Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong quân đội nhân dân việt nam h...

Tài liệu Phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong quân đội nhân dân việt nam hiện nay

.DOC
191
2
73

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Đoàn Văn Tự MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1 1.2 Tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết 10 10 23 Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN TƯ DUY SÁNG TẠO CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 2.1. 2.2. Tư duy sáng tạo và thực chất phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam Những nhân tố cơ bản quy định phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam Chương 3 THỰC TRẠNG, NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU PHÁT TRIỂN TƯ DUY SÁNG TẠO CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. 3.2. 30 30 54 79 Thực trạng phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 79 Dự báo những yếu tố tác động và yêu cầu phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 105 Chương 4 MÔT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN TƯ DUY SÁNG TẠO CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 118 4.1. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên hiện nay 118 4.2. Tăng cường rèn luyện chính trị viên trong hoạt động thực tiễn quân sự và xây dựng môi trường thuận lợi ở đơn vị nhằm phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên 138 4.3. Phát huy vai trò của các chủ thể trong phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên hiện nay 147 KẾT LUẬN 159 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 161 162 172 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam là người chủ trì về chính trị, chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp ủy cùng cấp về toàn bộ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị cấp phân đội. Là người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, trong điều kiện thực tiễn sinh động, phong phú, phức tạp ở đơn vị, chính trị viên cần phải có tư duy sáng tạo, nhạy bén, tránh bảo thủ, giáo điều. Cùng với phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực công tác tốt, có uy tín cao, tư duy sáng tạo sẽ giúp chính trị viên linh hoạt, năng động, kịp thời đưa ra những nội dung, phương thức mới, độc đáo, hiệu quả để nâng cao chất lượng chủ trì về chính trị, chất lượng hoạt động công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị cấp phân đội, góp phần xây dựng đơn vị, Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở xây dựng đơn vị, Quân đội vững mạnh toàn diện. Những năm qua, cùng với quá trình đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 51/NQ - TW của Bộ Chính trị khóa IX “Về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã nhận thức được tầm quan trọng và chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động giáo dục, bồi dưỡng phát triển phẩm chất và năng lực toàn diện cho chính trị viên, trong đó phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên là một trong những ưu tiên hàng đầu. Ở nhà trường, công tác đào tạo chính trị viên đã hướng mạnh hơn đến phát huy tính tích cực, rèn luyện tư duy sáng tạo cho người học gắn với đổi mới chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giảng dạy. Ở đơn vị, nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị về phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, phát triển tư duy sáng tạo của 6 chính trị viên hiện nay còn có những hạn chế, biểu hiện trong công tác đào tạo, bồi dưỡng chính trị viên, trong nhận thức, trách nhiệm của của cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị,... Một bộ phận chính trị viên còn chưa linh hoạt, sáng tạo trong chủ trì về chính trị, trong tiến hành hoạt động công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị, còn thụ động, rập khuôn, lệ thuộc vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên dẫn đến chất lượng công tác còn hạn chế. Hiện nay và những năm tới, trước sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, tư duy sáng tạo của con người càng trở thành tiêu chí, yêu cầu vô cùng quan trọng đối với mọi lĩnh vực xã hội. Những tác động của tình hình thế giới, khu vực, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch; tác động của công nghệ trí tuệ nhân tạo đến lĩnh vực quân sự, sự xuất hiện của các loại hình chiến tranh kiểu mới (chiến tranh mạng, chiến tranh thông tin,…); nhiệm vụ xây dựng quân đội tiếp tục đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực của người cán bộ quân đội, trong đó có chính trị viên. Theo đó, phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên là đặc biệt quan trọng và cấp thiết. Tư duy sáng tạo giúp chính trị viên linh hoạt, nhạy bén, kịp thời xử lý có hiệu quả các nhiệm vụ, các tình huống nảy sinh trong hoạt động thực tiễn ở đơn vị cấp phân đội, hoàn thành tốt hơn cương vị chủ trì về chính trị, lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong tình hình mới. Bên cạnh đó, vấn đề phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn. Từ những lý do nêu trên, việc lựa chọn vấn đề “Phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận án có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 7 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Trên cơ sở những vấn đề về lý luận và phân tích thực trạng tình hình phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam, luận án đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Làm rõ thực chất và những nhân tố cơ bản quy định phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Đánh giá thực trạng, dự báo những yếu tố tác động và yêu cầu phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Về không gian: Nghiên cứu, khảo sát những vấn đề liên quan phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên ở một số đơn vị thuộc các sư đoàn bộ binh đủ quân phía bắc và công tác đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị. Về thời gian: Luận án sử dụng các tài liệu, số liệu phục vụ công tác nghiên cứu chủ yếu trong khoảng thời gian từ năm 2014 - 2019. 8 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Luận án dựa trên hệ thống cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý luận nhận thức, về con người, về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt về xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội. Cơ sở thực tiễn Luận án dựa vào tình hình phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, chủ yếu thông qua các kết quả điều tra, khảo sát của tác giả và những số liệu báo cáo, tổng kết của các cơ quan, đơn vị, nhà trường có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chung là hệ thống phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: khái quát hóa và trừu tượng hóa, hệ thống và cấu trúc, lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia,… để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. 5. Những đóng góp mới của luận án Quan niệm về tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam, thực chất phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Những nhân tố cơ bản quy định phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Giải pháp cơ bản phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. 9 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận án Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khái quát, bổ sung một số vấn đề lý luận khoa học về phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Ý nghĩa thực tiễn Luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học trong việc thực hiện các giải pháp thúc đẩy quá trình phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học về các nội dung liên quan. 7. Kết cấu của luận án Luận án có kết cấu gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 10 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến tư duy, tư duy sáng tạo và phát triển tư duy sáng tạo Những công trình ở nước ngoài: Tác giả I. Ia. Lecne với công trình “Dạy học nêu vấn đề” [46] đã chỉ ra bản chất tư duy: “Tư duy, nhằm mục đích nhận thức thế giới, là quá trình xác lập những liên hệ giữa các tri thức về thực tại và xây dựng những tri thức mới” [46, tr. 15]. Tác giả cho rằng, có hai kiểu tư duy cá nhân: một kiểu là tư duy tái tạo cái đã biết, đã gặp; kiểu kia là tư duy sáng tạo, tức là tư duy để tìm ra cái mới. Quá trình sáng tạo của tư duy có các đặc trưng: có sự tự lực chuyển các tri thức và kỹ năng sang một tình huống mới; nhìn thấy những vấn đề mới trong các điều kiện quen biết “đúng quy cách”; nhìn thấy chức năng mới của đối tượng quen biết; nhìn thấy cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu. Trong công trình “Những vấn đề cơ bản của triết học” [30], tác giả S. E. Frost nhận định: “Tất cả chúng ta đều có những ý tưởng hoặc những tư duy, chúng ta nhìn thấy thế giới xung quanh và nhớ những gì chúng ta nhìn thấy. Chúng ta đưa ra những sự suy luận từ thực tế mà chúng ta cảm nhận, rút ra kết luận và biến chúng thành nền tảng cơ sở cho hành động của chúng ta. Chúng ta đã cho rằng “con người” là sinh vật sống biết tư duy” [30, tr. 310]. Tác giả phân tích, có một số công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng tư duy sáng tạo tiến lên nhờ ba giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị, người tư duy sẽ nghiên cứu vấn đề của mình một cách cẩn thận và thu thập dữ liệu thích đáng về nó; giai đoạn ấp ủ những dữ liệu này; giai đoạn cá nhân cảm nhận sự lóe lên của một 11 giả thuyết về giải pháp có thể, giả thuyết này được kiểm định cả về trí tuệ và thực tế để phát hiện xem nó có đầy đủ hay không. Trong công trình “Những cơ sở của tâm lý học sư phạm” [10], tác giả V. A. Cruchetxki từ góc độ tiếp cận của tâm lý học đã đưa ra ba cấp độ của tư duy, đó là những cấp độ tư duy khác nhau, có mối quan hệ biện chứng, cấp độ tư duy này làm tiền đề cho cấp độ tư duy kia. Tác giả luận giải mối quan hệ giữa các khái niệm: “tư duy tích cực”, “tư duy độc lập” và “tư duy sáng tạo”. Tác giả quan niệm, tư duy sáng tạo là sự kết hợp cao nhất, hoàn thiện nhất của tư duy độc lập và tư duy tích cực. Tư duy sáng tạo không phụ thuộc vào cái đã có, tính độc lập của nó biểu hiện ở việc đạt mục đích cũng như giải pháp. Tác giả Zeng Hua với công trình “Tự đột phá mình, bí quyết tư duy của những người thành đạt” [37] cho rằng, thế giới hiện nay đang biến đổi rất mạnh mẽ, phương thức tư duy của con người cũng đòi hỏi phải có sự đột phá mới có thể theo kịp bước đi của thời đại. Theo tác giả, tư duy sáng tạo là thành quả riêng có của loài người. Tư duy sáng tạo khác với tư duy dạng bảo thủ là nó đột phá quy phạm của tư duy truyền thống, không bị ràng buộc, có tính mới mẻ và tính sáng tạo; là “hoạt động tư duy dùng phương thức mới để giải quyết vấn đề,…, mang tính chủ động, tính đặc biệt rõ ràng” [37, tr. 70]. Nghiên cứu về tư duy của người chỉ huy quân sự, tác giả A. Ph. Sramtrenco với công trình “Những vấn đề tâm lý học trong chỉ huy bộ đội” [81], cho rằng: “Tư duy là quá trình nhận thức cao nhất, thực chất của nó là phản ánh vào ý thức con người hiện thực khách quan trong mối liên hệ và quan hệ bản chất nhất, có tính quy luật… Tư duy là đòn bẩy mạnh mẽ trong việc nhận thức hiện thực” [81, tr. 51]. Theo tác giả, tư duy của người chỉ huy quân sự có các phẩm chất: độ sâu, rộng, tầm nhìn xa, độ nhanh, tính mềm dẻo, óc phê phán, tính độc lập, lòng dũng cảm, sự thận trọng, sự khôn ngoan, tính rõ ràng và giản dị. Tư duy của người chỉ huy phải có tính sáng tạo, bởi vì chẳng những lối tư duy giáo điều mà cả lối tư duy logic hình thức vốn thiếu tính chất mềm nhuyễn khi phán đoán và thiếu đi nắm bản chất tình huống, cũng đều 12 không đem lại một hoạt động có kết quả cho người chỉ huy khi chỉ huy bộ đội trong tình huống phức tạp và biến đổi nhanh chóng. Các công trình: “Tự học cách tư duy - Tư duy hoàn hảo” [5] của tác giả Edward De Bono; “Phương pháp tư duy siêu tốc” [11] của hai tác giả Bobbi Deporter và Mike Hernacki đều cho rằng tư duy sáng tạo là một thuộc tính bản chất, là kỹ năng cơ bản nhất, phổ biến, vốn có của con người, do đó, có thể được phát triển thông qua học và luyện tập. Tư duy sáng tạo nếu không được rèn luyện, củng cố thì sẽ mai một. Theo Edward De Bono, “…thực thi nhiệm vụ, đàm phán và cả giải quyết vấn đề đều đòi hỏi tư duy sáng tạo. Sáng tạo là một trong những thành phần then chốt trong tư duy. Mục đích của nó là đưa ra những ý tưởng mới và những sự lựa chọn sáng suốt” [5, tr. 105 - 106]. Hai tác giả Bobbi Deporter & Mike Hernacki cho rằng: “Tất cả chúng ta cũng có thể trở thành nhà tư tưởng sáng tạo, có khả năng giải quyết mọi vấn đề. Điều cần thiết là phải có trí tò mò, sẵn sàng mạo hiểm, và ham muốn làm mọi việc một cách hiệu quả” [11, tr. 298]. Các tác giả cũng đã chỉ ra vai trò của môi trường sáng tạo và những quy tắc nhất định khi các chủ thể tiến hành hoạt động sáng tạo phải tuân thủ theo chúng. Dù bất luận thế nào thì khởi nguồn, tiền đề của tư duy sáng tạo đều xuất phát từ tri thức, kiến thức, “hãy tự trang bị cho mình càng nhiều tri thức càng tốt. Và hãy để cho những tri thức đó tỏa sáng” [11, tr. 346]. Tác giả Ađam Khoo với công trình “Làm chủ tư duy, thay đổi vận mệnh” [45] đã có những nghiên cứu về phương pháp giúp con người làm chủ cảm xúc và giải phóng tư duy để đạt được những kết quả tối ưu trong công việc. Tác giả cho rằng, trong mỗi người đã có tất cả những điều kiện cần thiết để thành công nếu như họ chủ động tìm kiếm và chuẩn bị cho nó. Theo tác giả, “một khi bạn đã học được cách lập trình bộ não của mình và biết cách cài đặt các chương trình mới ưu việt hơn, bạn sẽ thay đổi được cách tư duy và hành động của bản thân. Từ đó, bằng cách luôn suy nghĩ và hành động tích cực, bạn có thể đạt được bất cứ thành công nào mà bạn mong muốn” [45, tr. 10]. Niềm tin chính là công tắc đóng mở những tiềm năng phi thường trong mỗi con người. 13 Tác giả David Schwartz với công trình “Dám nghĩ lớn” [79] cho rằng, “người thành công và kẻ thất bại chỉ khác nhau ở cách nghĩ”. Theo đó, vấn đề suy nghĩ sáng tạo được tác giả đặc biệt quan tâm đề cập trong công trình này. “Suy nghĩ sáng tạo - hiểu một cách đơn giản - nằm ở chỗ bạn tìm ra những cách thức mới mẻ, hợp lý và tiến bộ hơn để giải quyết một công việc nào đó” [79, tr. 126]. Tác giả cũng chỉ ra những công cụ giúp mỗi người có suy nghĩ sáng tạo. Những công trình ở trong nước: Tác giả Hồ Bá Thâm với công trình “Phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo hiện nay” [86] cho rằng: năng lực tư duy, đặc biệt ở người lãnh đạo, quản lý có tác dụng lớn đến hoạt động thực tiễn của họ và thông qua đó ảnh hưởng đến sự phát triển xã hội. Tác giả chỉ ra bốn yếu tố mang tính đặc trưng cơ bản cấu thành năng lực tư duy: một là, yếu tố thấp của năng lực tư duy là năng lực ghi nhớ, tái hiện, vận dụng những khái niệm, hình tượng khái quát do cảm tính mang lại hoặc tiếp thu qua sách vở; hai là, năng lực cơ bản của tư duy là trừu tượng hóa, khái quát quát hóa trong phân tích và tổng hợp; ba là, liên tưởng, suy luận sáng tạo là một loại năng lực cơ bản bậc cao của tư duy, nhờ đó mà tư duy tìm được mối liên hệ bản chất, có khả năng vạch ra cái mới, dẫn đến phát hiện và khám phá; bốn là, trực giác với linh cảm, lóe sáng, tức thời… từ chiều sâu trí tuệ, là sản phẩm của quá trình tích lũy, chiêm nghiệm trong quan sát, nghiên cứu chứ không phải thần bí. Với công trình “Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con người” [41], tác giả Nguyễn Văn Huyên khẳng định: “trong hàng chục thế kỷ đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam vốn thông minh và có trí tuệ sáng tạo tuyệt vời đã từng chiến thắng hết đế quốc này đến đế quốc khác với những phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất của chúng.” [41, tr. 99]. Để trả lời cho vấn đề được nêu ra là làm thế nào để bản chất sáng tạo của con người được phát huy mạnh mẽ hơn nữa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tác giả đã chỉ ra những điều kiện, tiền đề tâm lý - xã hội, chủ quan và khách quan nhằm tạo nên bầu không khí tâm lý sáng tạo, như: vốn tri thức, năng lực trí tuệ của con người; 14 trạng thái tinh thần sẵn sàng công phá cái định hình tù túng, vượt thoát cái cũ lỗi thời để nắm bắt cái mới; sự công bằng xã hội… Trong công trình “Giáo dục đại học, phương pháp dạy và học” [66], tác giả Lê Đức Ngọc cho rằng: “Tư duy, nghĩa là suy nghĩ, lập luận hệ thống, lôgic và có chứng cứ; là một đặc tính quan trọng của trí tuệ con người. Người ta có thể học được các kỹ năng tư duy và nó giúp cho con người trở nên độc đáo, sáng tạo và cách tân trong giải quyết vấn đề” [66, tr. 68]. Theo tác giả, trong quá trình dạy học, để phát triển tư duy cho sinh viên, giảng viên cần phải: đề xuất các vấn đề, tình huống, mâu thuẫn,… nhằm tạo ra sự thách thức và cuốn hút cho sinh viên suy nghĩ; xây dựng môi trường học tập mà trong đó khuyến khích tư duy phát triển; tích cực quan tâm, nhận xét, tạo niềm tin, khích lệ sinh viên có những ý tưởng sáng tạo. Tác giả Phan Dũng với công trình “Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới”[13] đã có những nghiên cứu rất công phu về vấn đề tư duy sáng tạo, đó là hệ thống các phương pháp, các kỹ năng cụ thể giúp nâng cao năng suất và hiệu quả quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định của con người. Theo tác giả, “sáng tạo là hoạt động tạo ra bất kỳ cái gì có đồng thời tính mới và tính ích lợi” [13, tr. 21]. Từ sự khẳng định, cuộc đời mỗi con người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra, mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng, tác giả cho rằng quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định là tư duy sáng tạo. Tác giả định nghĩa: “Tư duy sáng tạo (creative thinking) là quá trình suy nghĩ đưa người giải: 1) Từ không biết cách đạt đến mục đích đến biết cách đạt đến mục đích, hoặc 2) Từ không biết cách tối ưu đạt đến mục đích đến biết cách tối ưu đạt đến mục đích trong một số cách đã biết” [13, tr. 31]. Trong công trình “Tâm lý học sáng tạo” [63], tác giả Phạm Thành Nghị chỉ ra rằng, trong cuộc sống hằng ngày, con người thường xuyên phải suy nghĩ và hành động để giải quyết vấn đề mới nảy sinh trong công việc và cuộc sống một cách sáng tạo do điều kiện giải quyết vấn đề thay đổi cùng với sự thay đổi thường xuyên của môi trường xung quanh. Mọi hoạt động của con 15 người ở những mức độ khác nhau đều có liên quan đến sáng tạo. Sáng tạo là quá trình tiến tới cái mới, là năng lực tạo ra cái mới, sáng tạo được đánh giá trên cơ sở sản phẩm mới, độc đáo và có giá trị. Sáng tạo có các thuộc tính: tính độc đáo, tính thành thục, tính mềm dẻo, tính chi tiết và tính nhạy cảm vấn đề. Tư duy sáng tạo được khuyến khích bởi động cơ bên trong, lòng say mê, hứng thú với đối tượng và vấn đề nhận thức. Tác giả Trần Văn Phòng với công trình “Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội” [70], cho rằng, năng lực tư duy là những phẩm chất trí tuệ của con người nhằm đáp ứng yêu cầu nhận thức đúng đắn bản chất thế giới tự nhiên, xã hội, con người, bảo đảm cho hoạt động thực tiễn và hoạt động sáng tạo của con người phù hợp với quy luật, đạt hiệu quả. Bằng việc cụ thể hóa các yếu tố cơ bản hợp thành năng lực tư duy của chủ thể, tác giả xem đó như là tư chất trí tuệ, phẩm chất sáng tạo của họ được huy động vào quá trình tiếp thu tri thức khoa học, vào nhận thức khách thể ở tầm lý luận, vận dụng tri thức khoa học đã biết vào hoạt động thực tiễn mang lại hiệu quả và có khả năng sáng tạo ra những tri thức mới. Trong công trình “Sáng tạo và những điều kiện chủ yếu để kích thích sự sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay” [35], tác giả Lê Huy Hoàng quan niệm: Sáng tạo là sự vượt thoát cái cũ, cái đã lỗi thời hay nói cách khác, là sự vượt ra khỏi những giới hạn thông thường, nhằm giải quyết những nhiệm vụ mới nảy sinh, khám phá và tạo ra cái mới, cái thể hiện một sự tiến bộ hơn - cái mà bao giờ cũng bao chứa sự vượt thoát về chất, đạt tới một trình độ cao hơn tất cả những gì đã có trước đó trong sự vật, hiện tượng, cả về nội dung cũng như về hình thức, luôn có trong mọi lĩnh vực hoạt động sống của con người. Cùng với việc chỉ ra một số loại hình sáng tạo trong hoạt động sống của con người, tác giả đã khái quát về những yếu tố chủ quan và khách quan quy định năng lực sáng tạo của con người. 16 Tác giả Nguyễn Mạnh Cương với công trình “Về bản chất của tư duy” [8] khẳng định, tư duy là sản phẩm của một cơ quan vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người; được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái quát, gián tiếp, tích cực và sáng tạo về thế giới. Nói đến tính sáng tạo của tư duy là nói đến sự hình thành tri thức mới về các mối liên hệ và quan hệ, về tính quy luật khách quan chi phối sự phát triển của các sự kiện và quá trình lịch sử, về bản chất của các khách thể. Trên con đường nhận thức chân lý, chủ thể tư duy huy động một cách sáng tạo vốn tri thức phong phú đã có, bao gồm cả kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp; huy động không chỉ tri thức lý luận chung, mà cả sự am hiểu cần thiết, cụ thể về những lĩnh vực “có vấn đề”. Thiếu vốn tri thức phong phú của cuộc sống sẽ không có tư duy sáng tạo. Trong công trình “Tư duy logic và bản chất của tư duy khoa học” [108], tác giả Vũ Văn Viên đã phân tích một cách khái quát các nghĩa khác nhau của khái niệm tư duy; trên cơ sở đó, làm rõ bản chất của tư duy logic - tư duy theo tính tất yếu của nó, là cái chung vốn có của mọi con người cụ thể. Trên lập trường duy vật biện chứng, tác giả chỉ ra rằng, thuật ngữ tư duy là thuật ngữ đa nghĩa, trong đó có ba nghĩa thường được sử dụng: 1) Theo nghĩa rộng nhất (triết học), tư duy đối lập với tồn tại giống như ý thức đối lập với vật chất, tinh thần đối lập với tự nhiên; 2) Tư duy là những chuẩn mực được hình thành trong lịch sử hoặc được chủ thể tự giác lựa chọn và chúng có vị trí chi phối hoạt động của con người, trong đó có hoạt động tư duy tại một thời điểm, một phạm vi nhất định; 3) Xét từ góc độ logic học, tư duy với tư cách hoạt động của não người nhằm sản xuất ra tri thức, còn gọi là tư duy đang nhận thức. Trên cơ sở vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về tư duy, trong công trình “Về bản chất của tư duy sáng tạo” [43], tác giả Đào Thị Hữu đã phân tích, làm rõ thêm cách hiểu về tư duy sáng tạo, chỉ ra bản chất và tiêu chí của tư duy sáng tạo. Tư duy không chỉ phản ánh bản chất, tính quy luật của thế giới khách quan một cách đặc thù, mà còn là quá trình vận động 17 không ngừng để đạt tới chân lý khách quan. Quá trình vận động tới chân lý khách quan cũng là quá trình tư duy tìm tòi, phát hiện ra cái mới, sáng tạo ra tri thức mới về thuộc tính, mối liên hệ bản chất của các đối tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội. Theo tác giả, “năng lực tư duy biết nhìn ra giới hạn và vượt qua giới hạn của chính mình, khai mở những cách thức suy tư mới mẻ - đó là thực chất của tư duy sáng tạo” [43, tr. 79]. 1.1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam Tác giả Nguyễn Quang Phát với công trình “Xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”[67] đã khái quát những luận điểm chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đội ngũ chính ủy, chính trị viên, trong đó khẳng định đội ngũ này “có vai trò quan trọng hàng đầu đối với việc quán triệt đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng, của quân đội, của đơn vị, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ thấu suốt với nhiệm vụ, có quyết tâm cao, hăng hái, tích cực, chủ động, sáng tạo hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao” [67, tr. 31]. Theo tác giả, trước sự phát triển của tình hình mới, của nhiệm vụ xây dựng quân đội hiện nay đang đặt ra những yêu cầu rất cao, rất toàn diện đối với người cán bộ chủ trì về chính trị, cả về bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ; cả về tư cách đạo đức, lối sống và trình độ tổ chức thực tiễn. Trong đó, vấn đề năng lực trí tuệ, tư duy sáng tạo của chính ủy, chính trị viên được tác giả đặc biệt nhấn mạnh. Một trong những giải pháp được tác giả coi trọng nhằm góp phần nâng cao năng lực trí tuệ của chính ủy, chính trị viên là tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng chính ủy, chính trị viên. Trong công trình “Kinh nghiệm công tác chính ủy, chính trị viên” [7], tác giả Phạm Hồng Cư đã khái quát về mặt lý luận, chỉ ra vai trò, vị trí cũng như những kinh nghiệm công tác của người chính ủy, chính trị viên. Một trong những kinh nghiệm được tác giả nhấn mạnh đó là: “Nắm vững 18 và thực hiện sáng tạo chức trách của chính ủy, chính trị viên” [7, tr. 71]. Tác giả đã nêu ra những yêu cầu, trong đó rất chú trọng sự linh hoạt, sáng tạo trong thực hiện các nội dung nhiệm vụ cụ thể của chính trị viên. Những khái quát về mặt lý luận và cả những dẫn chứng từ thực tiễn lịch sử của tác giả trong cuốn sách giúp nghiên cứu sinh có thêm những tư liệu để đi sâu nghiên cứu về đặc điểm, yêu cầu phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Trong công trình “Cơ sở tâm lý học của phát triển tư duy sáng tạo ở học viên sĩ quan trong nhà trường quân đội” [1], tác giả Bùi Tuấn Anh đã đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận của phát triển tư duy sáng tạo ở học viên sĩ quan. Từ góc độ tiếp cận tâm lý học, tác giả chỉ ra các yếu tố tâm lý đóng vai trò là cơ sở của phát triển tư duy sáng tạo ở đối tượng này; đặc điểm quá trình phát triển tư duy sáng tạo và những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển tư duy sáng tạo. Phân tích thực trạng phát triển tư duy sáng tạo ở học viên sĩ quan hiện nay với những số liệu và dẫn chứng thực tiễn để minh họa rất sinh động; đề xuất những biện pháp tâm lý - sư phạm phát triển tư duy sáng tạo ở học viên sĩ quan trong các nhà trường quân đội hiện nay. Kết quả nghiên cứu của công trình này rất có ý nghĩa để tham khảo khái quát về mặt triết học khi nghiên cứu về phát triển tư duy sáng tạo của chính trị viên. Tác giả Lê Quý Trịnh với công trình “Phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam” [101] cho rằng khả năng sáng tạo là yếu tố đặc trưng cơ bản nhất của năng lực trí tuệ con người. Theo góc độ triết học, “sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất” [101, tr. 25]. Theo tác giả, khả năng sáng tạo bao gồm các phẩm chất tâm lý, tư duy: Tư chất, năng khiếu; tính độc lập, tính phê phán, tính năng động của tư duy; trí tưởng tượng, trực giác; cảm xúc, ý chí,… Đồng thời, tác giả đã chỉ ra một số vấn đề có tính quy luật của sự phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ. 19 Trong công trình “Phát triển năng lực tư duy lãnh đạo của học viên đào tạo chính ủy ở Học viện Chính trị hiện nay” [88], tác giả Lê Xuân Thủy đưa ra quan niệm về năng lực tư duy lãnh đạo của học viên đào tạo chính ủy và cho rằng nó là một thuộc tính trong nhân cách họ, thể hiện dưới dạng tiềm năng và kết quả học tập, rèn luyện tại Học viện Chính trị. Trong quá trình học tập, dung lượng tri thức được bồi đắp càng nhiều sẽ là cơ sở để phát triển tư duy lãnh đạo cho mỗi học viên, chỉ có trên cơ sở đó thì sự phát triển tư duy mới đạt đến trình độ sáng tạo cho họ trên cương vị lãnh đạo sau này. Phát triển tư duy lãnh đạo của học viên đào tạo chính ủy là quá trình chuyển hóa khả năng tư duy về hoạt động lãnh đạo đơn vị lên trình độ cao hơn. Quá trình này diễn ra dưới tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của các chủ thể tích cực, tự giác; trực tiếp là các chủ thể giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị, với những nội dung, phương thức khoa học và sáng tạo. Tác giả Đào Văn Tiến với công trình “Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [89] khẳng định, cùng với việc rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh chính trị, đạo đức của người sĩ quan cách mạng, nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội là thiết thực góp phần tích cực xây dựng quân đội ta đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới. Tác giả đã đưa ra quan niệm, làm rõ các yếu tố cấu thành năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội; đồng thời, chỉ ra được đặc điểm riêng và một số vấn đề có tính quy luật của sự phát triển năng lực tư duy sáng tạo ở đội ngũ sĩ quan cấp phân đội. Đề tài này rất có ý nghĩa giúp tác giả luận án tham khảo để chỉ ra đặc điểm tư duy sáng tạo của chính trị viên - một bộ phận của sĩ quan cấp phân đội. Trong công trình “Đặc điểm quá trình phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay” [16], tác giả Nguyễn Bá Dương khẳng định: Sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay đặt 20 ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, người sĩ quan trẻ cấp phân đội cần có đầy đủ phẩm chất, trong đó có một phẩm chất đặc biệt quan trọng, đó là tư duy biện chứng duy vật. Khác với sĩ quan trung, cao cấp, tư duy của sĩ quan cấp phân đội mang tính chiến thuật, trực tiếp giải quyết những nhiệm vụ cụ thể ở phân đội với những mâu thuẫn liên tục phát sinh. Theo tác giả, “tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan phân đội trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay là tư duy sáng tạo, mang tính đảng và tính khoa học” [16, tr. 25]. Tác giả đã chỉ ra những đặc điểm có tính quy luật; tính tất yếu khách quan, những yêu cầu mới và đề xuất hệ thống giải pháp phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan phân đội trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tác giả Nguyễn Văn Huy với công trình “Nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [40] đã đưa ra quan niệm về nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên, chỉ ra các yếu tố cơ bản quy định trực tiếp đến quá trình này. Từ kết quả khảo sát thực trạng, tác giả đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên, đó là: nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng năng lực thực tiễn của người chính trị viên; phát huy vai trò nhân tố chủ quan của người chính trị viên; xây dựng môi trường thuận lợi cho nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong công trình “Một số vấn đề về nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”[4], tác giả Vũ Văn Ban đã có những phân tích về mối quan hệ của các khái niệm: ý thức, nhận thức và tư duy; chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của tư duy: tính khái quát hóa; tính sáng tạo; tính gián tiếp và gắn liền với ngôn ngữ; đưa ra quan niệm về nâng cao tư duy lý luận cho giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan quân đội. Theo tác giả, chủ thể tác động đến quá trình này gồm có chủ thể lãnh đạo, chủ thể chỉ huy quản lý, chủ thể tác động và chủ thể tự nâng cao; đồng thời làm rõ các nội dung nâng cao, chỉ 21 ra những yếu tố tác động, khảo sát thực trạng và đưa ra các giải pháp cơ bản nâng cao tư duy lý luận của giảng viên trẻ hiện nay. Trong công trình “Phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự hiện nay” [44], tác giả Đoàn Đức Khánh cho rằng, ý tưởng sáng tạo chính là phản ánh kết quả của quá trình tư duy dẫn đến phát sinh (phát kiến, phát minh, sáng chế) tạo ra sản phẩm mới có giá trị về vật chất, tinh thần đáp ứng nhu cầu của đời sống con người. Theo tác giả, tiêu chuẩn của ý tưởng sáng tạo được thể hiện ra ở các thuộc tính: tính mới; tính hữu ích; tính độc đáo, đặc sắc; tính thông suốt; tính hệ thống... Gắn với một đối tượng nghiên cứu cụ thể, tác giả đưa ra quan niệm: Ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội nhân văn quân sự là phản ánh kết quả của quá trình tư duy với nền tảng hệ thống tri thức, hướng đến các phát hiện mới có giá trị về lý luận và thực tiễn, nhằm giải quyết hiệu quả các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với nghiên cứu sinh trong đào tạo và nghiên cứu khoa học. Trong công trình“Phát triển tính sáng tạo của học viên trong dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn ở trường đại học quân sự”[12], tác giả Đỗ Đình Dũng đã khẳng định, tính sáng tạo là một trong những phẩm chất trí tuệ của người sĩ quan quân đội giúp họ hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống; do vậy, ngay trong quá trình đào tạo người sĩ quan cần phải được phát triển phẩm chất này. Để phát triển tính sáng tạo cho người học cần phải phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề mới trong thực hiện nhiệm vụ học tập của học viên. Thực hiện các nội dung này nhằm hình thành phương pháp làm việc khoa học, phát triển năng lực sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ thực tiễn nghề nghiệp của học viên. Tác giả đã đề xuất những biện pháp tác động sư phạm hướng vào phát triển tính sáng tạo của học viên. Tác giả Nguyễn Giang Nam với công trình “Phát triển tư duy cho học viên ở Học viện Quốc phòng” [61] cho rằng, tư duy của quân nhân được hình thành và hoàn thiện trong quá trình giáo dục - đào tạo, trong công tác và trong chiến đấu. Theo tác giả, “tư duy của người học là sự vận dụng sáng tạo và có 22 hiệu quả những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của mỗi người trong tình huống mới, phát hiện những vấn đề mới, tìm ra cách tiếp cận mới. Điều kiện hoạt động quân sự đòi hỏi người cán bộ quân đội cần có tư duy sáng tạo. Do vậy, trong quá trình đào tạo, các nhà trường quân sự cần coi trọng phát triển tư duy sáng tạo cho người học [61, tr. 31 - 32]. Trong công trình “Một số biện pháp phát triển tư duy độc lập sáng tạo đối với học viên đào tạo sĩ quan chính trị quân sự” [102], tác giả Cao Xuân Trung đã đề xuất một số biện pháp phát triển tư duy sáng tạo cho học viên, đó là: Hình thành ở người học động cơ, mục đích học tập đúng đắn làm cơ sở định hướng và thúc đẩy cho quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, nắm bắt phương pháp tư duy phù hợp với chương trình, nội dung học tập; coi trọng đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học theo phương châm “cơ bản, hệ thống, thống nhất, chuyên sâu”, gắn lý luận với thực tiễn, tăng cường phương pháp dạy học nêu vấn đề; đổi mới căn bản khâu kiểm tra, thi, đánh giá chất lượng học tập của học viên; phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý với vai trò “người thầy tại chỗ” hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho học viên phát triển tư duy độc lập, sáng tạo; xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, dân chủ. Tác giả Đỗ Mạnh Tôn với công trình “Về phát triển tư duy sáng tạo cho học viên đào tạo sĩ quan hiện nay” [95] khẳng định, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và khoa học quân sự hiện nay, đòi hỏi người cán bộ quân sự phải có tư duy sáng tạo, biết vận dụng những tri thức lĩnh hội được ở nhà trường nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, giáo dục bộ đội, giải quyết đúng các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống và hoạt động ở đơn vị. Để phát triển tư duy sáng tạo cho học viên sĩ quan, theo tác giả, các trường đại học quân sự cần thực hiện tốt một số vấn đề, đó là: Tiếp tục củng cố, xây dựng động cơ, mục đích học tập đúng đắn, phát triển mạnh mẽ tính tích cực nhận thức cho học viên; đổi mới nội dung dạy học; tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan