Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi tro...

Tài liệu Phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử ở trường thcs

.DOC
18
4
96

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TAM DƯƠNG TRƯỜNG THCS KIM LONG BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên sáng kiến: Phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử ở Trường THCS Tanm Dương: năm 2019 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Mục tiêu trong giai đoạn hiện nay là tập trung vào việc phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của học sinh, nhằm hình thành năng lực tự nhận biết và giải quyết vấn đề cho người học. Để đạt được mục tiêu này, phương pháp dạy học mới là theo định hướng lấy học sinh làm chủ thể hoạt động dạy học, khuyến khích các hoạt động tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Vậy làm thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học môn lịch sử? Có rất nhiều biện pháp, ví dụ như: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan, phương pháp hướng dẫn học sinh ghi nhớ sự kiện lịch sử, nắm vững và sử dụng sách giáo khoa, vở bài tập, tiến hành công tác ngoại khoá, … Nhưng việc sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là một trong những biện pháp rất quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy học sinh. Quá trình hoạt động chung, thống nhất giữa thầy và trò nhịp nhàng sẽ làm cho học sinh nắm vững hơn những tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách cho các em. Mặt khác, nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém trong nhà trường và phát huy hết năng lực của các em khá giỏi nắm chắc được kiến thức bài học và hiểu sâu hơn các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử, … "Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ; Lịch sử loài người mà chúng ta học là toàn bộ những hoạt động của con người từ khi xuất hiện đến nay" (SGK Lịch sử 6 - Trang 3 - NXB giáo dục năm 2002). Như vậy, qua khái niệm trên chúng ta đều thấy rằng: Việc học Lịch sử có nét đặc trưng, có cái khó riêng. Đó là người học không thể tri giác trực tiếp; không thể "sờ" hay làm thí nghiệm trong phòng thí nghiệm... mà buộc phải tư duy, phải trừu tượng hoá, khái quát hoá để dựng lại những gì đã diễn ra trong quá khứ, thông qua các sự kiện, niên đại, nhân vật lịch sử... Để làm được điều đó ngoài việc sử dụng các nguồn tư liệu sử học (hiện vật, văn tự cổ...) thì việc 1 “phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi” có tác dụng rất lớn trong việc "dựng lại" lịch sử. Bên cạnh đó, việc dạy và học Lịch sử ở nhiều trường phổ thông hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Đó là tình trạng đại bộ phận học sinh đang dần "xa lánh" môn Lịch sử, không còn hứng thú với việc học tập môn Lịch sử. Đây là thực trạng đáng buồn, bởi vì, sử học ở trường phổ thông có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm và hình thành nhân cách của học sinh. Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng trên, theo tôi có nhiều nguyên nhân (gia đình - xã hội - nhà trường). Trong đó một nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện tượng trên đó là: Giáo viên dạy môn Lịch sử còn để giờ dạy Lịch sử quá khô khan, nặng nề nên thiếu sự thu hút đối với học sinh. Do đó, để khắc phục hiện tượng nay, theo tôi ngoài việc đổi mới phương pháp, tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan… thì chúng ta nên sử dụng khéo léo việc phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình sử dụng hệ thống câu hỏi trong bài học để các em tiếp thu bài nhanh, nắm chắc được kiến thức bài học và hiểu sâu hơn các sự kiện hiện tượng, nhân vật lịch sử. Trong phát triển tư duy của học sinh, việc sử dụng các thao tác lôgic có ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường giáo viên sử dụng các thao tác chủ yếu như so sánh để tìm ra sự giống nhau và khác nhau về bản chất các sự kiện, Phân tích và tổng hợp (giúp học sinh khái quát các sự kiện), quy nạp, diễn dịch... Để thực hiện những thao thao tác như vậy có thể dùng nhiều cách, nhiều phương tiện khác nhau (đồ dùng trực quan, tài liệu giải thích ....) song việc hỏi và trả lời phù hợp với trình độ yêu cầu của học sinh, đưa lại kết quả tốt. Hỏi và trả lời chính là đặt tình huống có vấn đề rồi tìm cách giải quyết vấn đề. Hỏi và trả lời không phải là sự đánh đố mà là giúp các em hiểu sâu sắc lịch sử hơn, phát huy được tính tích cực của học sinh trong học tập. Từ cơ sở đó tôi mạnh dạn xin trình bày một số kinh nghiệm về “phát huy tính tích cực của học sinh qua sử dụng hệ thống câu hỏi” mà tôi đã áp dụng trong giảng dạy Lịch sử có hiệu quả tốt. 2 2. Tên sáng kiến: Phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học cơ sở. 3. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Trần Thị Mộng Duyên - Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THCS Kim Long - Tam Dương Vĩnh Phúc - Số điện thoại: 0987465004 Email: [email protected] 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Mộng Duyên – Trường THCS Kim Long Tam Dương – Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến - Xoay quanh một số nội dung về “Phát huy tính tích cực học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học cơ sở” nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học môn Lịch sử - Dùng để dạy các tiết học lịch sử ở các khối lớp 8,9 trong chương trình bậc THCS và công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử. - Dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên giảng dạy môn Lịch sử bậc Trung học cơ sở. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 08/2017 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Về nội dung của sáng kiến * Thực trạng dạy và học môn Lịch sử - Trong thực tế môn Lịch sử luôn bị coi là môn học phụ và là môn của những người học “thuộc lòng” không chỉ phụ huynh - học sinh mà ngay cả nhiều thầy cô dạy các môn tự nhiên cũng quan niệm như vậy. Và một khi đã là môn phụ thì rất khó để học sinh quan tâm học hành tử tế, thầy giáo cũng mất hứng thú sáng tạo trong công tác giảng dạy sao cho tốt. - Giáo viên dạy Lịch sử chưa phát huy được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ cho các em xác định được đây là bộ môn khoa học cần phải có sự học tập nghiêm túc, chưa tái hiện không khí sinh động của các sự kiện lịch sử, tiết dạy còn khô khan 3 nhàm chán. Như thế học sinh không thể phát huy được tính tích cực sáng tạo tìm tòi trong tiết học, vì vậy khả năng tiếp thu kiến thức chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ và học thuộc lòng. Không phát triển kỹ năng tư duy và chưa tạo cho học sinh các kỹ năng lịch sử quan trọng như: đọc bản đồ, phân tích các sự kiện… - Kết quả chất lượng môn học chưa cao. - Khảo sát học sinh trước khi thực hiện áp dụng sáng kiến thu được kết quả sau: Loại giỏi Loại khá Trung bình Yếu Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % 9A 35 12 34,2 15 43 8 22,8 0 0 9B 37 5 13,5 16 43,3 15 40,5 1 2,7 9C 36 6 16,6 13 36,1 15 41,7 2 5,6 9D 37 5 13,6 16 43,2 15 40,5 1 2,7 8A 45 13 28,9 21 46,7 11 24.4 0 0 8B 45 8 17,7 13 28.9 21 46,7 3 6,7 8C 45 7 15,6 16 35,6 20 44,4 2 4,4 8D 45 8 17,8 15 33,3 19 42,2 3 6,7 Nội dung sáng kiến này chỉ tập trung vào phần chính: “Phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học cơ sở” nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học. Kích thích học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kỹ năng. * Vai trò, ý nghĩa sử dụng hệ thống câu hỏi: Sử dụng hệ thống câu hỏi trong quá trình dạy học Lịch sử ở trường phổ thông có vai trò to lớn. Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, bổ trợ kiến thức cho nhau và thông qua hoạt động này những học sinh yếu kém được hoạt động một cách tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và 4 các bạn học sinh khá giỏi; qua đó học sinh nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử… Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, lược đồ… Sử dụng hệ thống câu hỏi khéo léo trong giờ học Lịch sử, giúp giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn lôi cuốn học sinh. Giúp học sinh có cái nhìn đa chiều đối với một sự kiện, một nhân vật, một hiện tượng lịch sử. Dễ dàng đưa kiến thức lịch sử đến với học sinh. Trong việc dạy học Lịch sử ở trường phổ thông tuỳ vào từng khoá trình, nội dung từng bài, từng phần mà giáo viên có thể đưa vào bài giảng các dạng câu hỏi, do đó khi sử dụng phải phù hợp với yêu cầu bài giảng; với từng sự kiện, nhân vật lịch sử mà giáo viên lựa chọn đưa vào. Nói tóm lại, việc sử dụng hệ thống câu hỏi trong giờ học Lịch sử là một trong những cách thức để giáo viên hoàn thành mục tiêu bài học, kế hoạch dạy học và nâng cao chất lượng bộ môn trong trường phổ thông. * Các giải pháp thực hiện Phương pháp giảng dạy: - Phương pháp sưu tầm tài liệu, sử liệu. - Phương pháp phân tích. - Phương pháp tổng hợp. - Phương pháp khái quát. Quy trình áp dụng của bản thân: Bước 1: Xác định rõ nội dung kiến thức cụ thể, dự kiến dạng câu hỏi phù hợp đưa vào từng mục của tiết dạy Lịch sử. Bước 2: Tăng cường công tác dự giờ, thăm lớp nhằm mục đích tìm hiểu thăm dò, nắm bắt từng đối tượng học sinh. Bước 3: Thảo luận, bàn bạc góp ý kiến trong việc thiết kế bài giảng có sự tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử, quá trình tiếp thu lĩnh hội kiến thức của học sinh. 5 Bước 4: Khảo sát chất lượng học sinh nhiều lần để kết luận, rút kinh nghiệm khi xây dựng đề tài. Bước 5: Thực hiện sáng kiến kinh nghiệm qua sự bổ sung, góp ý kiến của đồng nghiệp nhằm thực hiện thành công đề tài này. Cụ thể: 1. Nêu câu hỏi đặt vấn đề: * Đối với giáo viên: Trước khi bước vào bài mới, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng nhận thức cho học sinh. Các câu hỏi nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ nhằm động viên sự chú ý, huy động các năng lực nhận thức của học sinh mà học sinh phải nắm. Đương nhiên, khi đặt câu hỏi không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên đã cung cấp đầy đủ sự kiện thì học sinh mới trả lời được. Ví dụ: Khi dạy bài 5 “Công xã pa-ri năm 1871” (sách giáo khoa lịch sử 8, trang 35). Giáo viên nêu câu hỏi đầu giờ: Vì sao nói “Công xã Pa-ri là một hình ảnh thu nhỏ của nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân”? Để hiểu rõ vấn đề đó các em cần phải tự mình tìm hiểu kĩ vấn đề này, cách tốt nhất là tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến rồi từ đó rút ra ý nghĩa của Công xã Pa-ri. Hoặc khi dạy bài 7 “Các nước Mĩ La-tinh” (lịch sử lớp 9 sấch giáo khoa, trang 29) để phần chuyển ý sang mục II gây được sự chú ý cho học sinh chúng ta có thể nói: Trong cơn bão táp của cách mạng Mĩ La-tinh thì hình ảnh đất nước Cu-ba như một dãi lụa đào, đang bay lên giữa màu xanh của trời biển Ca-ri-bê với nắng vàng rực rỡ, đó chính là Cu-ba hòn đảo của tự do - hòn đảo anh hùng. Vậy hòn đảo anh hùng này đã tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc như thế nào và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cu-ba đạt được kết quả gì? Chúng ta chuyển sang mục II “Cu-ba - Hòn đảo anh hùng”. Trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn tuân thủ trình tự cấu tạo của sách giáo khoa, song cần khai thác nhấn mạnh, giúp học sinh trả lời câu hỏi nêu trên. Học sinh trả lời được câu hỏi này tức là đã nắm và hiểu được kiến thức chủ yếu của bài. * Đối với học sinh: 6 Câu hỏi này là câu hỏi thường có tính chất bài tập, muốn trả lời phải huy động kiến thức cơ bản của toàn bài. Chính vì vậy học sinh phải chuẩn bị bài và trả lời trước các câu hỏi cuối mục ở nhà, chú ý tập trung cao độ theo dõi bài giảng, chọn lọc sự kiện được trình bày trên lớp. 2. Xác định mối liên hệ, xâu chuỗi giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng trong bài học: Một trong những biện pháp sư phạm là xác lập mối liên hệ giữa câu hỏi các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài. Ví dụ: Sau khi học xong bài 27 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953 – 1954)” (lịch sử 9, trang 119), chúng ta có thể tổ chức trò chơi ô chữ để cho các em xâu chuỗi các sự kiện, hiện tượng lịch sử lại với nhau để các em khắc sâu hơn kiến thức và có hứng thú học tập thông qua các câu hỏi gợi ý. Hệ thống câu hỏi trò chơi như sau (Giáo viên dùng bảng phụ để trình bày): Câu 1. Tham dự Hội nghị (8/5/1954) phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do ai làm trưởng đoàn? Câu 2. Đợt 1 của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, ta tấn công tiêu diệt toàn bộ phân khu Bắc và căn cứ nào của Pháp? Câu 3. Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở đâu? Câu 4. 9/1953 với quyết tâm giữ vững quyền chủ động đánh địch, ta đã đề ra kế hoạch tác chiến nào? Câu 5. Kế hoạch nào của Pháp bị phá sản sau chiến dịch biên giới phía Bắc (1950)? Trang111- sách giáo khoa. Câu 6. Nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh, Pháp – Mĩ đã cử ai làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương? Câu 7. Tên của một tướng Pháp đầu hàng cùng toàn bộ Ban tham mưu của mình vào 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954? 7 Câu 8. Từ Khoá: Đây là tên của một hiệp định kí kết vào ngày lập lại hoà bình ở Đông Dương? Đáp án các ô chữ: P H Ạ M Đ V Đ Ô Đ Ă Ô N Ờ N N G C Đ Ồ G X R D U Ơ N H Ư Â V A N X A T G I Ơ N E V Ơ M N L G A R I A M Từ hàng dọc là: GIƠ-NE-VƠ Từ những kiến thức này được sắp xếp trình diễn trên bảng phụ để các em có thể quan sát được câu hỏi và hệ thống kiến thức, học sinh tự tìm ra câu trả lời, tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Trong học sinh sẽ có cuộc tranh luận đâu là từ chìa khoá của ô chữ và học sinh sẽ phát hiện ra chìa khoá là “Giơ-ne-vơ”. Cách lập bảng như vậy hợp với cách sử dụng câu hỏi sẽ có hiệu quả không chỉ về kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy cho học sinh và giúp các em tránh nhàm chán trong tiết học. Việc xây dựng bảng các sự kiện qua các câu hỏi trò chơi và mối liên hệ giữa chúng là một trong những biện pháp giúp học sinh nhớ ngay sự kiện cơ bản ở trên lớp, đồng thời kích thích tính tích cực học tập của các em. 3. Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp: Trong quá trình giảng dạy ở trên lớp, giáo viên còn phải biết đặt ra và giúp học sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ thống câu hỏi tốt nêu ra trong quá trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các em, kích thích tư duy phát triển. Đồng thời tạo ra mối liên hệ bên trong của học sinh và giữa học sinh với giáo viên. Tức là mỗi câu hỏi đưa ra, mỗi học sinh và cả giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời được? Vì sao không trả lời được? Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời. Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi, những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách, đồng thời 8 bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị từ khi soạn giáo án, phải có dự kiến nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời như thế nào? Đáp án ra sao? Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là một nghệ thuật. Những câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải kích thích được lòng ham hiểu biết, trí thông minh, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là giúp học sinh yếu kém tích cực hoạt động và dần dần hình thành kiến thức cơ bản cho các em qua hệ thống câu hỏi, từ đó các em có hứng thú học tập và xây dựng bài hơn. Thông thường trong quá trình giảng dạy chúng ta thường đặt ra nhiều loại câu hỏi, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử, chúng ta có các loại câu hỏi. Cụ thể như: * Dạng câu hỏi về sự phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà chúng ta thường hỏi về nguyên nhân, bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Dạng câu hỏi này thường áp dụng cho đối tượng học sinh yếu kém. Ví dụ: Nguyên nhân bùng nổ chiến tranh thế giới lần thứ hai (Bài 21, sách giáo khoa lịch sử 8, trang 105). Nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì, (Bài 21, sách giáo khoa lịch sử 9, trang 82-83). Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng. Bởi vì bất kì một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc điểm tư duy của lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh. * Dạng câu hỏi về quá trình, diễn biến, phát triển của sự kiện hiện tượng lịch sử như diễn biến của các cuộc khởi nghĩa, diễn biến các cuộc cách mạng. Ví dụ: 9 Trình bày quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian ở Pháp (Bài 16, sách lịch sử 9, trang 61). Hãy trình bày diễn biến chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 (Bài 26, sách lịch sử lớp 9, trang 110). Tuy đây là câu hỏi ít suy luận song lại đòi hỏi trí nhớ, phải biết nhiều sự kiện địa danh, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ nên cần phải chia câu hỏi thành nhiều câu hỏi nhỏ, đồng thời lập các bảng niên biểu, mối liên hệ giữa các sự kiện. * Dạng câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các hiện tượng lịch sử, bao gồm sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy. Dạng câu hỏi này thường dùng cho học sinh khá giỏi khi thảo luận để bổ trợ kiến thức cho các đối tượng yếu kém. Ví dụ: Tại sao nói từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược? (Bài 25, sách lịch sử 8, trang 124). Tại sao Nguyễn Tất Thành lại ra đi tìm đường cứu nước? Hướng đi của Người có gì mới so với các nhà yêu nước chống Pháp trước đó? (Bài 30, sách giáo khoa lịch sử 8, trang 148). Tại sao nói, ngay sau khi ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lại ở vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”? (Bài 24, sách giáo khoa lịch sử 9, trang 96). Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh, nó đòi hỏi các em phải biết phân tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện tượng lịch sử. Học sinh rất ngại trả lời những câu hỏi này, tuy nhiên giáo viên cần kiên trì đưa thêm những câu hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi của mình. Ví dụ: Khi dạy bài 23-Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. 10 Câu hỏi nhận thức: Tại sao khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, Đảng ta quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc? Câu hỏi gợi mở: Chủ trương khởi nghĩa vũ trang đề ra trong hội nghị TW lần thứ VIII (tháng 5/1941) là gì? Các yếu tố nào (về thời cơ cách mạng) đầy đủ ở nước ta lúc bấy giờ chưa? * Dạng câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý nghĩa lịch sử của sự kiện. Với dạng câu hỏi này cũng dùng cho đối tượng học sinh yếu kém để các em tự phát hiện và chiếm lĩnh được kiến thức cơ bản và giúp các em hoạt động liên tục trong quá trình học tập. Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục, đan xen nhau giữa các sự kiện hoặc một hiện tượng hay một quá trình lịch sử nào đó. Cần cho học sinh thấy rõ được kết quả của sự vận động đó, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và ảnh hưởng của nó đối với quá trình phát triển lịch sử. Ví dụ: Trình bày ý nghĩa lịch sử của cách mạng tư sản Pháp 1789-1794 (Bài 2, sách lịch sử 8, trang 17). Em hãy nêu ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 3/2/1930 (Bài 18, sách lịch sử 9, trang 71). Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì (Bài 21, sách lịch sử 9, trang 82). Trình bày ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 (Bài 23, sách lịch sử 9, trang 94). Để trả lời những câu hỏi này, học sinh dựa vào sách giáo khoa để trả lời bằng ngôn ngữ của mình chứ không lặp lại sách giáo khoa. * Dạng câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử này với sự kiện, hiện tượng lịch sử khác mà các em đã học. Đây là loại câu hỏi khá khó đối với học sinh Trung học cơ sở. Ưu điểm của loại câu hỏi này là vừa giúp học sinh củng cố ôn tập lại kiến thức cũ vừa tiếp 11 nhận kiến thức mới và áp dụng khi hoạt động thảo luận nhóm để các em bổ trợ kiến thức cho nhau và cùng giải quyết vấn đề. Ví dụ: So sánh hoàn cảnh, nội dung, tác dụng của chính sách cộng sản thời chiến với chính sách kinh tế mới của Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích (Bài 16, sách lịch sử 8, trang 82). Khi dạy bài 9 “Nhật Bản” (Lịch sử 9, trang 36). Có câu hỏi: So sánh sự giống nhau và khác nhau trong chính sách đối ngoại của Mĩ và Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai? Khi học bài 29 “Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước (19651973) (Lịch sử 9, trang 142). Có câu hỏi: Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở Miền Nam có điểm gì giống và khác nhau? Tóm lại: Các dạng câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh, giúp cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử. Những câu hỏi đó giáo viên vận dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ cho các em biết được các sự kiện đi sâu hiểu bản chất của sự kiện, nó không chỉ đòi hỏi học sinh nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản mà phải suy nghĩ nhận thức sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử. 4. Vận dụng hệ thống câu hỏi vào một mục dạy thực tế: Ví dụ: Dạy mục IV: Hiệp định sơ bộ (6-3-1946) và tạm ước Việt - Pháp (14-91946) ở bài 24 “Cuộc đấu tranh và bảo vệ xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945-1946)” - Lịch sử 9, tiết 2 ). Đối với mục này để học sinh có thể hiểu được nội dung bài học nhanh và sâu hơn. Giáo viên cần thiết kế câu hỏi gợi mở để giải quyết câu hỏi nhận thức, nhằm khắc sâu kiến thức của bài học tới học sinh một cách tốt nhất đảm bảo tính khoa học và lô gíc của các mục kiến thức tiếp theo, cụ thể: 12 Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu sự bắt tay hoà hoãn giữa Tưởng và Pháp qua Hiệp ước Hoa – Pháp (28-2-1946), theo hiệp ước này Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phòng vào Hoa Nam không phải đóng thuế. Ngược lại, Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp khí giới quân Nhật. Điều này vi phạm trắng trợn chủ quyền của dân tộc ta, chúng coi Việt Nam là món hàng để trao đổi. Trước tình hình đó, Đảng ta có chủ trương, sách lược gì để đối phó? Giáo viên đưa ra câu hỏi nhận thức: CÂU HỎI NHẬN THỨC Vì sao Đảng, Chính phủ ta Hồ Chủ Tịch lại kí với thực dân Pháp Hiệp định sơ bộ 6-31946? Một là: Đánh Pháp trước khi Pháp đưa quân ra miền Bắc. Như vậy cùng một lúc phải đánh cả Pháp lẫn Tưởng. DỰ KIẾN TRẢ LỜI CÂU HỎI GỢI MỞ Vì Pháp và Tưởng kí thỏa hiệp chính trị (282-1946). Việc làm này buộc Đảng ta phải lựa chọn một trong hai con đuờng hành động. 1. Việc Pháp và Tưởng kí hiệp định chính trị (28-2-1946) đặt ra cho Đảng ta lựa chọn một trong hai con đường nào? 2. Đảng ta đã lựa chọn con đường nào? Hai là: Hoà với Pháp mượn tay Pháp đuổi Tưởng về nước, loại bớt một kẻ thù nguy hiểm, kéo dài thời gian hòa bình đẻ chuẩn bị lực lượng về mọi mặt chống Pháp sau này. Đảng ta đã lựa chọn con đường thứ hai vì đất nước ta lúc này vô cùng khó khăn không thể một lúc đánh nhau với nhiều kẻ thù, hơn nữa lúc này Pháp đưa quân ra miền Bắc với danh nghĩa chính thống. 13 7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến Giải pháp có thể áp dụng: - Cho đối tượng học sinh đại trà, học sinh giỏi toàn cấp bậc THCS. - Cho các cơ quan tổ chức: các trường THCS trong toàn huyện. - Qua đề tài tôi có một số giải pháp sau: + Thâu tóm các dạng câu hỏi phù hợp với nội dung bài giảng, phải có sự suy nghĩ, sáng tạo trong việc thiết kế bài giảng. Xác định rõ nội dung chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng bài, từng phần để truyền thụ cho học sinh dễ tiếp thu và hiểu bài sâu hơn trên cơ sở kiến thức cơ bản từ sách giáo khoa. + Nghiên cứu một số phương pháp phù hợp đối tượng học sinh (giỏi, khá, trung bình, yếu) để đưa dạng câu hỏi vào nội dung bài giảng một cách hợp lí, lôgíc; phù hợp đối tượng học sinh, đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng. cả giá trị giáo dưỡng, giáo dục. + Đổi mới phương pháp dạy học: “Hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh” tạo điều kiện cho học sinh tìm tòi, khai thác kiến thức và biết điều khiển hoạt động nhận thức của mình. Khuyến khích học sinh tìm hiểu những tài liệu kiến thức liên quan đến lịch sử. + Giao nhiệm vụ và định hướng học sinh về nhà tìm hiểu nội dung cần tìm hểu ở tiết học hôm sau. + Coi trọng kết quả, đánh giá học sinh theo tinh thần đổi mới, theo hướng phát triển năng lực người học, học lý thuyết gắn liền với ứng dụng vào đời sống. + Qua thực hiện đề tài tôi thấy học sinh có nhiều tiến bộ, các em hứng thú với nội dung bài học và yêu thích bộ môn hơn, bước đầu có thể vận dụng vào thực tế trong một số tình huống thực tế. + Đề tài đã khắc phục được hạn chế mà từ lâu các em không thích học bộ môn và coi môn Lịch sử môn học phụ. 8. Những thông tin cần được bảo mật: không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến - Nhà trường tạo điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất, sách tham khảo để thực hiện sáng kiến. 14 - Động viên khen thưởng kịp thời với những em có tiến bộ trong học tập. - Học sinh chuẩn bị tốt tâm thế trước mỗi giờ học, say mê, hứng thú trong học tập. Phát huy hết khả năng sáng tạo vận dụng linh hoạt các đơn vị kiến thức. - Giáo viên có sự tìm tòi sáng tạo, vận dụng kiến thức các môn học trong chương trình giáo dục phổ thông. Tham khảo tài liệu sử học được tải từ mạng Internet và tiếp thu những góp ý của đồng nghiệp. - Áp dụng sáng kiến vào những tiết dạy Lịch sử trên lớp trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu theo các nội dung sau: 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả - Hiệu quả của việc phát huy tính tích cự của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học cơ sở đã giúp cho các em tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng hiểu biết, lĩnh hội kiến thức và phát triển kỹ năng. - Sau khi áp dụng sáng kiến vào giảng dạy học sinh đều hứng thú với nội dung bài học, số lượng học sinh có ý thức tham gia phát biểu xây dựng bài tăng trội hơn trước, có ý thức chuẩn bị bài ở nhà hơn. - Giờ dạy trên lớp hứng khởi, sôi nổi hơn, tạo không khí hào hứng, tránh được sự căng thẳng hay nhàm chán giúp học sinh giải quyết tình huống linh hoạt trong cuộc sống, số chất lượng dạy học bộ môn tăng. - Số học sinh tham gia học đội tuyển môn Lịch sử nhiều hơn. * Kết quả cụ thể: - Khảo sát học sinh trước và sau khi thực hiện sáng kiến trong giảng dạy ở trường THCS Kim Long – Tam Dương –Vĩnh Phúc: Loại giỏi Lớp Sĩ số SL % Loại khá SL % Trung bình SL % Yếu SL % 15 Trước khi 9A 35 12 34,2 15 43 8 22,8 0 0 áp dụng 9B 37 5 13,5 16 43,3 15 40,5 1 2,7 9C 36 6 16,6 13 36,1 15 41,7 2 5,6 9D 37 5 13,6 16 43,2 15 40,5 1 2,7 8A 45 13 28,9 21 46,7 11 24.4 0 0 8B 45 8 17,7 13 28.9 21 46,7 3 6,7 8C 45 7 15,6 16 35,6 20 44,4 2 4,4 8D 45 8 17,8 15 33,3 19 42,2 3 6,7 Sau khi áp 9A 35 17 48,6 14 40 4 11,4 0 0 dụng 9B 37 6 16,3 16 43,2 15 40,5 0 0 9C 36 7 19,5 16 44,4 13 36,1 0 0 9D 37 6 16,2 16 43,3 15 40,5 0 0 8A 45 17 37,8 23 51,1 5 11,1 0 0 8B 45 8 17,8 21 46,6 16 35,6 0 0 8C 45 7 15,6 23 51,1 15 33,3 0 0 8D 45 8 17,8 21 46,6 16 35,6 0 + Về kết quả thi học sinh giỏi môn Lịch sử và môn khoa học xã hội Năm học Trước khi áp dụng Sau khi áp dụng 2016 - 2017 2017 - 2018 2018 - 2019 Cuộc thi Cấp huyện HSG lớp 9 1 giải kk HSG môn Khoa học 2 giải kk xã hội lớp 8 HSG lớp 9 1 giải ba, 2kk HSG môn Khoa học 4 giải kk xã hội lớp 8 HSG lớp 9 1 giải nhất, 1 giải kk HSG môn KHXH 8 Chưa thi 0 Cấp tỉnh 3 giải kk 2 giải kk 1 giải ba, 3 giải kk 2 giải kk 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân - Đề tài áp dụng có hiệu quả trong năm học 2017-2018 và đạt được kết quả cao ở các kì thi học sinh giỏi. - Có thể áp dụng rộng rãi ra các trường Trung học cơ sở trong toàn huyện, vào giảng dạy môn Lịch sử. 16 - Các học sinh hứng thú và say mê học Lịch sử tăng trội hơn trước, số chất lượng dạy học bộ môn tăng. Nhiều em đã tích cực tham gia ôn tập và dự thi học sinh giỏi môn Lịch sử cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh. Có thể thấy, với việc áp dụng sáng kiến “phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử ở tường Trung học sơ sở” vào thực tế giảng dạy Lịch sử thì kết quả được cao hơn nhiều. Điều đó đã thúc đẩy tôi không ngừng phấn đấu để đạt được kết quả tốt hơn nữa. Cùng với việc áp dụng phương pháp này vào tiết dạy cụ thể. Tôi đã thành công trong giờ thao giảng cấp trường, và kết quả đạt loại giỏi. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu: STT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực 1 áp dụng sáng kiến Học sinh lớp 9A, 9B, Trường THCS Kim Dùng để dạy các tiết 9C, 9D, 8A, 8B, 8C, Long – Tam Dương học Lịch sử trong 2 8D của trường THCS – Vĩnh Phúc chương Kim Long hành trình hiện Học sinh học giỏi Trường THCS Kim Dùng làm tài liệu bồi môn Lịch sử khối 8,9 Long - Tam Dương - dưỡng học sinh giỏi của trường THCS Vĩnh Phúc môn Lịch sử 8,9 Kim Long Kim Long, ngày 23 tháng 01 năm 2019 Thủ trưởng đơn vị Đỗ Thị Minh Phượng Kim Long, ngày 22 tháng 01 năm 2019 Tác giả sáng kiến Trần Thị Mộng Duyên 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan