Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương pháp giáo dục đối với thanh thiếu niên phạm pháp tại trường Giáo dưỡng số...

Tài liệu Phương pháp giáo dục đối với thanh thiếu niên phạm pháp tại trường Giáo dưỡng số 4 tỉnh Đồng Nai

.PDF
180
124
74

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC HỒ THỊ PHƯƠNG DUNG PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐỐI VỚI THANH THIẾU NIÊN PHẠM PHÁP TẠI TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG SỐ 4 TỈNH ĐỒNG NAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC Thạc sĩ: VŨ THỊ SAI TP. HCM. 5/2006 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết đầy đủ Viết tắt Chưa bao giờ: CBG Ít khi: IK Thỉnh thoảng: TT Thường xuyên: TX Rất thường xuyên: RTX Rất không hài lòng: RKHL Không hài lòng: KHL Phân vân PV Hài lòng: HL Rất hài lòng: RHL Mức độ ý nghĩa quan sát: Sig MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 2 T 1 2 T 1 2 MỤC LỤC .................................................................................................................... 3 T 1 2 T 1 2 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5 T 1 2 T 1 2 1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................................5 T 1 2 T 1 2 2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................7 T 1 2 T 1 2 3. Khách thể và đối tượng nghiên cửu ..............................................................................7 T 1 2 T 1 2 4. Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................................7 T 1 2 T 1 2 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................................8 T 1 2 T 1 2 6. Giới hạn đề tài. ................................................................................................................8 T 1 2 T 1 2 7. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................8 T 1 2 T 1 2 8. Tiến độ thực hiên đề tài ..................................................................................................9 T 1 2 T 1 2 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .......................... 11 T 1 2 T 1 2 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................11 T 1 2 T 1 2 1.1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới.................................................................11 T 1 2 T 1 2 1.1.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam .................................................................14 T 1 2 T 1 2 1.2. Cơ sở lí luận ................................................................................................................17 T 1 2 T 1 2 1.2.1 Một số đặc điểm cơ bản ở lứa tuổi thanh thiếu niên ..............................................17 T 1 2 T 1 2 1.2.2 Khái niêm về trẻ phạm pháp. .................................................................................22 T 1 2 T 1 2 1.2.3 Một số đặc điểm tâm lý của trẻ phạm pháp ...........................................................23 T 1 2 T 1 2 1.2.4 Nguyên nhân dẫn đến tình trang trẻ phạm pháp ....................................................26 T 1 2 T 1 2 1.2.5 Phương pháp giáo dục ...........................................................................................29 T 1 2 T 1 2 1.2.6 Một số phương pháp giáo dục lại đôi với trẻ phạm pháp. .....................................40 T 1 2 T 1 2 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐỐI VỚI THANH THIẾU NIÊN PHẠM PHÁP TẠI TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG SỐ 4 - TỈNH ĐỒNG NAI .......................................................................................... 50 T 1 2 T 1 2 2.1 Một số nét cơ bản trong công tác quản lý giáo dục học sinh trường Giáo dưỡng số 4 – tỉnh Đồng Nai ..........................................................................................................50 T 1 2 T 1 2 2.1.1 Đặc điểm tình hình chung ......................................................................................50 T 1 2 T 1 2 2.1.2 Đối tượng đưa vào trường Giáo dưỡng (TGD)......................................................50 T 1 2 T 1 2 2.1.3 Công tác tổ chức hành chính ..................................................................................51 T 1 2 T 1 2 2.1.4 Công tác tiếp nhân và quản lý học sinh TGD K ....................................................51 T 1 2 T 1 2 2.1.5 Công tác giáo dục học sinh ....................................................................................53 T 1 2 T 1 2 2.1.6 Công tác giảng dạy văn hóa ...................................................................................54 T 1 2 T 1 2 2.1.7 Lao đông hướng nghiệp dạy nghề .........................................................................54 T 1 2 T 1 2 2.1.8 Tố chức quản lý, giáo dục học sinh chuẩn bị ra trường .........................................55 T 1 2 T 1 2 2.2. Thực trạng sử dung các phương pháp giáo dục tại trường Giáo dưỡng số4 - tỉnh Đồng Nai ............................................................................................................................56 T 1 2 T 1 2 2.2.1 Một số nét về mẫu nghiên cứu ...............................................................................56 T 1 2 T 1 2 2.2.2 Kết quả nghiên cứu về thực trạng sử dung phương pháp giáo dục: ......................57 T 1 2 T 1 2 2.2.3 So sánh đánh giá của giáo viên và đánh giá của học sinh về thực trạng sử dụng các phương pháp giáo dục. ...........................................................................................101 T 1 2 T 1 2 2.2.4 Đánh giá của giáo viên về một số kết quả, rèn luyện của học sinh .....................115 T 1 2 T 1 2 2.2.5 Những khó khăn gây cản trở đến việc sử dụng các phương pháp giáo dục. .......120 T 1 2 T 1 2 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................. 125 T 1 2 T 1 2 1. Kết luận chung ............................................................................................................125 T 1 2 T 1 2 2. Kiến nghị: ....................................................................................................................130 T 1 2 T 1 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 132 T 1 2 T 1 2 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 134 T 1 2 T 1 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Thanh thiếu niên là một lực lượng to lớn, chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu dân số và lực lượng lao động trong xã hội. Đồng thời đây cũng là lực lượng nòng cốt trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nhận định: "Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng hay không, chủ yếu là do lực lượng thanh niên ngày nay quyết định". Bên cạnh những thanh thiếu niên đã học tập, rèn luyện và có nhiều cống hiến thì cũng có một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên có lối sống không lành mạnh, coi thường các giá trị đạo đức, nhân văn. Thậm chí có nhiều thanh thiếu niên đã đi vào con đường phạm pháp. Theo số liệu của Viện kiểm soát nhân dân tối cao, chỉ riêng năm 1998 cơ quan kiểm soát các cấp trong toàn quốc đã tiếp nhận hồ sơ và xử lý 5133 em, trong số đó đã truy tố 3.533 bị can, đưa ra xét xử 2919 trường hợp. Theo thống kê của bộ Công an, số thanh thiếu niên làm trái pháp luật chiếm khoảng 13% đến 15% tổng số vụ án hình sự. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thanh thiếu niên phạm pháp. Chúng ta thấy rằng khi xã hội đang có những biến đổi to lớn về nhiều mặt, cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường. Bên cạnh sự phát triển nhanh chóng về kinh tế thì đây cũng chính là môi trường làm nảy sinh những thuận lợi và khó khăn cho quá trình giáo dục. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì cũng có quá nhiều những ảnh hưởng tiêu cực tác động đến sự hình thành, phát triển nhân cách của trẻ em. Ở lứa tuổi thanh thiếu niên, một lứa tuổi đầy biến động, một lứa tuổi không còn là trẻ con nhưng lại chưa đủ sức để trở thành người lớn, một lứa tuổi ham khẳng định và tìm tòi cái mới thì sự ảnh hưởng của những tác động tiêu cực là rất lớn. Để trẻ em nói chung và thanh thiếu niên nói riêng có khả năng chống lại những tác động tiêu cực từ điều kiện, môi trường sống thì hơn ai hết trách nhiệm thuộc về gia đình. Cha mẹ không chỉ nuôi dưỡng, chăm sóc mà còn phải giáo dục con cái về mọi mặt. Nhưng ngày nay có một thực tế đáng phải quan tâm là: Do phải bôn ba vất vả với cuộc sống mưu sinh, với cơm áo gạo tiền, vì chức năng kinh tế mà không ít cha mẹ đã khoán trắng việc giáo dục con cái cho nhà trường. Một nơi mà thực tế không đủ sức để giáo dục toàn diện nhân cách cho trẻ. Và cha mẹ đã bù đắp cho con em mình những thiếu hụt bằng vật chất. Đôi khi vì thiếu sự quan tâm đúng mức cha mẹ đã không thấy được những thay đổi, những khác lạ trong tính cách của con em mình. Đến khi trẻ bắt đầu xa chân vào con đường phạm tội, khi phải đứng trước vành móng ngựa thì cha mẹ mới bắt đầu "thức tỉnh". Không phải ai sinh ra đã mang sẵn trong mình những hành vi phạm tội. Đó là kết quả của những biến đổi tâm lí, những biến đổi mà không được quan tâm, thấu hiểu, và được cư xử phù hợp. Là kết quả của sự ảnh hưởng tiêu cực từ điều kiện môi trường, xã hội. Mà quan trọng hơn hết đó là kết quả của những sai lệch trong giáo dục gia đình. Khi thanh thiếu niên chưa có sự trưởng thành về mặt nhận thức, kinh nghiệm sống, khi lứa tuổi còn có nhiều biến động, nhiều sự thay đổi thì những hành vi làm trái pháp luật của các em đáng được tha thứ. Bởi hơn ai hết các em chính là nạn nhân của của những bất ổn trong gia đình và ngoài xã hội. Đứng trước thực trạng thanh thiếu niên phạm pháp ngày một tăng thì lực lượng Công an là những người tiên phong trong công tác phòng chống tội phạm, loại trừ những băng nhóm lưu manh, trộm cắp, đồng thời còn tiến hành tập trung cải tạo các loại đối tượng phạm pháp hình sự, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên, nhằm giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Để thực hiện những chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với đối tượng thanh thiếu niên phạm pháp thì các trường Giáo dưỡng là những lực lượng đóng vai trò quan trọng và tiên phong trong công tác cải tạo, giáo dục các em. Giúp các em trở thành những người có phẩm chất tốt đẹp, có trình độ văn hóa, có khả năng lao động để có thể tái hòa nhập cộng đồng. Đó là những nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết đòi hỏi các cán bộ, giáo viên ở trường không chỉ bằng tình thương mà còn phải có những phương pháp giáo dục phù hợp và hiệu quả. Phương pháp giáo dục phù hợp và hiệu quả chính là những nhân tố quan trọng tạo tiền đề giúp các em có đủ sự tự tin, bản lĩnh, có thái độ tích cực để trở thành những công dân có ích cho xã hội. Quá trình giáo dục đối với thanh thiếu niên phạm pháp ở các trường Giáo dưỡng chắc chắn sẽ có những nét đặc thù. Vậy, các giáo viên tại trường đã sử dụng những phương pháp gì để giáo dục cho các em? Hiệu quả của những phương pháp đó ra sao? Các thầy cô trong quá trình giáo dục các em có những khó khăn nào? Đứng trước những băn khoăn đó, người nghiên cứu đã tiến hành thực hiện đề tài: Phương pháp giáo dục đối với thanh thiếu niên phạm pháp tại trường Giáo dưỡng số 4 - Tỉnh Đồng Nai. 2. Mục đích nghiên cứu Khảo sát thực trạng sử dụng các phương pháp giáo dục đối với thanh thiếu niên phạm pháp tại trường Giáo dưỡng số 4 - Tỉnh Đồng Nai trên cơ sở đó phân tích những khó khăn khách quan và chủ quan gây ảnh hưởng đến việc sử dụng các phương pháp giáo dục để từ đó đưa ra các ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục tại trường. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cửu 3.1. Khách thể nghiên cứu Quá trình giáo dục tại trường Giáo dưỡng số 4 - Tỉnh Đồng Nai. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Các phương pháp giáo dục đối với thanh thiếu niên phạm pháp. 4. Giả thuyết nghiên cứu - Phần lớn các giáo viên tại trường Giáo dưỡng số 4 đã sử dụng phù hợp các phương pháp giáo dục tuy nhiên việc sử dụng các phương pháp giáo dục này vẫn còn một số hạn chế. - Các phương pháp giáo dục đặc thù trong quá trình giáo dục này đã được các giáo viên sử dụng song vẫn chưa được quan tâm đúng mức. - Trong quá trình giáo dục lại đối với thanh thiếu niên phạm pháp thì các giáo viên tại trường còn gặp nhiều khó khăn khách quan và chủ quan khiến cho việc sử dụng các phương pháp giáo dục còn nhiều hạn chế nên hiệu quả giáo dục mang lại chưa cao. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu. - Khảo sát thực trạng sử dụng các phương pháp giáo dục tại trường. - Đánh giá hiệu quả sử dụng các phương pháp giáo dục tại trường thông qua sự đánh giá của giáo viên và học sinh. -Đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đối với thanh thiếu niên phạm pháp. 6. Giới hạn đề tài. 1. Về mẫu nghiên cứu -Nghiên cứu trên giáo viên: Chủ nhiệm,Văn hóa, dạy nghề, trực ban. -Nghiên cứu trên học sinh : Chỉ nghiên cứu ở lứa tuổi thiếu niên và lứa tuổi đầu thanh niên tại trường Giáo dưỡng số4- Tỉnh Đồng Nai. 2. Về đối tương nghiên cứu Chỉ nghiên cứu các phương pháp giáo dục đối với thanh thiếu niên phạm pháp. 7. Phương pháp nghiên cứu 7. 1. Phương pháp nghiên cứu lí luận 7.2.Phương pháp nghiên cứu thực tiễn a/ Phương pháp trò chuyện-phỏng vấn b/ Phương pháp quan sát c/ Phương pháp điều tra bằng bảng Angket Công cụ nghiên cứu được tiến hành qua 2 giai đoạn: +Giai đoan 1: Dựa vào việc nghiên cứu lí luân và qua quan sát thực tế, người nghiên cứu soạn thảo một bảng thăm dò mở với một số câu hỏi (phần phụ lục). +Giai đoan 2: Từ kết quả thăm dò mở, kết hợp với sự tham kháo tài liệu, các công trình nghiên cứu có liên quan người nghiên cứu tiến hành xây dựng bảng thăm dò chính thức. Trong tất cả các phương pháp trên thì điều tra bằng bảng Angket là phương pháp chính. 7.3. Phương pháp xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS 11.5  Phương pháp thống kê tần số, tính tỉ lệ phần trăm.  Kiểm nghiệm Chi- Square  Kiểm nghiệm T- Test 8. Tiến độ thực hiên đề tài Tháng 9: +Xác định tên đề tài và xây dựng đề cương Tháng 10-11: +Nghiên cứu tài liệu. +Viết cơ sở lí luận +Xây dựng bảng câu hỏi mở Tháng 12-1: +Trò chuyện với giáo viên và học sinh. +Xây dựng bảng câu hỏi chính thức . Tháng 2-3: +Phát và thu phiếu điều tra +Hoàn thành cơ sở lí luận Tháng 4: +Xử lí và phân tích số liệu thu được +Tổng hợp viết thành luận văn Tháng 5: +Hoàn chỉnh luận văn và báo cáo. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới - A.x Macarencô (1888-1939) Macarencô được biết đến là nhà giáo nhân đạo lớn của thế giới, ông là bậc thầy trong việc giáo dục học sinh hư, phạm pháp. Quan điểm giáo dục của Macarencô được thể hiện sâu sắc nhất thông qua tác phẩm "Bài ca sư phạm". Đó là bài ca chiến thắng của những quan điểm giáo dục Macxit. Đó là thành công rực rỡ của Macarencô trong việc cải tạo hàng ngàn trẻ lưu manh, tội lỗi, biến chúng từ chỗ là "cặn bã" của xã hội thành những công dân tích cực của xã hội Xô Viết đó là những công dân, những nhà sử học, nhà địa chất, nhà giáo dục, những kỹ sư, bác học, thầy thuốc, nghệ sỹ, những người được thưởng huân chương, có người trở thành anh hùng Xô Viết. Bài ca sư phạm thể hiện những quan điểm cơ bản nhất về giáo dục chủ nghĩa Mác-LêNin. Quan điểm quan trọng nhất của Macarencô là ý niệm về con người, thái độ MacXit đối với con người, có thể coi quan điểm này là quan điểm xuất phát cho tư tưởng giáo dục chủ đạo của ông. Đó là lòng nhân đạo đối với con người. Theo ông khái niệm "trẻ hư" là điều vô nghĩa. Ông không công nhận có trẻ xấu từ lúc lọt lòng mẹ, có trẻ phạm tội mà không thể cứu chữa được. Với tài năng sư phạm kiệt xuất và tấm lòng cao cả cuối cùng Macarencô đã thành công với kết quả giáo dục đáng khâm phục. Ồng đã giáo dục hàng ngàn trẻ em phạm pháp trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Từ kết quả đó Macarencô có nhận xét rằng: "Tôi thấy rằng không có trẻ phạm pháp đặc biệt nào hết, chỉ có những người rơi vào khó khăn. Tôi hiểu rất rõ ràng, nếu thời thơ ấu tôi cũng rơi vào hoàn cảnh giống vậy thì tôi cũng trở thành như các em. Và bất cứ một đứa trẻ nào bị ném ra hè phố không có người giúp đỡ, không có xã hội, không có tập thể, không có bạn bè, không có kinh nghiệm, không có tương lai, thần kinh bị cạn kiệt và mệt mỏi và đói khát, mọi đứa trẻ bình thường thì cũng xử sự như các em đó" [8, 260]. Nhờ có tầm nhìn biện chứng về con người, luôn luôn mong muốn nâng đỡ dìu dắt, thông cảm và thương yêu con người nên Macarencô đã đạt được những thành công rực rỡ trong việc cải tạo hàng ngàn trẻ em hư, phạm pháp cơ nhỡ không gia đình, không nơi nương tựa. Vì vậy theo Macarencô nhà sư phạm phải đến với từng người với một giả thiết lạc quan, dù có phải lầm lẫn chăng nữa. Cũng như Gorki, ông từ chối không dựa trên những khía cạnh tiêu cực và ốm yếu của con người. Ông luôn tìm ra ở mỗi trẻ, mặt dù cảnh ngộ bi đát tuyệt vọng đến chừng nào, một niềm hi vọng, một khía cạnh tích cực để phát huy lên, làm nảy nở ra mọi tiến bộ. Yêu cầu đối với đứa trẻ biểu thị sự tôn trọng đối với sức lực và khả năng của trẻ ngược lại tôn trọng phải đòi hỏi, phải yêu cầu đối với trẻ. Điều quan trọng là phải kết hợp một cách đúng đắn sự đòi hỏi cao ở một con người với sự tôn trọng đối với con người. Quan điểm thứ hai là giáo dục trong lao động. Đây là nguyên lý cơ bản nhất của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, một nền giáo dục dựa trên học thuyết Mac-Lenin. Qua giáo dục lao động nhiều trẻ "tội lỗi", "phạm pháp" "đã được cải tạo về tư tưởng và về sau đã trở thành những nhà chuyên môn giỏi, công nhân lành nghề, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên dạy nghề..." Quan điểm thứ ba là giáo dục trong tập thể: đây là tư tưởng giáo dục trung tâm của ông xuất phát từ lời dạy của Lênin về những quan hệ mới giữa cá nhân và tập thể trong xã hội chủ nghĩa. Macarencô đã nghiên cứu những mối quan hệ từ đó rút ra những ứng dụng thực tế tại trại Gorki. Macarencô đã xây dựng một luận lý đồ sộ về sự phát triển của một tập thể, phong cách của tập thể. Trong bức thư gởi cho Gorki, Macarencô viết: "tôi đã được kết quả vì đã xuất phát từ nguyên tắc sau đây: tập thể phải hoạt động và chính trong hoạt động đó các thành viên tự biến đổi...". Sự thành công của nguyên tắc giáo dục trong tập thể được Macarencô khẳng định "dần dần quá trình giáo dục tự biến thành quá trình giáo dục của tập thể, thật là đặc sắc và không ngờ" [8,10]. Tư tưởng chủ yếu của Macarencô trong tác phẩm "Bài ca sư phạm" là giáo dục những đứa trẻ lưu manh, phạm pháp, sản phẩm của xã hội bóc lột thành những công dân yêu nước, giác ngộ, trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa. Để đạt được những mục đích đó ông cho rằng những nhà giáo dục phải tin tưởng sâu sắc vào bản chất tốt đẹp của con người, phải nắm vững quan điểm giáo dục trong lao động, giáo dục trong tập thể và bằng tập thể. Bên cạnh những quan điểm trên, nội dung của tác phẩm "Bài ca sư phạm" còn chứa đựng những bài học quý giá như: nghệ thuật giáo dục, phương pháp giáo dục. Một trong những đóng góp quan trọng nhất vào kho tàng lý luận cũng như thực tiễn giáo dục là ông đã sáng tạo ra những phương pháp giáo dục, thể hiện được nghệ thuật, tài năng, khéo léo, điêu luyện của một nhà giáo dục. Đó là các phương pháp giáo dục như: phương pháp bùng nổ sư phạm, phương pháp giáo dục bằng tác động song song, phương pháp giáo dục bằng viễn cảnh, bằng khen thưởng, trách phạt... -Tác giả A.I CôChêTôp đã bàn đến quá trình giáo dục lại trong tác phẩm ''Những vấn đề lý luận đức dục". Côchêtốp đã nhấn mạnh vị trí quan trọng của vấn đề giáo dục lại trong việc giáo dục cộng sản. Ông cho rằng công tác giáo dục lại bao gồm việc giáo dục những trẻ em vô kỷ luật, cũng như việc tăng cường, chăm sóc những trẻ em lêu lổng và việc cải tạo những trẻ em phạm pháp. Trong tác phẩm, tác giả đã đi sâu phân tích những nguyên nhân của trẻ có biểu hiện tính chất khó dạy. Ông đã chỉ ra ba dạng nguyên nhân dẫn đến trẻ "khó dạy": nguyên nhân xã hội, nguyên nhân tâm lý, nguyên nhân giáo dục. Trong đó ông nhấn mạnh đến nguyên nhân giáo dục, ông chỉ ra một số thiếu sót, sai phạm trong giáo dục gia đình cũng như là giáo dục ở nhà trường. "Thông thường nguyên nhân của sự khó dạy là những sai lầm sư phạm trong việc giáo dục, là sự lạc hậu, sự vụng về về mặt giáo dục "1 1,80]. Trên cơ sở đó, ông cũng chỉ ra một số đặc điểm tâm lý của trẻ "khó dạy". Trong đó thì đặc điểm nổi bật nhất ở trẻ khó dạy là sự phát triển, thể hiện các nhu cầu (tinh thần và vật chất) dưới những phương thức lệch lạc khác nhau. Từ việc tìm hiểu nguyên nhân cũng như cách nhìn nhận về các đặc điểm tâm lý của đối tượng giáo dục lại, tác giả cũng đã bàn đến hệ thống phương pháp giáo dục như phương pháp khuyến khích và trách phạt, phương pháp "bùng nổ", phương pháp chuyển hướng trong giáo dục lại, và cuối cùng là phương pháp tự hoàn thiện. Tác giả cũng đi sâu phân tích khái niệm, nội dung cũng như là đề ra những yêu cầu cần thiết trong quá trình sử dụng các phương pháp giáo dục đó. 1.1.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam -Một công trình nghiên cứu đồ sộ của tập thể tác giả Đặng Vũ Hoạt, Phạm Lăng, Bùi Thiện Cơ, Phạm Hạnh được thể hiện thông qua tác phẩm "Cơ sở lí luận và thực tiễn của quá trình giáo dục lại học sinh hư, học sinh phạm pháp". Trong tác phẩm các tác giả đã bàn đến khái niệm học sinh hư, học sinh phạm pháp. Trong đó các tác giả cho rằng học sinh phạm pháp là những học sinh có một dấu hiệu rất cơ bản là có hành vi vi phạm một hoặc nhiều qui phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp lý. Các tác giả cũng xét đến mối quan hệ giữa học sinh hư, học sinh phạm pháp. Học sinh hư nếu cứ đi sâu vào con đường vi phạm các chuẩn mực xã hội thì có thể đi đến con đường phạm pháp, như vậy thì học sinh phạm pháp thường vốn là học sinh hư, .song cũng có trường hợp học sinh phạm pháp vốn không phải là học sinh hư như trong trường hợp phạm pháp ngẫu nhiên, không cố ý. Học sinh hư, học sinh phạm pháp được gọi chung là học sinh chậm tiến. Các tác giả cũng bàn đến những đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi thiếu niên nói chung và các đặc điểm tâm lý của học sinh hư, phạm pháp nói riêng. So với quá trình giáo dục bình thường thì quá trình giáo dục đối với học sinh hư, học sinh phạm pháp mang tính đặc thù, quá trình đó nhằm mục đích phục hồi, xây dựng lại nhân cách nói chung và các hành vi nói riêng cho phù hợp với chuẩn mực xã hội đã được quy định. Theo các tác giả thì quá trình giáo dục lại là một quá trình khó khăn, phức tạp, lâu dài, mang tính phức hợp đặc biệt, có tính cá biệt cao, đồng thời cũng đòi hỏi rất cao ở nhà giáo dục là sự lạc quan, tin tưởng, khéo léo và tấm lòng yêu thương trẻ sâu sắc. Các tác giả cũng đi sâu phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh hư, học sinh phạm pháp, các tác giả nhận thấy rằng môi trường kinh tế xã hội ở nước ta bên cạnh các yếu tố tích cực còn chứa nhiều yếu tố tiêu cực như sự phân hóa giàu nghèo, quan hệ giữa người với người là quan hệ "tiền trao, cháo múc", sự ảnh hưởng của các văn hóa phẩm đồi trụy... Bên cạnh đó thì sự thiếu tình thương, tinh thần trách nhiệm, sự thiếu hiểu biết về việc giáo dục con cái, những quan hệ gia đình bị rối loạn cũng như sự thiếu quan tâm của nhà trường đối với học sinh chậm tiến, học sinh cá biệt là những nguyên nhân quan trọng đưa trẻ đến tình trạng hư, phạm pháp. Đặc biệt các tác giả cũng bàn đến các phương pháp giáo dục đặc thù đối với học sinh hư, học sinh phạm pháp trong đó có các phương pháp như phương pháp xây dựng lại niềm tin, phương pháp bùng nổ, phương pháp khuyến khích, trách phạt. Về công tác thực tiễn trên cơ sở nghiên cứu về thực trạng học sinh hư, học sinh phạm pháp ở một số trường phổ thông và công tác giáo dục đối với đối tượng này thì các tác giả cũng đã xây dựng mô hình tổ chức giáo dục học sinh hư, học sinh phạm pháp trên địa bàn dân cư. Mô hình này theo các tác giả là con đường giáo dục - liên kết các lực lượng giáo dục như nhà trường, gia đình, xã hội. Các tác giả cũng đã nhấn mạnh học sinh hư, học sinh phạm pháp là một hiện tượng xã hội. Vì vậy việc ngăn chặn, giáo dục đối tượng này là nhiệm vụ của toàn xã hội, cho nên mỗi đoàn thể, cá nhân cần nhận thức đầy đủ ý nghĩa và trách nhiệm của mình trong công tác giáo dục các em. Một xã hội văn minh, hiện đại là một xã hội mà mọi quan tâm chăm sóc bảo vệ trẻ em được đề cao, tất cả đều hướng đến việc làm cho các em không bị thiệt thòi, bất hạnh. -Tác giả Võ Quang Phúc trong tác phẩm "Muốn trẻ em hư thành công dân tốt" đã dùng khái niệm trẻ hư để chỉ trẻ chưa thành niên (vị thành niên) thuộc hai nhóm: trẻ chưa ngoan và trẻ phạm pháp. Tác giả đã bàn đến khái niệm trẻ chưa ngoan và trẻ phạm pháp. Qua đó tác giả cũng xác định được mối liên hệ giữa hai khái niệm này. Tác giả cho rằng mối quan hệ giữa hai khái niệm này vừa có tích chất rõ ràng vừa có tính chất tương đối. Xét về mặt ảnh hưởng qua lại giữa hai nhóm, những sai lầm trong hành động của trẻ chưa ngoan là cái nền mà trên đó sẽ dựng nên những tội lỗi của trẻ phạm pháp. Trong điều kiện những trái ngược xã hội bộc lộ ra gay gắt, trật tự xã hội không ổn định, các tệ nạn xã hội ở người lớn ngày càng trầm trọng hơn, thì những lỗi lầm của trẻ chưa ngoan sẽ chuyển thành những tội lỗi của trẻ phạm pháp. Trong trường hợp này khoảng cách giữa "cái chưa ngoan" và "cái phạm pháp" là rất nhỏ. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là trẻ chưa ngoan sẽ trở thành trẻ phạm pháp, bởi vì đó là một bước sa sút nghiêm trọng trong nhân cách trẻ. Trong tác phẩm tác giả đã thể hiện sự thấu hiểu một cách sâu sắc về các quan điểm giáo dục của Macarencô, đồng thời tác giả cũng đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn trong công tác giáo dục trẻ em chưa ngoan, trẻ em phạm pháp. -Trong bài viết "Sự giao thoa một số đặc điểm tâm lý trẻ em hư, trẻ em phạm pháp với các yếu tô không lành mạnh trong xã hội" của tác giả Phạm Lăng - Viện khoa học giáo dục. Tác giả đã chỉ ra một số đặc điểm nổi bật ở trẻ em hư, trẻ em phạm pháp như chỉ số trí tuệ giảm sút, học vấn thấp, hầu hết đang học dở dang, sự tập trung chú ý khó khăn, thiếu óc phê phán, năng lực trừu tượng hóa hoặc tư duy logic hạn chế, tính tình thất thường, cư xử thô bạo với người khác, thích các trò chơi giải trí thiếu khả năng kiềm chế... Từ đó tác giả cũng nêu lên một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em hư, trẻ em phạm pháp. Tác giả cho rằng nguyên nhân chủ yếu là do các em học kém, lưu ban nhiều lần rồi chán học và thường do các em bị cuốn hút vào các trò tiêu khiển có hại. Tác giả cũng nhấn mạnh đến nguyên nhân xã hội đó là những yếu tố không lành mạnh từ môi trường bên ngoài như: sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các văn hóa phẩm đồi trụy, của các hàng hóa có hại của các nhà doanh nghiệp vì mục đích làm giàu. Tác giả cũng chỉ ra rằng một nguyên nhân quan trọng nữa là do trẻ bị xúi giục, chỉ huy của người lớn và sự rủ rê của bạn bè. "Thực trạng phạm tội của học sinh - sinh viên Việt Nam trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà trường " của tác giả Vương Thanh Hương (Viện nghiên cứu phát triển giáo dục) đã nêu lên thực trạng tình hình phạm tội của học sinh - sinh viên trong đó nổi lên hàng đầu là các tội như trộm cắp tài sản công dân, cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, tội gây rối trật tự công cộng... Qua đó tác giả cũng nêu lên những nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội như thanh niên không có việc làm, đời sống của học sinh - sinh viên còn nhiều khó khăn thiếu thốn, thậm chí vì không đủ điều kiện có những em phải bỏ học giữa chừng. Trong khi đó thì công tác quản lý học sinh - sinh viên còn nhiều thiếu sót, nặng về hình thức, chủ yếu quản lý học sinh trong những giờ lên lớp còn ngoài thời gian đó thì nhà trường không quản lý nổi. Qua đó tác giả đã nêu lên tầm quan trọng trong công tác giáo dục nhận thức nói chung và công tác giáo dục pháp luật nói riêng cho học sinh - sinh viên, đây cũng là biện pháp để ngăn chặn tình trạng học sinh sinh viên phạm pháp. Trên thực tế hiện nay chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu thực trạng sử dụng các phương pháp giáo dục đối với thanh thiếu niên phạm pháp tại các trường Giáo dưỡng. Đây là đối tượng vi phạm pháp luật nhiều lần từ mức chưa nghiêm trọng đến mức rất nghiêm trọng do đó việc giáo dục các em chắc chắn phải được tổ chức và có những phương pháp, hình thức giáo dục đặc thù. Vì vậy mà chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài "Phương pháp giáo dục đối với thanh thiếu niên phạm pháp tại trường Giáo dưỡng số 4 Tỉnh Đồng Nai". 1.2. Cơ sở lí luận 1.2.1 Một số đặc điểm cơ bản ở lứa tuổi thanh thiếu niên 1.2.1.1 Đặc điểm phát triển sinh lý ở lứa tuổi thanh thiếu niên .  Lứa tuổi thiếu niên (từ 10-11 đến 14-15 tuổi): -Có sự nhảy vọt về chiều cao, có năm các em nữ có thể cao lên 5 -6 cm, các em nam cao lên từ 8 - 10 cm. Tuy nhiên sự phát triển của cơ bắp không theo kịp sự phát triển của chiều cao nên dẫn đến tình trạng chiều cao và chiều ngang của cơ thể bị mất cân đối. -Thiếu niên thường có những cơn xúc động mạnh, những phản ứng nóng nảy vô cớ, những hành vi bất thường. Do quá trình hưng phấn mạnh hơn ức chế nên thiếu niên ít làm chủ được bản thân, khó kiềm chế những cơn xức động mạnh. -Đặc điểm nổi bật trong sự phát triển sinh lý ở tuổi thiếu niên là hiện tượng dậy thì. Hiện tượng này đánh dấu bước phát triển và khá hoàn thiện về cấu tạo và chức năng của các cơ quan nội tiết. Dấu hiệu của hiện tượng dậy thì ở nữ là sự xuất hiện kinh nguyệt, ở nam là sự xuất hiện của hiện tượng xuất tinh. Nhìn chung thì sự cải tổ của các cơ quan nội tiết và hệ thống thần kinh là cơ sở quan trọng để gây ra sự mất cân bằng chung, tính dễ kích thích, dễ nổi nóng, gây gổ, tính hiếu động, hay tính uể oải và thờ ơ có chu kì ở thiếu niên. Cũng trong thời gian này, do đặc điểm thiếu niên rất dễ bị lôi kéo, sa vào các nhóm tự phát, các "băng đảng" có những hành động không lành mạnh, thậm chí vi phạm pháp luật vì những hành vi thiếu suy nghĩ.  Lứa tuổi đầu thanh niên (từ 15-16 đến 17-18 tuổi): Tuổi đầu thanh niên là thời kỳ mà sự phát triển thể chất của các em đang đi vào giai đoạn hoàn chỉnh như sự gia tăng chiều cao giảm dần, nữ từ khoảng 16-17 tuổi, nam khoảng 17-18 tuổi (±13 tháng). -Trọng lượng cơ thể phát triển nhanh, các tố chất thể lực như sức mạnh, sức bền, sự dẻo dai được tăng cường, cơ bắp phát triển mạnh. -Thời kỳ trưởng thành về giới tính, thời kỳ chấm dứt giai đoạn khủng hoảng của thời kỳ phát dục để chuyển sang thời kỳ ổn định hơn, cân bằng hơn. Như vậy, xét về mặt sinh lý thì ở lứa tuổi đầu thanh niên đã có sự phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện hơn so với giai đoạn trước. Sự phát triển của cơ thể mang tính ổn định là cơ sở quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển tâm lý nhân cách ở tuổi thanh niên. 1.2.1.2 Đặc điểm phát triển tâm lý - nhân cách ở lứa tuổi thanh thiếu niên  Đăc điểm chung về sự phát triển tâm lý - Những thay đổi cơ bản về mặt cơ thể làm cho thiếu niên nghĩ rằng "Mình không còn là trẻ con nữa". Thiếu niên ý thức và đánh giá được những biến chuyển trong sự phát triển thể chất, trong sự phát dục của mình. - Ở thiếu niên xuất hiện nguyện vọng muốn được làm người lớn và được đối xử như người lớn. - Thiếu niên thường có tâm lý "phóng đại" các năng lực của mình. Thiếu niên thường đánh giá bản thân mình cao hơn hiện thực. Tuy nhiên, nhìn chung người lớn thường vẫn xem thiếu niên như những đứa trẻ nhỏ, trong khi đó thì bản thân thiếu niên đã tự coi mình là người lớn, muốn được đối xử như người lớn. Để thể hiện sự bất bình của bản thân với người lớn, thiếu niên thường tỏ ra ngang bướng, tỏ ra "anh hùng" hay bất cần trong quan hệ với người lớn, trong những công việc hằng ngày hay như những thất bại mà thiếu niên đã trải qua. Những khó khăn mà thiếu niên mắc phải có tính chất tạm thời. Tuy nhiên, nếu người lớn vẫn tiếp tục giữ thái độ và cách cư xử với thiếu niên như ở giai đoạn trước thì mối quan hệ giữa người lớn và thiếu niên sẽ chuyển sang kiểu quan hệ đối lập dẫn đến những va chạm, xung khắc. Vì thiếu niên tin rằng người lớn không thể hiểu được chúng, từ đó dễ đưa thiếu niên đến chỗ xa lánh người lớn và phủ định người lớn. -Sang lứa tuổi đầu thanh niên thì cùng với sự thay đổi về vị trí xã hội thì các đặc điểm tâm lý trên đã dần đi vào ổn định.  Đặc điểm giao tiếp ở lứa tuổi thanh thiếu niên: Lứa tuổi thiếu niên: -Hoạt động giao tiếp là hoạt động chủ đạo ở tuổi thiếu niên. Thiếu niên muốn giao tiếp, muốn quan hệ với tất cả mọi người. Tuy nhiên, giao tiếp với bạn bè cùng tuổi luôn được thiếu niên hướng tới. Giao tiếp với bạn bè ở thiếu niên có ý nghĩa và có sự "hấp dẫn lạ lùng". Đôi khi, nó đẩy lùi hoạt động học tập xuống hàng thứ yếu, hạ thấp sự giao tiếp với những người thân trong gia đình. Mặt khác, khi quan hệ của thiếu niên và người lớn càng không suôn sẻ thì sự giao tiếp với bạn bè càng lớn và ảnh hưởng đến thiếu niên càng mạnh mẽ. -Bên cạnh khát vọng được giao tiếp, hoạt động chung với bạn cùng tuổi, thiếu niên còn có khát vọng được bạn bè tôn trọng và công nhận. Sự bất hòa, sự thiếu bạn thân, hoặc tình bạn bị phá vỡ đều sinh ra những cảm xúc nặng nề. Thiếu niên khó chịu đối với sự phê phán của tập thể, của bạn bè, sự đơn độc là trải nghiệm nặng nề và hầu như không chịu đựng nổi. -Điều quan trọng nhất đối với thiếu niên trong mối quan hệ bạn bè là những phẩm chất của người bạn, một người bạn tốt là người bạn trung thành, thủy chung, không bao giờ "phản lại" bạn bè của mình. Trong "Bộ luật tình bạn", thiếu niên lên án sự "thay lòng đổi dạ", sự ích kỷ, tham lam, khát vọng chỉ huy, phô trương ưu điểm của mình... Hoạt động giao tiếp với bạn bè chiếm một vị trí và ý nghĩa quan trọng. Do đó, nếu thiếu niên không được định hướng đúng đắn và nếu không có những nhóm bạn tích cực thì sự ảnh hưởng tiêu cực là rất lớn. Lứa tuổi đầu thanh niên: - Đặc điểm nổi bật ở lứa tuổi này là sự giao tiếp với người lớn, bạn bè ngày càng bình đẳng và độc lập, thanh niên thường cho rằng người lớn không đánh giá đúng đắn, nghiêm túc những gì mình nghĩ, những việc họ làm cũng như sự trưởng thành của họ. Bởi vậy, thanh niên thường có xu hướng lạnh nhạt xa lánh người lớn mà tìm kiếm sự đồng cảm, đồng tình ở các bạn cùng lứa tuổi. Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động giao tiếp ở giai đoạn đầu thanh niên đã có sự phát triển đáng kể hơn so với giai đoạn thiếu niên.  Đăc điểm về sự tự ý thức, tự đánh giá, ở lứa tuổi thanh thiếu niên: Ở tuổi thiếu niên: -Trên cơ sở của sự phát triển về mặt cơ thể và vị trí xã hội mới, thiếu niên tự ý thức bản thân mình có quyền được tôn trọng, được độc lập và được tin cậy như người lớn. -Thiếu niên đã bắt đầu biết phân tích những ưu khuyết điểm của bản thân. Khi đánh giá về bản thân mình thì sự đánh giá của thiếu niên có xu hướng cao hơn so với
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất