Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phong tục hôn nhân của ngƣời dao đỏ ở sa pa (2017)...

Tài liệu Phong tục hôn nhân của ngƣời dao đỏ ở sa pa (2017)

.PDF
49
37
114

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN ************** NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG PHONG TỤC HÔN NHÂN CỦA NGƢỜI DAO ĐỎ Ở SA PA KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: VIỆT NAM HỌC HÀ NỘI – 2017 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN ************** NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG PHONG TỤC HÔN NHÂN CỦA NGƢỜI DAO ĐỎ Ở SA PA KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: VIỆT NAM HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS NGUYỄN THỊ TÍNH HÀ NỘI – 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Thị Tính. Khóa luận có sử dụng tài liệu tham khảo của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. Hà Nội, ngày 20 tháng 02 năm 2017 Sinh viên Nguyễn Thị Lan Hương LỜI CẢM ƠN Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với TS Nguyễn Thị Tính đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu thông tin khoa học cần thiết trong suốt thời gian thực hiện khóa luận. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các Thầy, Cô giáo trong khoa Ngữ văn đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Khóa luận được hoàn thành, song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót.Tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía Thầy, Cô và các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 02 năm 2017 Sinh viên Nguyễn Thị Lan Hương MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 4 4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: ................................................................... 5 6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5 7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƢỜI DAO VÀ NGƢỜI DAO ĐỎ HUYỆN SAPA, TỈNH LÀO CAI .......................................................... 6 1.1 Khái quát về người Dao và người Dao ở Lào Cai .................................. 6 1.1.1. Khái quát về người Dao ở Việt Nam ............................................... 6 1.1.2. Nguồn gốc của người Dao .............................................................. 6 1.1.3. Địa bàn cư trú của người Dao ở Việt Nam ..................................... 7 1.1.4. Các nhóm ngôn ngữ - chữ viết của người Dao ............................... 8 1.1.5. Tổ chức xã hội của người Dao ........................................................ 9 1.1.6. Hoạt động sản xuất của người Dao ................................................ 9 1.1.7. Nhà cửa của người Dao ................................................................ 10 1.2 Người Dao Đỏ ở Lào Cai ...................................................................... 12 1.2.1. Lịch sử của người Dao ở Lào Cai................................................. 12 1.2.2.Các yếu tố văn hóa xã hội .............................................................. 17 1.2.3.Các yếu tố văn hóa tinh thần ......................................................... 18 1.2.4.Các dạng thầy cúng ........................................................................ 19 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 21 Chƣơng 2: NHỮNG PHONG TỤC HÔN NHÂN CỦA NGƢỜI DAO ĐỎ HUYỆN SAPA, TỈNH LÀO CAI................................................................. 22 2.1.Nguyên tắc trong hôn nhân ................................................................... 22 2.2.Hôn nhân truyền thống của người Dao Đỏ huyện SaPa ....................... 22 2.2.1. Các thủ tục nghi lễ trước đám cưới .............................................. 22 2.2.2. Trình tự các thủ tục nghi lễ trong đám cưới ................................. 24 2.2.3.Lễ lại mặt sau đám cưới ................................................................. 28 2.2.4. Hình thức lễ cưới của hai người ly hôn lấy nhau (cả hai bên đều đã từng cưới một lần) .............................................................................. 29 2.3.Một số tục lệ của người Dao Đỏ huyện SaPa ....................................... 31 2.3.1. Tục “cạy cửa ngủ thăm” của người Dao Đỏ............................... 31 2.3.2.Tục “Coong trình” của người Dao Đỏ .......................................... 33 2.3.3. Tục “Kéo vợ” của người Dao Đỏ ................................................. 34 Tiểu kết chương 2............................................................................................ 35 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 37 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 39 PHỤ LỤC TIẾNG DAO ĐỎ .......................................................................... 40 MỞ ĐẦU 1 L do chọn ề tài Tộc người Dao ở Việt Nam được các nhà khoa học xếp vào nhóm ngôn ngữ Mông - Dao thuộc ngữ hệ Nam Á trong chủng tộc Môngôlôit. Người Dao có nhiều nhóm địa phương như: Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Lô Gang (Dao Thanh Phán), Dao Quần Trắng, Dao Tuyển (Dao Áo Dài). Những đặc trưng văn hoá của các nhóm người Dao được thể hiện qua các dạng thức văn hoá vật thể, phi vật thể và các loại hình tổ chức xã hội như: Nhà ở, trang phục, ẩm thực, lễ cấp sắc, đám cưới, y học cổ truyền, tổ chức gia đình, làng bản với nhiều màu sắc riêng biệt. Người Dao tuy được chia làm nhiều nhóm khác nhau nhưng ngôn ngữ của họ là thống nhất cho thấy rõ mối quan hệ gắn kết giữa các cộng đồng người Dao với nhau. Người Dao sinh sống ở nhiều vùng, miền nhưng sinh hoạt cộng đồng vẫn mang tính chất khép kín, thể hiện qua phong tục tập quán, qua hôn nhân. Khi dựng vợ gả chồng cho con cái, người Dao chỉ mong gả trong nội bộ người Dao. Đó là một trong những cách để người Dao giữ gìn ngôn ngữ và phong tục tập quán của họ. Ở Lào Cai, người Dao ở huyện Sa Pa thuộc nhóm Dao Đỏ, biểu hiện rõ rệt nhất là trên trang phục của họ từ áo, quần, váy, đến khăn, thắt lưng. Trên trang phục nữ thì màu đỏ chiếm màu chủ đạo, nổi bật nhất là chiếc khăn đội đầu màu đỏ thắm của phụ nữ đặc biệt khi trở thành cô dâu về nhà chồng. Hôn nhân người Dao Đỏ ở Sa Pa là sự thể hiện nét đặc trưng trong văn hóa của họ, bởi đám cưới người Dao Đỏ trải qua rất nhiều nghi lễ vừa độc đáo lại vừa giữ được những phong tục của người xưa để lại. Nếu ai đã từng được tham dự hoặc nghe kể lại đám cưới người Dao Đỏ thì không thể nào không có ấn tượng với các nghi lễ hiếm có này. 1 Các nghi lễ đó là gì? diễn ra như thế nào? Ẩn chứa đằng sau những nghi lễ phức tạp đó là những vấn đề gì về giới, về vị thế xã hội, quan hệ cộng đồng, về dàn xếp các trật tự xã hội, về tâm linh, vũ trụ quan của người Dao Đỏ? Có thể thấy đám cưới của người Dao Đỏ không những những nét riêng, độc đáo so với nhiều tộc người khác như Thái, Mông mà còn có nét khác khi so với các nhóm người Dao cùng địa bàn sinh sống. Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều tục lệ của các tộc người thiểu số có phần bị mai một, nhưng ở tộc người Dao vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống của mình và chính điều đó góp phần làm nên bản sắc văn hóa của người Dao trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài:“Phong tục hôn nhân của ngƣời Dao Đỏ ở Sa Pa” 2 Lịch sử vấn ề Cho đến nay đã có các công trình nghiên cứu về người Dao và văn hóa người Dao, sơ lược điểm qua như sau: - Các công trình viết về các tộc người thiểu số có đề cập đến người Dao: Tác giả Hoàng Nam, trong sách Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người văn hóa Việt Nam [8], đã đề cập đến điều kiện tự nhiên, môi trường văn hóa các dân tộc ở Việt Nam, trong đó có người Dao. Tác giả Nguyễn Đăng Duy, với sách Nhận diện văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam [3], đã đề cập đến văn hóa các dân tộc thiểu sốViệt Nam trong đó có người Dao, cung cấp cho người đọc có những thông tin chung về văn hóa tộc người Dao. - Các công trình viết riêng về người Dao và văn hóa người Dao: Cuốn Người Dao ở Việt Nam [4] của tập thể tác giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến là công trình đã đề cập khá toàn diện về đời sống của người Dao trên lãnh thổ Việt Nam như dân số, địa vực, tên gọi các nhóm Dao, các hình thái kinh tế, sinh hoạt văn hóa vật chất, văn hóa 2 tinh thần, sinh hoạt xã hội và những đổi mới trong đời sống của người Dao từ cách mạng tháng Tám (1945) đến năm 1971. Cuốn Sách cổ người Dao - tập 3 “Những bài ca giáo lý [10], do Trần Hữu Sơn chủ biên là một trong các bộ sách ghi chép lại những lời hay, ý đẹp mang tính chất răn dạy giáo lý của người Dao. Trong đó có lời răn dạy quan hệ gia đình: con cái ngoan ngoãn, vợ chồng hoà thuận; có lời khuyên răn về lời ăn tiếng nói; trong lễ cưới, trước bàn thờ tổ tiên, đôi vợ chồng trẻ phải tự răn mình chung thuỷ, thương yêu lẫn nhau. Lời răn dạy là những câu nói có vần, có nhịp điệu; các lời răn dạy có nhiều loại hình khác nhau. Với người Dao, lời răn dạy như nguồn suối tắm mát chu kỳ đời người. - Có rất nhiều các công trình về đám cưới người Dao như: + Tác giả Trần Hữu Sơn, trong cuốn Lễ cưới người Dao Tuyển [9], đã trình bày khái quát chung về người Dao Tuyển và mô tả về lễ cưới người Dao nhóm Dao Tuyển khá đầy đủ chi tiết với cách tiếp cận dân tộc học. + Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, với công trình Đám cưới người Dao Nga Hoàng [7], đã trình bày khái quát về người Dao Nga Hoàng ở Yên Bái và một số hình thức lễ cưới của người Dao Nga Hoàng. Ngoài ra, còn có khá nhiều bài viết về lễ cưới của người Dao Đỏ đăng trên các báo, tạp chí điện tử như: Dân tộc Dao Đỏ ở Sa Pa, bài viết đã giới thiệu những nét cơ bản về tín ngưỡng của người Dao và người Dao Đỏ. - Chùm bài viết của tác giả Ngân Lượng “Lễ cưới người Dao Đỏ ở Sa Pa, LàoCai”, dulich.net; “Lễ nhập khẩu và đặt tên trong đám cưới người Dao”, vietbao.vn; “Đám cưới người Dao Đỏ trên Tả Van xanh”, Lào Cai.gov.vn mới dừng ở việc kể tên và giới thiệu về một vài nghi lễ trong đám cưới người Dao Đỏ và chủ yếu viết về cảm nhận của tác giả vô tình được chứng kiến lễ cưới người Dao Đỏ trong khi đi du lịch, các mô tả còn chung chung trong khuôn khổ quy định của một bài báo. Các công trình, bài viết trên 3 đã cung cấp cho tác giả luận văn những hiểu biết khái quát về điều kiện tự nhiên, môi trường kinh tế, ngôn ngữ, đời sống văn hóa và đám cưới người Dao. Đó là những gợi mở cần thiết cả về lý luận và thực tiễn để tôi thực hiện đề tài cho luận văn này. Như vậy, cho đến nay chưa có đề tài nào đi sâu khảo sát về hôn nhân và việc cưới xin của người Dao Đỏ ở tỉnh Lào Cai nói chung, ở người Dao Đỏ huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai nói riêng. Đề tài “Phong tục hôn nhân của người Dao Đỏ ở Sa Pa”, được thực hiện trên tinh thần khảo sát trung thực, đầy đủ, trình tự đám cưới của người Dao đỏ ở một địa bàn cụ thể, hy vọng sẽ bổ sung thêm cho những thành quả của các tác giả đi trước. 3 Mục tiêu nghiên cứu Phong tục là thói quen đã có từ lâu đời, đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo. Cùng với các phong tục, tập quán khác nhau, tục “Phong tục hôn nhân của người Dao Đỏ ở Sa Pa” góp phần làm cho văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa người Dao nói riêng trở nên đặc sắc. Qua đó biết được những giá trị đặc sắc của phong tục này. Để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm bảo tồn giá trị văn hóa ý nghĩa, đồng thời khắc phục những biến tướng của tục “coong trình” trong xã hội hiện nay. 4 Mục ích nghiên cứu Giúp bạn đọc có thể hiểu biết được về dân tộc Dao trên nhiều phương diện, đặc biệt là người Dao Đỏ. Đồng thời hiểu về nét đặc sắc của “Phong tục hôn nhân của người Dao Đỏ ở Sa Pa”. Ý nghĩa tốt đẹp của phong tục này khẳng định được những giá trị của “Phong tục hôn nhân của người Dao Đỏ ở Sa Pa”. Từ đó giúp bạn đọc có cái nhìn khái quát về dân tộc Dao và tục “coong trình” của người Dao Đỏ. Qua đó khẳng định sức sống lâu bền của giá trị văn hóa truyền thống. 4 5 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu: 5 1 Đối tƣợng nghiên cứu Nghi lễ hôn nhân người Dao Đỏ ở huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai bao gồm nội dung trình tự trước và sau lễ cưới. 5 2 Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu tìm hiểu các nghi lễ trong hôn nhân của người Dao Đỏ ở huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. 6 Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp thực địa. - Phương pháp lịch sử - so sánh. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành. 7 Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận gồm 2 chương: - Chương 1: Khái quát chung về người Dao ở Việt Nam - Chương 2: Những phong tục trong hôn nhân của người Dao Đỏ ở Sa Pa 5 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƢỜI DAO VÀ NGƢỜI DAO ĐỎ HUYỆN SAPA, TỈNH LÀO CAI 1.1 Khái quát về ngƣời Dao và ngƣời Dao ở Lào Cai 1.1.1. Khái quát về người Dao ở Việt Nam Người Dao (các tên gọi khác: Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền, Lù Gang, Làn Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu v.v) là một dân tộc có địa bàn cư trú truyền thống là nam Trung Quốc, và lân cận ở bắc phần tiểu vùng Đông Nam Á. Tại Trung Quốc người Dao là một trong số 56 dân tộc thiểu số ở được công nhận, (tiếng Hán: 瑶族, Pinyin: Yáo zú, nghĩa là Dao tộc) với dân số là 2.637.000 người. Người Dao cũng là một dân tộc thiểu số ở Lào, Myanma, Thái Lan. Người Dao là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam, với số dân là 751.067 người (2009). Ở Việt Nam, người Dao tuy có dân số không đông nhưng các bản làng của họ trải rộng tại các miền rừng núi phía Bắc (Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Tuyên Quang,...) đến một số tỉnh trung du như: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa Bình và miền biển Quảng Ninh (người Dao Thanh Y). Ngoài ra, người Dao còn chia ra thành nhiều nhóm khác nhau, với những nét riêng về phong tục tập quán mà biểu hiện rõ rệt nhất là trên trang phục của họ như: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Y, Dao Áo dài, Dao Quần Trắng,... Mặc dù, họ có nhiều nhóm người khác nhau. 1.1.2. Nguồn gốc của người Dao Theo kết quả nghiên cứu của Đề án "Sưu tầm kiểm kê kho sách cổ người Dao", do Tiến sĩ Trần Hữu Sơn (Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Thể thao Lào Cai) chủ trì có đăng tại thì: Người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) gồm 7 nhóm. Người Dao ở Việt Nam và ở Lào Cai có 3 nhóm: Dao Tuyển, Dao Nga Hoàng và Dao Làn Tẻn (còn gọi là Dao 6 Chàm) họ bắt đầu di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ 17). Để đến được đất Việt, sống ở vùng núi như ngày nay, người Dao đã phải trải qua cuộc hành trình muôn phần gian khổ vượt biển, vượt núi, vượt sông.Điều này phản ánh rõ trong nhiều phong tục, nghi lễ của người Dao và được ghi lại rất tỉ mỉ trong sách cổ. Người Dao di cư sang Việt Nam theo nhiều đợt từ đảo Hải Nam, qua Phòng Thành, tới Bắc Giang. Tới đây, họ di chuyển theo các hướng khác nhau là: - Theo sông Lô tới Hà Giang hình thành nên người Dao áo dài. - Theo sông Chảy tới Lào Cai, hậu duệ ngày nay gọi là Dao Tuyển. - Nhóm ở lại vùng Nga Hoàng thuộc Yên Lập, Yên Phúc một thời gian, sau đó di chuyển tới Văn Chấn (Yên Bái), rồi Văn Bàn (Lào Cai) là tổ tiên người Dao quần chẹt ngày nay. 1.1.3. Địa bàn cư trú của người Dao ở Việt Nam Dân tộc Dao cư trú chủ yếu ở biên giới Việt-Trung, Việt-Lào và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam. Cụ thể, đa phần tại các tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hòa Bình,… Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Dao ở Việt Nam có dân số 751.067 người, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Dao cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (109.708 người, chiếm 15,1% dân số toàn tỉnh và 14,6% tổng số người Dao tại Việt Nam), Tuyên Quang (90.618 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 12,1% tổng số người Dao tại Việt Nam), Lào Cai (88.379 người, chiếm 14,4% dân số toàn tỉnh và 11,8% tổng số người Dao tại Việt Nam), Yên Bái (83.888 người, chiếm 11,3% dân số toàn tỉnh và 11,2% tổng số người Dao tại Việt Nam), Quảng Ninh (59.156 người, chiếm 5,2% dân số toàn tỉnh), Bắc Kạn (51.801 người, chiếm 17,6% dân số toàn tỉnh), Cao Bằng (51.124 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh), 7 Lai Châu (48.745 người, chiếm 13,2% dân số toàn tỉnh), Lạng Sơn (25.666 người), Thái Nguyên (25.360 người) 1.1.4. Các nhóm ngôn ngữ - chữ viết của người Dao Có một số nhóm khác biệt trong phạm vi dân tộc Dao, và các nhóm này cũng nói bằng một vài ngôn ngữ từ các ngữ hệ khác nhau như: - Hệ ngôn ngữ H'Mông - Miền (Miêu - Dao): + Người Miền nói các thứ tiếng Miền (tiếng Trung: 勉語/勉语, HánViệt: Miễn ngữ) + Các ngôn ngữ Miền-Kim: o Tiếng Dìu Miền (Ưu Miền), khoảng 818.685 người (383.000 tại Trung Quốc, 350.000 tại Việt Nam, 40.000 tại Thái Lan, 20.250 tại Lào, 70.000 tại Hoa Kỳ) o Tiếng Kim Môn (còn gọi là tiếng Dao đồng bằng, tiếng Làn Tẻn, tiếng Lam Điện), trên 300.000 người Dao o Phương ngữ Phiêu Man, 20.000 người + Phương ngữ Tảo Mẫn, 60.000 người + Tiếng Miền Phiêu-Giao, 43.000 người + Tiếng H'Mông (hay tiếng Miêu) + Tiếng Bố Nỗ, 258.000 người + Phương ngữ Ngô Nại, 18.442 người + Phương ngữ Ưu Nặc, 9.716 người + Phương ngữ Huỳnh Nại, 1.078 người, còn được biết đến như là 'Hoa Lam Dao' + Một vài nhà ngôn ngữ học gộp nhóm các ngôn ngữ trên - với tổng cộng trên 287.000 người - cùng nhau như là các phương ngữ của tiếng Bố Nỗ (布努语). 8 - Hệ ngôn ngữ Tai-Kadai: Tiếng Lạp Già (拉珈語/拉珈语), 12.000 người - Tiếng Trung: Khoảng 500.000 người Dao nói các phương ngữ của tiếng Trung 1.1.5. Tổ chức xã hội của người Dao Những người đàn ông Dao đóng một vai trò thống trị trong gia đình, họ là người chia sẻ với cộng đồng và quản lý về kinh tế. Họ cũng đóng một vai trò quan trọng trong các nghi lễ như hôn nhân, đám tang, và xây dựng nhà mới. Người Dao có rất nhiều cái tên về gia đình khác nhau. Mỗi dòng họ có hệ thống tên riêng của mình để phân biệt giữa người của các thế hệ khác nhau. Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệdòng họ. Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau. 1.1.6. Hoạt động sản xuất của người Dao Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này haykhác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao Áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai… Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê. Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm. Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơicòn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạclà nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng 9 chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu… Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật. 1.1.7. Nhà cửa của người Dao Ở Việt Nam, người Dao về cơ bản có ba loại hình nhà ở chính : Nhà đất, nhà sàn (người Dao Quần Trắng ở Yên Bái) và nhà nửa sàn nửa đất (người Dao Đỏ ở Tả Phìn, Sa Pa, Lào Cai). Người Dao không có thợ làm nhà chuyên nghiệp mà mọi người trong thôn đều có thể làm được, kể cả phụ nữ. Người Dao có tập quán tương trợ lẫn nhau từ lâu đời. Mỗi khi trong thôn có người làm nhà thì mọi người tới làm giúp hoặc góp thêm nguyên vật liệu.Vì vậy, công việc được tiến hành rất nhanh chóng. - Loại hình nhà đất + Nhà đất là loại hình nhà ở đã có từ rất lâu đời và phổ biến trong cuộc sống của người Dao, nhà đất thường có ba hoặc năm gian đứng (không có chái). Người ta cho rằng: Có ở nhà nền đất thì mới có chỗ để cúng Bàn vương. + Bộ sườn của nhà nền đất được cấu tạo khá đơn giản. Thông thường, mỗi vì kèo chỉ có hai hoặc ba cột, một quá giang và một bộ kèo đơn. Với người Dao, nhà nền đất luôn mang tính chất bền vững, thích hợp với điều kiện sản xuất tương đối ổn định ở miền núi rừng. - Loại hình nhà sàn + Nhà sàn phổ biến ở những người Dao đã làm ruộng nước và sống gần người Tày, Nùng, Việt hoặc ở những thôn người Dao chuyên làm rẫy như: Dao Thanh Y, Dao Áo Dài, Dao Slán Chỉ. Nhà sàn được cất lên trên các gò đất thấp, dưới chân núi trong các thung lũng gần ruộng nước. 10 + Tuy nhiên, dù thế nào thì nhà sàn của người Dao vẫn mang những nét tiêu biểu riêng. Nhà sàn có sự thông gió trên mái và dưới sàn để tránh ẩm. Mái nhà độc đáo theo phong cách của người Dao với những tấm xà lớn được trang trí và lợp bằng lá cọ đảm bảo sự mát mẻ cho mùa hè nhưng lại ấm áp vào mùa đông. Mái nhà được xử lý một cách tự nhiên bằng khói từ ô sưởi vuông trong nhà, trong cách dựng nhà của người Dao có thể thấy sinh thái học hình thành từ xa xưa trước cả trào lưu về sinh thái. - Loại hình nhà nửa sàn - nửa đất + Nhà nửa sàn - nửa đất tập trung tại các làng người Dao sống bằng nương rẫy du canh, cư trú trên đất dốc, vì thế những ngôi nhà này chỉ là phương tiện cư trú tạm thời. Để làm nhà nửa sàn - nửa đất, người ta không phải bỏ ra nhiều công sức để san nền. Có thể nói, nhà nửa sàn - nửa đất không chỉ là một bước phát triển của loại hình nhà nền đất mà là một biến dạng của nhà nền đất để thích ứng với điều kiện sản xuất du canh du cư trên nền đất dốc. + Mặc dù có ba loại hình nhà ở khác nhau nhưng vẫn có thể nhận ra những nét chung trong kiến trúc nhà ở người Dao. Đó là vị trí và cách bố trí bên trong của một “gian đặc biệt” trong ngôi nhà. Gian này thường có vách chắn theo chiều dọc của nhà và có một đoạn vách ngăn giữa nó với gian bên, ở góc nhỏ này có bàn thờ, sau đoạn vách ngăn dọc là một buồng nhỉ thường để rượu hay thịt ướp chua. Cách bố trí của gian nhà này là đặc trưng nhà ở của người Dao. + Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết 11 điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hố, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được. + Nghi lễ Đạo để chọn đất cho một ngôi nhà mới là rất quan trọng. Vào buổi tối, hộ gia đình đào một lỗ nhỏ, cho vào đó vài hạt gạo để xin về người, bò, trâu, tiền và tài sản. Các gia đình đó sẽ biết được nơi để xây dựng nhà dựa trên những giấc mơ của họ trong đêm. Đến buổi sáng, các gia đình đào lỗ đó sẽ đến xem nếu gạo vẫn còn thì sẽ xây dựng nhà ở đó. Nếu không, ngôi nhà sẽ được xây dựng ở những nơi khác. 1.2 Ngƣời Dao Đỏ ở Lào Cai 1.2.1. Lịch sử của người Dao ở Lào Cai Ba trong 7 nhóm người Dao là Dao Tuyển, Dao Đỏ và Dao Nga Hoàng đã di cư đến Lào Cai từ rất sớm. Bảo Thắng, Bảo Yên là một trong hai huyện có người Dao Tuyển sống tập trung đông nhất của tỉnh Lào Cai. Theo tác giả Trần Hữu Sơn thì người Dao thiên di đến Lào Cai trong đó có Bảo Yên qua hai tuyến: - Tuyến thứ nhất: Vào cuối triều đại nhà Minh (thế kỷ XVII), người Dao Làn Tiẻn từ Quảng Đông vào Móng Cái (Quảng Ninh) qua Lục Ngạn sông Đuống đến vùng Yên Bái ngược sông Chảy lên Lào Cai. - Tuyến thứ hai: Vào năm Mậu Thân đầu triều Thanh (1668), người Dao đến Vân Nam ở hai vùng Vân Sơn và Mông Tự. Năm Tân Dậu triều Thanh (1801) người Dao từ Mông Tự đến Kiến Thủy, Hà Khẩu theo sông Hồng vào châu Thủy Vĩ (Lào Cai) và châu Chiêu Tấn (Lai Châu). Như vậy, khoảng những năm cuối thế kỷ XIX người Dao đã có mặt ở Lào Cai cho đến tận ngày nay. Nguyên nhân di cư của người Dao là do sự đàn áp các phong trào khởi nghĩa người Dao của các triều đình phong kiến Trung Quốc. Nguyên nhân thứ hai là do thời đó Trung Quốc hạn hán, đất chật người đông lại thấy Việt Nam 12 đất tốt, dễ làm ăn nên người Dao di cư vào Việt Nam. Những câu chuyện kể về quá trình thiên di đó vẫn được hát lại, kể lại trong những lá thư “tín ca” hay trong các nghi lễ. Hiện người Dao ở Lào Cai có trên 72.000 người, gồm hai ngành Dao khác nhau là Dao Đỏ (Dao Đại Bản, Dao Coóc Ngáng), Dao Họ (Dao Quần Trắng), Dao Tuyển (Làn Tiẻn). Trong đó đông hơn cả là Dao Đỏ với trên 48.000 người tập trung ở các xã vùng cao huyện Sa Pa, Bát Xát, Văn Bàn, Bảo Yên, Bảo Thắng, Bắc Hà. Người Dao Tuyển ở các huyện Bảo Thắng, Mường Khương, Bảo Yên; Người Dao Họ cư trú ở các huyện Bảo Thắng, Bảo Yên và huyện Văn Bàn [10]. Về cơ bản người Dao ở Lào Cai cũng mang những đặc điểm về cư trú, sinh kế như người Dao ở các địa phương miền núi khác ở Việt Nam. 1.2.1. Các ếu tố v n hóa tru ền thống * Ẩm thực: - Thường người Dao Đỏ ăn ngày hai bữa, những ngày mùa màng nặng nhọc thì ăn ba bữa. Các món ăn chủ yếu là cơm tẻ, đậu (hạt đỗ tương làm các món đậu: rán, canh), rau cải nương. Riêng món thịt lợn nấu quả mây chua, thịt chim viên trứng là hai món ngon nhất của người Dao Đỏ thường chỉ ăn trong dịp tết và cưới xin. Gia vị trong các bữa ăn không thể thiếu là ớt khô giã nhỏ như bột. - Trong cỗ cưới của người Dao Đỏ có rất nhiều món được chế biến từ thịt lợn nhưng không thể thiếu món canh xương hầm củ giềng, xương sườn băm nhỏ nấu quả mây chua và món nướng từ thịt và bong bóng lợn. Đặc biệt thịt gà chỉ làm một món duy nhất là gà luộc, khi làm lễ cúng và trong lễ cưới chỉ có người quan trọng (thầy cúng, khách mời nhà gái) mới được gia chủ mời ăn gà, quý nhất là đầu gà. 13 - Nếu là khách quý được gia chủ mời đầu gà, mình lại gắp vào bát mời người hơn tuổi thì gia chủ rất thích vì họ cho rằng mình là người biết cư xử trước sau, trọng nghĩa trọng tình. * Trang phục Trong tục cưới xin người Dao Đỏ đặc biệt quan tâm tới việc chuẩn bị trang phục cho cô dâu chú rể. Có thể coi bộ trang phục như là một nét văn hóa đặc trưng của người Dao Đỏ. Trong các nhóm Dao sinh sống ở Lào Cai, có lẽ y phục và trang phục của người Dao Đỏ là nổi bật hơn cả, nghệ thuật trang trí bộ trang phục đã thể hiện sự khéo léo và sự cảm nhận hết sức tinh tế của người Dao Đỏ nơi đây. Sự đa dạng của các bộ trang phục như áo, mũ của nam giới; khăn, quần áo của nữ giới; áo dài của thầy cúng trong lễ thắp đèn (cấp sắc)… đặc biệt là bộ trang phục cưới của cô dâu, chú rể đã cho thấy sự đặc sắc đó. Trang phục của nữ giới: Đặc điểm nổi bật của nhóm Dao Đỏ là phụ nữ dung nhiều màu đỏ trên trang trí trang phục như: hoa văn, tua len, núm bông... Chiếc áo được trang trí tạo điểm nhấn rất tinh tế, cách thức thêu ngược mặt sau và thêu luồn rất phức tạp, nhấn thêu ở hai vạt dài trước ngực khoảng 7cm, chia làm 4 lớp thêu nối liền nhau: đầu tiên là lặp lại 2 đường diềm trên khăn xuống, tiếp đó là đường dải dài dọc. Đẹp nhất là dây thêu hình kỷ hà màu đen trắng lạ mắt và cuối cùng là len bông xanh, đỏ, vàng đan xen nhau rực rỡ. Riêng chiếc quần cắt theo kiểu chân què, trang trí từ gấu lên đến ngang đùi, được trang trí 4 lớp: Đầu tiên là lặp lại 4 đường trên khăn và nẹp áo, sau đó đến mảng chia ô, tiếp đến là đường hoa và cuối cùng là hình cây lá. Không chỉ có vậy, sau khi may xong bộ quần áo, phụ nữ Dao Đỏ còn phải may riêng dải áo sau lưng, hàng dây áo dải bạc đằng trước và dải quần phía sau, phía trước mà người dân Sa Pa hay trêu đùa là “biển số”… Tất cả được thêu theo 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất