý luận về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam được Đại hội IX (năm 2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam khái quát là kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), từng bước được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội X, XI, XII của Đảng trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phát triển KTTT ở nước ta, vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển KTTT hiện đại của các nước trên thế giới. 8 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra những nội hàm cơ bản về nền KTTT định hướng XHCN: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã – hội”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, phát triển một số quan điểm mới về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam: Thứ nhất, kế thừa những nội dung về phát triển KTTT định hướng XHCN trong Văn kiện Đại hội XII, Báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh cần phải tiếp tục thống nhất và nâng cao nhận thức về KTTT định hướng XHCN. Điểm mới của Văn kiện Đại hội XIII ở nội dung này là ngay từ đầu Văn kiện đã nêu rõ nội hàm của KTTT định hướng XHCN của nước ta và trên cơ sở đó nhấn mạnh những nội dung quan trọng của nội hàm này, để từ đó thống nhất nhận thức và thực hiện. Thứ hai, nêu rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Điểm mới nổi bật chính là trong mối quan hệ này bổ sung thêm nhân tố xã hội, trong đó cũng nêu rõ vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung. Thứ ba, xác định hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT nói chung, nhưng tập trung vào tháo gỡ những điểm nghẽn đang cản trở sự phát triển KTTT của nước ta và nâng cao chất lượng thể chế. Cụ thể là hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế KTTT định hướng XHCN, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Thứ tư, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Điểm mới nổi bật ở nội dung này là xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Công trình của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”. Mô hình kinh tế tổng quát trong TKQĐ đi lên CNXH ở Việt Nam có thể khái quát ở ba điểm sau: Một là, tuân thủ những đặc trưng của KTTT, bởi vì, KTTT là một phương thức, một kiểu tổ chức kinh tế mà xã hội loài người sáng tạo ra, là thành quả của văn minh nhân loại, có thể tồn tại ở các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, các chế độ chính trị - xã hội khác nhau. 9 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 KTTT ra đời, phát triển phụ thuộc vào các điều kiện như phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất,… Tuân theo các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, lưu thông tiền tệ,… tạo động lực phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội. Thực tiễn thế giới đã minh chứng, nhiều quốc gia không theo chế độ chính trị - xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN) vẫn sử dụng KTTT làm phương tiện tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của mỗi quốc gia như: Trung Quốc, Lào… Hai là, giữa KTTT và định hướng XHCN, thể hiện hai khía cạnh chủ yếu là sử dụng “phương tiện” KTTT để đạt “mục đích” định hướng XCHN của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Về mặt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của thế giới đã được kiểm chứng và khẳng định, KTTT là “phương tiện tốt nhất” tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của mỗi quốc gia. KTTT càng hiện đại và được vận hành có hiệu quả thì cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế do nó tạo ra càng có điều kiện gia tăng mạnh mẽ thế và lực. Còn “mục đích” KTTT bao giờ cũng gắn với một chế độ chính trị - xã hội nhất định, phục vụ cho mục tiêu và lợi ích của chế độ đó. Nền KTTT định hướng XHCN mục đích là phát triển, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế, phục vụ lợi ích của nhân dân và hoàn thiện quan hệ sản xuất nhằm xây dựng chế độ chính trị xã hội của CNXH. Giữa “mục đích” định hướng XHCN và “phương tiện” KTTT ở Việt Nam không có sự loại trừ, mâu thuẫn nhau mà là sự dung hợp, gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau trong chỉnh thể thống nhất “KTTT định hướng XHCN”. Điều đó có nghĩa rằng, tính định hướng XHCN của nền KTTT hay tính định hướng trong phát triển nền KTTT là hoàn toàn đúng đắn, phản ánh mục tiêu, phương thức phát triển, phân phối của cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta; nhờ đó khai thác tốt nhất mặt tích cực của thị trường, đồng thời khắc phục và hạn chế mức thấp nhất những khuyết tật, rủi ro của nó nhằm hướng đến các mục tiêu của CNXH. Ba là, phát triển KTTT định hướng XHCN là kiểu tổ chức kinh tế xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Trước hết phải thấy rằng, Việt Nam đi lên CNXH từ xuất phát điểm rất thấp về kinh tế và con đường xây dựng CNXH là con đường quá độ, trải qua nhiều giai đoạn, bước đi khác nhau. Tất yếu khách quan Việt Nam phải phát triển KTTT với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó có sở hữu tư nhân, thành phần kinh tế tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp khác còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tất cả các thành phần kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Từ thực tiễn quá trình đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam về cơ bản đã hội đủ các yếu tố của nền KTTT hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng đồng bộ…; vai trò của nhà nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh 10 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 tế của nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường,… Trong điều kiện đó, các quy luật của KTTT vận hành đồng bộ, các chủ thể kinh tế cạnh tranh để tồn tại và phát triển; giá cả hàng hóa cơ bản do thị trường quyết định; sản xuất và lưu thông hàng hóa phải chú ý đến tín hiệu giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường; thị trường đóng vai trò trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế, huy động và phân bổ các nguồn lực của sản xuất,… Các yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền KTTT gắn với vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phát triển nhanh và bền vững đất nước,… Kết quả của 35 năm đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế không thuận lợi); Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ USD (đứng thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng 6%/năm, năm 2020 đạt 2,91% ; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD năm 2020 (xếp thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng tạo. Những kết quả nêu trên, một lần nữa khẳng định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và tính đặc thù và phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành phần kinh tế tồn tại có ví trí, vai trò riêng để thực hiện các nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa". 11 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 KẾT LUẬN Trải qua hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Điều này chính là những bằng chứng sinh động và mang tính thực tiễn cho thấy Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hiện vẫn có ý nghĩa thời sự và ý nghĩa phương pháp luận, cần được quán triệt và vận dụng sáng tạo để định hướng cho sự nghiệp tiếp tục đổi mới nền kinh tế đất nước. Thực tế này cũng cho thấy sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng Sản Việt Nam cùng với sự đấu tranh không biết mệt mỏi và sự hy sinh to lớn của nhân dân Việt Nam đã giúp nước ta vượt qua mọi khó khăn, trở ngại tưởng chừng không vượt qua được để nước ta có được ngày hôm nay. Tuy nhiên, cần luôn tâm niệm rằng đây chỉ là những thành công ban đầu. Hơn nữa, tình hình thế giới đang có những thay đổi nhanh chóng và toàn diện, thế giới đang phải đối diện với vô vàn khó khăn và thử thách từ dịch bệnh cũng như thiên tai từ thiên nhiên mang lại. Vì vậy, Đảng và nhân dân ta cần tiếp tục nỗ lực vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xẫ hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững để tiếp tục thu được những thành công to lớn hơn, rực rỡ hơn trên con đường xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 12 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011 3. C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính Trị quốc gia. H.1995. t.19, tr. 33 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.102-103. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2021, t.1, tr.128-129 13 Downloaded by hây hay ([email protected]) lOMoARcPSD|17838488 14 Downloaded by hây hay ([email protected])
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan