BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÀO CAI
BÙI NGỌC THANH
HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÀO CAI
BÙI NGỌC THANH
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ THÚY
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả số liệu nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của
các cơ quan chức năng đã công bố. Những kết luận khoa học của luận văn là mới và
chưa có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 03 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI HƯỚNG
NGƯỜI CAM ĐOAN
DẪN KHOA HỌC
TS. Trần Thị Thuý
Bùi Ngọc Thanh
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại Trường Đại học Mở Hà Nội. Để hoàn thành
được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của các thầy
cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Thúy đã
hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, người đã đem
lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong thời gian học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Luật, Phòng
quản lý đào tạo, Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá
trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những
người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề
tài nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Bùi Ngọc Thanh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Viết đầy đủ
Bộ Luật TTDS 2015
Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015
BLDS năm 2015
Bộ Luật dân sự năm 2015
BLHH 2015
Bộ Luật hàng hải năm 2015
BIT
Hiệp định đầu tư song phương
BTA
Hiệp định thương mại song phương
CHXHCN
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
ĐƯQT
Điều ước quốc tế
FTA
Hiệp định thương mại tự do
GQTC
Giải quyết tranh chấp
HĐTT
Hội đồng trọng tài
HNQT
Hội nhập quốc tế
HĐTTTP
Hiệp định tương trợ tư pháp
KTQT
Kinh tế quốc tế
Luật HKDD 2006
Luật hàng không năm 2006
Nxb.
Nhà xuất bản
ICC
Phòng thương mại quốc tế
ICSID
Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế
TMQT
Thương mại quốc tế
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TTTM
Trọng tài thương mại
TTV
Trọng tài viên
TTTT
Thỏa thuận Trọng tài
TTTP
Tương trợ tư pháp
UNCITRAL
Ủy ban luật thương mại quốc tế của liên hợp quốc
UTTP
Ủy thức tư pháp
YTNN
Yếu tố nước
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI................................7
1.1. Những vấn đề chung về tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài................7
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài ..............................7
1.1.2. Đặc điểm tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài ...............................8
.................................................................................................................................9
1.1.3. Phân loại tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài..............................10
1.1.4. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài ..13
1.2. Cơ sở pháp lý của việc giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài
...................................................................................................................................15
1.2.1. Các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.................15
1.2.2. Tập quán quốc tế .........................................................................................17
1.2.3. Pháp luật quốc gia .......................................................................................18
1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài .......20
1.3.1. Phương thức Tòa án ....................................................................................20
1.3.2. Phương thức Trọng tài ................................................................................24
1.3.3. Phương thức thương lượng .........................................................................29
1.3.4. Phương thức hòa giải ..................................................................................31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI..........................................................34
2.1. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài ..........................................................................................................................34
2.1.1. Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng Tòa án .......34
2.1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng Trọng tài ...42
2.1.3. Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng thương lượng
...............................................................................................................................49
2.1.4. Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng hòa giải .....50
2.2. Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về các hình thức giải quyết tranh
chấp thương mại có yếu tố nước ...........................................................................52
2.2.1. Ưu điểm.......................................................................................................52
2.2.2. Nhược điểm.................................................................................................52
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI CÓ
YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI TỈNH LÀO CAI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC
...................................................................................................................................57
3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài tại tỉnh Lào Cai
...................................................................................................................................57
3.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Lào Cai..............57
3.1.2 Tình hình tranh chấp và giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước tại
tỉnh Lào Cai...........................................................................................................61
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại có yếu
tố nước .......................................................................................................................70
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài bằng Tòa án .................................................................................................70
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài bằng Trọng tài .............................................................................................77
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài bằng thương lượng ......................................................................................80
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài bằng hòa giải ...............................................................................................80
KẾT LUẬN ...............................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................88
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, hoạt động thương mại có YTNN ngày
càng trở nên sôi động, thì số lượng các vụ tranh chấp thương mại có YTNN ngày
càng gia tăng. Những tranh chấp thương mại có YTNN thường mang tính phức tạp,
quá trình giải quyết kéo dài và chi phí tốn kém, khi xảy ra tranh chấp thường đem
đến những khó khăn cho các bên trong quá trình GQTC. Thực tiễn tranh chấp quốc
tế cho thấy, các tranh chấp quốc tế liên quan đến hoạt động thương mại không có
nguy cơ đe dọa đến hòa bình, anh ninh quốc tế nhưng có ảnh hưởng tiêu cực tới sự
phát triển quan hệ kinh tế, quan hệ ngoại giao... giữa các quốc gia. Giải quyết tốt
những tranh chấp này sẽ góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển, nếu
không sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy, GQTC thương mại
có YTNN là yêu cầu tất yếu ở bất kỳ quốc gia nào.
Ở các nước phát triển cho thấy, hoạt động thương mại nói chung và hoạt
động thương mại có YTNN nói riêng phát triển nhanh chóng nên hệ thống pháp luật
về GQTC trong lĩnh vực này cũng phát triển, nhằm tạo điều kiện cho hoạt động
thương mại diễn ra một cách có hiệu quả nhất. Ở nước ta, khi mà sự hội nhập quốc
tế chậm hơn so với thế giới, kinh nghiệm về lĩnh vực này còn chưa theo kịp các
nước có nền kinh tế phát triển. Vì vậy, GQTC thương mại có YTNN vẫn còn là vẫn
đề phức tạp, khó khăn ở Việt Nam, cụ thể là: Các vấn đề về hệ thống pháp luật,
năng lực GQTC của các chủ thể còn hạn chế v.v, điều này gây ra không ít những rào
cản cho hoạt động thương mại có YTNN ở Việt Nam. Bên cạnh đó hàng loạt các vấn
đề liên quan như: Luật áp dụng để GQTC; thẩm quyền GQTC; ủy thức tư pháp; hiệu
lực của các phán quyết…còn chưa đáp ứng được thực tiễn hoạt động thương mại quốc
tế và cũng như yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế cho thấy, số vụ tranh chấp
đưa đến cơ quan tài phán Việt Nam để giải quyết ít hơn so với vụ tranh chấp thực tế
diễn ra, mà một trong những lý do cơ bản chính là sự bất cập trong hệ thống pháp luật
về GQTC, năng lực GQTC của các thiết chế ở Việt Nam chưa phải là địa chỉ tạo dựng
được lòng tin cho các thương nhân khi có tranh chấp phát sinh lựa chọn.
Các quan hệ tranh chấp thương mại có YTNN nhìn nhận dưới góc độ Luật
“Tư” là một dạng quan hệ dân sự có YTNN và thuộc phạm vi điều chỉnh của Tư
pháp quốc tế. Tuy nhiên, các quy phạm Tư pháp quốc tế Việt Nam lại nằm tản mạn
trong nhiều văn bản làm cho quá trình áp dụng trở nên khó khăn, đôi khi còn mâu
thuẫn với nhau. Vì vậy, cũng giống như các quan hệ pháp luật không có YTNN,
việc điều chỉnh quan hệ GQTC thương mại có YTNN phải kết hợp giữa luật chung
1
(Bộ luật TTDS, Luật TTTM, BLDS) và luật chuyên ngành (LTM, LĐT, LHK, Bộ
LHH, Luật SHTT…), trong đó các quy định của luật chung điều chỉnh là cơ bản.
Tuy nhiên, qua nhiều năm thực hiện Bộ luật TTDS, Luật TTTM, BLDS đã bộc lộ
những bất cập, tình trạng đó đã làm hạn chế các giao dịch dân sự có YTNN nói
chung và giao dịch thương mại có YTNN nói riêng, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng. Yêu cầu về sự công bằng, khách
quan, minh bạch trong tố tụng chưa được đảm bảo đúng thực chất, gây tâm lý e ngại
khi GQTC tại Tòa án. Những bất cập này thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: lập pháp,
cách thức tổ chức Tòa án và cơ chế áp dụng pháp luật, cụ thể như: Quy định về
thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam đối với các tranh chấp thương mại có
YTNN còn bó hẹp, còn có nhiều lỗ hổng, thẩm quyền theo sự thỏa thuận của các
đương sự chưa được ghi nhận điều này làm mất hiệu lực của các điều khoản thỏa
thuận GQTC trong hợp đồng thương mại...; Quy định về thẩm quyền riêng biệt của
Tòa án Việt Nam ngay cả với các tranh chấp hợp đồng vận chuyển điều này gây ra
chồng chéo mâu thuẫn với các quy định của pháp luật chuyên ngành (Luật thương
mại, Luật hàng không dân dụng, Luật hàng hải...) và không phù hợp với hướng
chung của thế giới. Do vậy, mục đích quy định về thẩm quyền riêng biệt của Tòa án
Việt Nam không đúng với ý nghĩa để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân, pháp nhân Việt Nam. Bên cạnh đó,
các quy định về ủy thức tư pháp; vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định thương mại của Tòa án nước ngoài được thực hiện trên cơ sở “nguyên tắc có đi
có lại” còn nhiều vướng mắc vì chưa đưa ra được thẩm quyền, trình tự, thủ tục cho
việc áp dụng; Đã thừa nhận án lệ là nguồn để điều chỉnh nhưng vẫn còn gặp khó
khăn trong quá trình áp dụng pháp luật để GQTC thương mại có YTNN. Bên cạnh
đó, pháp luật cũng đã tạo dựng được hình thức GQTC thông qua thương lượng, hòa
giải nhưng lại chưa khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng hình thức GQTC này
một cách có hiệu quả.
Do đó, nhu cầu nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về
GQTC thương mại nói chung và GQTC thương mại có YTNN có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu nêu trên mà tác giả đã chọn đề
tài: “Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài từ thực
tiễn tại tỉnh Lào Cai” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan nghiên cứu
Việc pháp luật GQTC thương mại có YTNN là vấn đề thuộc phạm vi điều
chỉnh của tư pháp quốc tế. Khi nghiên cứu vấn đề này, có thể thấy các công trình
2
nghiên cứu ở Việt Nam và ở nước ngoài thường bắt đầu bằng việc nghiên cứu
những vấn đề thuộc nội dung của tư pháp quốc tế nói chung và những vấn đề về
pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài nói riêng. Tiếp
theo là những công trình nghiên cứu cụ thể và chuyên sâu phân tích những vấn đề
liên quan đến việc giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, như:
Những nghiên cứu về tranh chấp kinh doanh thương mại, về tranh chấp kinh doanh
thương mại có yếu tố nước ngoài, về các quy định của pháp luật về phương thức
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài.
Ở Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập quốc tế hiện
nay, hoạt động kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài ngày càng trở nên sôi
động, đa dạng và phức tạp, làm phát sinh nhiều tranh chấp và cũng là đề tài nóng
bỏng của các công trình nghiên cứu. Ngoài các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật
như: Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà
Nội - khoa Luật, các sách chuyên khảo về Tư pháp quốc tế, về Luật Thương mại
Quốc tế, Luật phá sản và giải quyết tranh chấp thương mại, còn có các công trình
nghiên cứu có liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp trong tư pháp quốc tế nói
chung và việc pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố
nước ngoài nói riêng.
Tiêu biểu trong số đó, có cuốn sách tên gọi:“Giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại có yếu tố nước ngoài: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
tác giả Nguyễn Trung Tín (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2009) phân tích một
số vấn đề lý luận về GQTC KDTM có YTNN bằng thương lượng, hòa giải, trọng
tài, Tòa án và một số kinh nghiệm GQTC kinh doanh thương mại có yếu tố nước
ngoài ở một số quốc gia bằng trọng tài trong giai đoạn này. Tuy nhiên, công trình
này chưa phân tích các vấn đề về thực tiễn giải quyết tranh chấp có yếu tố nước
ngoài bằng Tòa án ở Việt Nam nói chung và Tòa án tỉnh Lào Cai nói riêng, đặc biệt
chưa phân tích vấn đề về thẩm quyền của Tòa án cũng như lựa chọn pháp luật áp
dụng đối với tranh chấp kinh doanh thương mại ngoài hợp đồng.
Năm 2013, luận án tiến sĩ của tác giả Đồng Thị Kim Thoa với đề tài “Cơ chế
giải quyết tranh chấp trong tư pháp quốc tế và thực tiễn Việt Nam” đã phân tích cụ
thể về cơ chế GQTC trong TPQT. Đây là một công trình có phạm vi nghiên cứu rất
rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp trong lĩnh vực “Dân sự” có YTNN với mục tiêu
luận giải các vấn đề lý luận về cơ chế GQTC trong TPQT như: Khái niệm, nội hàm,
các bộ phận cấu thành và mối liên hệ giữa các bộ phận đó trong cơ chế GQTC trong
TPQT và đề xuất giải pháp về việc xây dựng một cơ chế GQTC trong TPQT VN
3
nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp và hội
nhập quốc tế. Tuy nhiên, vấn đề về GQTC kinh doanh thương mại có YTNN bằng
Tòa án chưa được đề cập trong Luận án này.
Sách chuyên khảo “Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại
quốc tế” của tác giả Nguyễn Ngọc Lâm (NXB Chính trị Quốc gia năm 2010) nghiên
cứu những khía cạnh pháp lý liên quan đến nội dung hợp đồng kinh doanh thương
mại quốc tế, những nguy cơ tranh chấp tiềm ẩn trong một hợp đồng kinh doanh
thương mại quốc tế qua từng điều khoản cụ thể như: Chủ thể hợp đồng; đề nghị và
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng; các điều khoản về số lượng, chất lượng, giá
cả, hình thức thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng; luật áp dụng đối với hợp
đồng... Đồng thời, đưa ra các biện pháp nhằm phòng ngừa và giải quyết tranh chấp
đã xảy ra. Tuy nhiên, công trình này không phân tích những vấn đề liên quan đến
giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại có YTNN bằng Tòa án tại
Việt Nam.
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Hồng Nam “Thẩm quyền Tòa án Việt
Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” (Bảo vệ năm 2016 tại
Khoa Luật đại học Quốc gia Hà Nội) đã làm rõ được một số khái niệm về thẩm
quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài,
xung đột thẩm quyền của Tòa án, mối quan hệ giữa Tòa án và trọng tài trong việc
giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, các tiêu chí cơ bản trong việc
xác định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài.
Ngoài ra còn có đề tài cấp trường (nghiệm thu năm 2015) của Trường Đại
học Luật Hà Nội “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong điều kiện sửa đổi
BLDS” (do tác giả Trần Minh Ngọc làm Chủ nhiệm), v.v…
Phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy chưa có công
trình nghiên cứu ở cấp độ Luận văn Thạc sỹ về pháp luật giải quyết tranh chấp
thương mại có YTNN từ thực tiễn tỉnh Lào Cai. Đặc biệt trong tình hình hiện nay,
BLDS 2005 đã được thay thế bằng BLDS 2015, Bộ luật tố tụng dân dự 2004 đã
được thay thế bằng Bộ TTDS 2015, trong đó nhiều quy định liên quan đến pháp luật
giải quyết tranh chấp thương mại có YTNN đã được sửa đổi, bổ sung. Vì vậy, xuất
phát từ thực tiễn GQTC tại tỉnh Lào Cai cần được tiếp tục nghiên cứu một cách cụ
thể hơn, phù hợp với những nội dung mới có liên quan trong BLDS 2015 và Bộ
TTDS 2015.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về pháp luật GQTC thương mại có YTNN.
- Phân tích thực trạng pháp luật GQTC thương mại có YTNN từ thực tiễn tỉnh
Lào Cai.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật GQTC thương mại có YTNN.
3.2 . Nhiệm vụ của Luận văn: Để đạt được mục tiêu trên, Luận án cần đạt
những những nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận để làm rõ các quan niệm, quan điểm
khoa học về tranh chấp thương mại có YTNN, nhận thức chung về phương thức
GQTC thương mại có YTNN trên cơ sở đó làm rõ ưu điểm, nhược điểm của từng
phương thức.
+ Nghiên cứu, phân tích thực trạng pháp luật về GQTC thương mại có YTNN ở
Việt Nam trên cơ sở so sánh với pháp luật nước ngoài và ĐƯQT từ đó làm rõ những
mặt được, mặt còn hạn chế, bất hợp lý, bất cập trong hệ thống pháp luật nước ta.
+ Phân tích thực tiễn về GQTC thương mại có YTNN từ thực tiễn tỉnh Lào Cai.
+ Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về
GQTC thương mại có YTNN ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: pháp luật GQTC thương mại có YTNN.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp
luật về các hình thức GQTC thương mại có YTNN nhằm đề ra một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật GQTC thương mại có YTNN.
+ Về địa bàn nghiên cứu: Do thời gian và điều kiện cũng như năng lực nghiên
cứu của bản thân còn hạn chế nên tôi chỉ xin nghiên cứu trong địa bàn tỉnh Lào Cai
thông qua những điều tra được tiến hành với Tòa án, cả cán bộ, doanh nghiệp,…
trong địa bàn tỉnh Lào Cai.
+ Thời gian nghiên cứu: Phân tích thực trạng pháp luật GQTC thương mại có
YTNN từ năm 2015 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận, giải quyết các vấn đề mà luận văn đặt ra, tác giả dựa
trên cơ sở phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu. Luận văn
5
được thực hiện trên cơ sở phân tích, bình luận các quy định pháp luật quốc gia,
ĐƯQT, Tập quán quốc tế và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về GQTC
thương mại có YTNN ở Việt Nam hiện nay. Luận văn được thực hiện dựa trên việc
áp dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn giải,
các quy định của pháp luật, phỏng vấn chuyên gia trong lĩnh vực này.
6. Nội dung của luận văn
Bao gồm phần mở đầu và 3 chương với các phần chính sau đây:
Chương 1: Những vấn đề chung về pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại
có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố
nước ngoài.
Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài tại
tỉnh Lào Cai và giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại có
yếu tố nước ngoài.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Những vấn đề chung về tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài
Tranh chấp thương mại có YTNN là một khái niệm mang nội hàm mang tính
thương mại - pháp lý quốc tế. Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông “Tranh chấp là sự
giành nhau một cách giằng co cái không rõ về bên nào” hoặc “Đấu tranh giằng co
khi có ý kiến bất đồng, thường là vấn đề quyền lợi của hai bên” hoặc Thuật ngữ
“Tranh chấp” theo từ điển luật học Black’ law dictionary do West Pub Co xuất bản
năm 1999 thì, “Tranh chấp chính là mâu thuẫn, bất đồng; sự mâu thuẫn về các yêu cầu
hay quyền; sự đòi hỏi về quyền, yêu cầu hay đòi hỏi từ một bên được đáp lại bởi một
yêu cầu hay lập luận trái ngược của bên kia”. Như vậy, theo tác giả“Tranh chấp là sự
mâu thuẫn, bất đồng về quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể có liên quan khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật”.
Dưới góc độ pháp lý, Luật thương mại năm 2005, cho rằng: “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động thương mại nhằm
mục đích sinh lời khác”. Bên cạnh đó, tại khoản 21 Điều 4 Luật Doanh nghiệp
2020, cũng cho rằng: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả
công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận”. Theo quy định tại Điều
30 Bộ TTDS 2015, mặc dù không đưa ra khái niệm về “Tranh chấp thương mại”
nhưng điều luật lại liệt kê các tranh chấp cụ thể, bao gồm 5 nhóm: “1. Tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký
kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. 2. Tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích
lợi nhuận. 3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty. 4. Tranh chấp
giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người
quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám
đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách,
bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. 5. Các
7
tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”. Qua nội dung các
tranh chấp thương mại được liệt kê trong 05 nhóm kể trên, thực chất là các tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại
2005. Mặt khác, căn cứ vào khái niệm hoạt động thương mại quy định tại Khoản 1
Điều 3 Luật Thương mại 2005 và khái niệm kinh doanh tại Khoản 21 Điều 4 Luật
Doanh nghiệp 2020, nội hàm của khái niệm hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi. Do đó, dưới góc độ pháp lý, tranh chấp là những những
xung đột, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật.
Từ những phân tích nêu trên cho thấy tranh chấp thương mại có YTNN là
những mâu thuẫn, bất đồng xảy ra trong quá trình thực hiện các hoạt động thương
mại có yếu tố nước ngoài (một số tài liệu còn gọi là hoạt động thương mại quốc tế).
Trên thế giới, tính chất quốc tế của các quan hệ thương mại được hiểu không giống
nhau và căn cứ trên nhiều tiêu chí khác nhau nhưng nhìn chung đều căn cứ vào ba
dấu hiệu là: chủ thể trong quan hệ tranh chấp là các bên có quốc tịch khác nhau
hoặc có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau; đối tượng của quan hệ tranh chấp
như hàng hoá, dịch vụ... ở nước ngoài; sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quan hệ tranh chấp xảy ra ở nước ngoài.
Như vậy, theo tác giả “tranh chấp thương mại có YTNN là sự mâu thuẫn, bất
đồng về quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể có liên quan khi tham gia vào các quan hệ
thương mại có yếu tố nước ngoài”.
1.1.2. Đặc điểm tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài
So với các tranh chấp thương mại không có YTNN, tranh chấp thương mại
có YTNN có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, một trong các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tranh chấp thương
mại có YTNN được xác định như sau:
Tại quy định của khoản 2 Điều 464 BLTTDS năm 2015, vụ việc dân sự có
YTNN là vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây: “a) Có ít nhất
một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài; b) Các bên
tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi,
thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên tham gia
đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự
đó ở nước ngoài”. Như vậy, để xác định YTNN trong các tranh chấp thương mại sẽ
8
căn cứ vào một trong ba tiêu chí về chủ thể, sự kiện pháp lý và đối tượng của tranh
chấp thương mại. Cụ thể:
Về tiêu chí chủ thể của tranh chấp thương mại có YTNN, tranh chấp đó có ít
nhất một trong các bên tham gia là thương nhân nước ngoài: theo quy định tại điểm
a khoản 2 Điều 464 Bộ TTDS 2015, tranh chấp thương mại có YTNN là tranh chấp
phát sinh khi có ít nhất một trong các bên tham gia là người nước ngoài, có quan, tổ
chức nước ngoài. Theo khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005, chủ thể trong hoạt
động thương mại là thương nhân, bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh. Như vậy, thương nhân nước ngoài có thể là cá nhân hoặc là cơ quan, tổ chức
(có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân).
Về tiêu chí sự kiện pháp lý làm phát sinh tranh chấp thương mại có YTNN:
Theo điểm b khoản 2 Điều 464 Bộ TTDS 2015, một tranh chấp thương mại được
xem là có YTNN khi các thương nhân Việt Nam xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc
chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài. Quy định này hoàn toàn phù hợp với
phần thứ 5 của BLDS 2015 quy định về việc xác định pháp luật áp dụng đối với
quan hệ dân sự có YTNN.
Về tiêu chí đối tượng của tranh chấp thương mại có YTNN: một tranh chấp
thương mại phát sinh giữa các thương nhân Việt Nam với nhau khi đối tượng của
quan hệ thương mại, gồm tài sản là hàng hóa, dịch vụ, quyền SHTT, hoạt động đầu
tư được đưa từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại.
Thứ hai, tranh chấp thương mại có YTNN chịu sự điều chỉnh của nguồn luật
phức tạp.
So với tranh chấp thương mại không có YTNN, thì nguồn luật được áp dụng
để GQTC thương mại có YTNN phức tạp hơn nhiều so với các tranh chấp không có
YTNN. Khi tiến hành hoạt động thương mại trong nước các thương nhân chỉ cần
tìm hiểu hệ thống pháp luật của quốc gia mình và khi xảy ra tranh chấp thì cũng do
chính hệ thống pháp luật nước đó điều chỉnh. Đối với tranh chấp có phạm vi quốc tế
thì không hề đơn giản như vậy, ngoài việc nắm vững các quy định pháp luật nước
mình các bên còn phải tìm hiểu hệ thống pháp luật nước ngoài. Do vậy, các thương
nhân khi tiến hành hoạt động thương mại có YTNN cần phải chú ý đến không chỉ là
pháp luật quốc gia mà còn là ĐƯQT, TQQT, thậm chí là cả thực tiễn xét xử của Tòa
án và tập quán thương mại quốc tế. Ví dụ, các dấu hiệu “quốc tịch, trụ sở hoặc nơi
cư trú” của các thương nhân ở các nước khác nhau sẽ làm cho địa vị pháp lý của các
bên tranh chấp luôn chịu sự điều chỉnh ít nhất hai hệ thống pháp luật. Thông thường
9
pháp luật của nước mà thương nhân mang quốc tịch sẽ điều chỉnh những vấn đề
pháp lý riêng của thương nhân, như: điều kiện trở thành thương nhân, đại diện
thương nhân, chấm dứt tư cách thương nhân, giải quyết vấn đề tài sản khi thương
nhân chấm dứt hoạt động. Khi thương nhân tiến hành hoạt động thương mại tại
nước nào thì hệ thống pháp luật nước đó sẽ điều chỉnh những vấn đề như: cho phép
thương nhân được hoạt động trong những lĩnh vực thương mại; quyền và nghĩa vụ
khi tham gia vào những hoạt động thương mại đó. Như vậy, việc xác định địa vị
pháp lý của các bên tranh chấp sẽ phức tạp hơn rất nhiều so với tranh chấp chỉ phát
sinh từ một quan hệ thương mại không có YTNN.
1.1.3. Phân loại tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài
Phân loại tranh chấp thương mại có YTNN không chỉ có ý nghĩa về khoa học
mà còn có ý nghĩa sâu sắc về thực tiễn. Đồng thời, phân loại chính xác các tranh
chấp này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, để chỉ ra bản chất của các
loại tranh chấp thương mại có YTNN, từ đó có định hướng cho việc xây dựng và
hoàn thiện cơ chế GQTC. Chúng ta có thể dựa vào nhiều căn cứ khác nhau để phân
loại các tranh chấp thương mại có YTNN, xuất phát từ nội hàm tranh chấp nêu trên
và hình thức pháp lý của quan hệ thương mại, tác giả phân loại tranh chấp thương
mại có YTTN thành hai dạng sau:
1.1.3.1. Tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài phát sinh từ hợp đồng
Hợp đồng thương mại có YTNN được xác lập hợp pháp sẽ làm phát sinh
quyền vụ của các bên. Thực hiện hợp đồng thương mại có YTNN là hành vi của các
chủ thể nhằm làm cho các nội dung đã cam kết trong hợp đồng trở thành hiện thực.
Nếu hành vi nào trái với cam kết trong hợp đồng, dẫn đến thiệt hại cho bên kia thì
coi là vi phạm hợp đồng thương mại và làm phát sinh tranh chấp hợp đồng thương
mại có YTNN. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương mại có YTNN cũng có nội
dung rất rộng, bao gồm:
Một là, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa có YTNN (còn
gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế). Hoạt động mua bán hàng hóa là hoạt
động trung tâm trong các loại hoạt động thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận thanh toán, người
mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán, nhận hàng và quyền sở hữu về hàng hóa.
Do vậy, tranh chấp sẽ phát sinh khi bên bán hoặc bên mua vi phạm hợp đồng. Đối
với tranh chấp phát sinh do bên bán vi phạm hợp đồng thường xảy ra khi: Bên bán
không giao hàng, giao hàng chậm, không giao hậm chứng từ liên quan đến hàng
hóa; hoặc người bán giao hàng không đúng quy cách, sản phẩm chất lượng, như
10
giao hàng không đúng tiêu chuẩn về chất lượng mà các bên đã thỏa thuận trong hợp
đồng; hoặc tranh chấp phát sinh liên quan đến số lượng, bao bì, ký mã hiệu hàng
hóa, là tranh chấp phát sinh do việc bên mua phát hiện ra sự thiếu hụt về số lượng
hàng hóa, hàng hóa được giao không đồng bộ trong quá trình kiểm tra khi giao nhận
hàng hóa. Đối với tranh chấp phát sinh khi bên mua vi phạm xảy ra khi: Bên mua
nhận hàng chậm hoặc không nhận hàng; hoặc bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán
tiền mua hàng hóa.
Hai là, tranh chấp thương mại có YTNN phát sinh từ hợp đồng thuộc nhóm
thương mại dịch vụ. Hoạt động thương mại dịch vụ là việc cung ứng, trao đổi, mua
bán, kinh doanh và đầu tư vào các hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận. Chính vì
vậy, tranh chấp thương mại dạng này sẽ có đối tượng là các dịch vụ. Các tranh chấp
dạng này thường phát sinh trên cơ sở: hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế (bằng
đường biển, đường hàng không…); hợp đồng logistic; hợp đồng cung ứng dịch vụ
tư vấn; hợp đồng xây dựng…
Ba là, tranh chấp thương mại có YTNN phát sinh từ hợp đồng chuyển giao
quyền SHTT hay còn gọi là tranh chấp hợp đồng li xăng. Các tranh chấp từ hợp
đồng li xăng chiếm phần lớn các tranh chấp trong hợp đồng SHTT liên quan đến
việc sử dụng đối tượng được chuyển giao, thanh toán, chuyển giao li xăng cho
người thứ ba, tranh chấp về hợp đồng nhượng quyền thương mại, các trường hợp
đơn phương chấm dứt hợp đồng. Như vậy, trong hoạt động thương mại có YTNN,
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển giao quyền SHTT là một loại tranh chấp
về hợp đồng thương mại hàng hóa đặc biệt.
Bốn là, tranh chấp thương mại có YTNN phát sinh từ hợp đồng đầu tư. Để tiến
hành đầu tư thu lợi nhuận, các thương nhân cũng phải thiết lập các hợp đồng như:
hợp đồng BOT (Xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), hợp đồng BTO (Xây dựng chuyển giao - kinh doanh), hợp đồng BT (Xây dựng - chuyển giao), hợp đồng liên
doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Tranh chấp này phát sinh là tranh chấp
trong việc thực hiện các dự án đầu tư có YTNN được ghi nhận trong các hợp đồng
BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), hợp đồng BTO (xây dựng - chuyển
giao - kinh doanh), hợp đồng BT (xây dựng - chuyển giao), hợp đồng liên doanh và
hợp đồng hợp tác kinh doanh.
1.1.3.2. Tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài phát sinh ngoài hợp đồng
Bên cạnh tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương mại có YTNN, cũng có
nhiều trường hợp phát sinh tranh chấp hoàn toàn không phải do hành vi vi phạm
hợp đồng thương mại hoặc có phát sinh từ hợp đồng nhưng không phải là hợp đồng
11
thương mại mà là hợp đồng về việc góp vốn thành lập doanh nghiệp; hợp đồng hợp
tác cùng kinh doanh theo nguyên tắc cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ khi có rủi ro.
Những tranh chấp phát sinh dạng này thường gặp trong quá trình hoạt động của một
công ty khi những bất đồng ý kiến của các bên tham gia công ty không được giải
quyết cũng làm phát sinh tranh chấp. Thuật ngữ được dùng để chỉ tranh chấp loại
này là “tranh chấp nội bộ giữa các thành viên trong một công ty với nhau”.
Ngoài ra, khi thực hiện hoạt động thương mại có YTNN mà không thông qua
hợp đồng cũng có thể làm phát sinh hàng loạt tranh chấp, đó là các trường hợp
thương nhân thực hiện hoạt động thương mại trái với quy định của pháp luật trong
hoạt động thương mại, trái với tập quán trong kinh doanh gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân, người tiêu dùng ở nước
khác như: khi thương nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh (động
quảng cáo thiếu trung thực, hoạt động khuyến mại không trung thực nhằm bán phá
giá hàng hóa...), vi phạm về chất lượng sản phẩm ảnh hưởng đến quyền lợi của
người tiêu dùng.
Khác biệt lớn nhất giữa tranh chấp phát sinh ngoài hợp đồng với tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có YTNN là cơ sở làm phát sinh
trách nhiệm của các bên trong tranh chấp không dựa trên các thỏa thuận của hợp
đồng mà dựa trên các quy định của pháp luật. Ngoài ra trong quá trình giải quyết
loại tranh chấp này, các thiết chế GQTC sẽ phải lưu ý đến vấn đề khác biệt của yếu
tố chủ thể: Người thực hiện hành vi vi phạm, người bị thiệt hại, người không thực
hiện hành vi trái pháp luật nhưng theo quy định của pháp luật là đối tượng phải chịu
trách nhiệm bồi thường (thí dụ như pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra
thiệt hại…).
Việc xác định đúng chủ thể trong tranh chấp sẽ thúc đẩy việc GQTC nhanh
chóng và kịp thời. Ngoài ra việc giải quyết thường mang tính phức tạp vì sự đồng
thuận giữa các bên liên quan đến việc lựa chọn cơ quan GQTC và luật áp dụng
thường khó khăn. Mỗi một đất nước lại đưa ra tiêu chí không giống nhau khi xác
định thẩm quyền của Tòa án và luật áp dụng cho loại hình tranh chấp này, có nơi
đưa ra tiêu chí tương tự như đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vì cho rằng
các tranh chấp đó gắn với sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng trước đó, có
quốc gia lại cho rằng không thể dùng các tiêu chỉ giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng để giải quyết tranh chấp phát sinh ngoài hợp đồng.
Tóm lại, các tranh chấp thương mại có YTNN được phát sinh từ hợp đồng
hoặc không có hợp đồng song cơ bản các tranh chấp này đều xoay quanh các đối
12
tượng là thương mại hàng hóa; thương mại dịch vụ, thương mại đầu tư và thương
mại liên quan đến quyền quyền SHTT.
1.1.4. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài
Trong thời đại toàn cầu hóa, nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia là tất yếu nên
sư hợp tác giữa các chủ thể đến từ các quốc gia hoặc tại quốc gia nhưng có quốc
tịch khác nhau không thể tránh khỏi phát sinh những tranh chấp và nhu cầu GQTC.
Đề việc GQTC có hiệu quả, đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác với nhau trên nhiều
lĩnh vực nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quá trình giải quyết. Do
đó, phát huy hiệu lực của pháp luật về vấn đề này trong những điều kiện phù hợp có
ý nghĩa chính trị, kinh tế và pháp lý hết sức quan trọng. Trong đó, GQTC thương
mại có YTNN theo thủ tục tố tụng tại Tòa án gắn liền với quyền lực Nhà nước, bởi
vì bản án mang tính bắt buộc thi hành và được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế
của Nhà nước. Với nguyên tắc đa phần là hai cấp xét xử và xét xử tập thể nên
những sai sót trong quá trình GQTC có khả năng được phát hiện và khắc phục. Tuy
nhiên, trong kinh doanh quốc tế, quan hệ hợp tác bạn hàng cũng là một trong những
yếu tố rất quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Khi tranh chấp phát sinh,
quan hệ kinh doanh của các bên bị ảnh hưởng mà các bên thường muốn “giữ mối
quan hệ bạn hàng” trên thị trường cũng như không muốn bị bỏ lỡ các cơ hội kinh
doanh. Trong khi Tòa án có những “điểm yếu” không thích hợp để GQTC kinh
doanh, thương mại quốc tế. Nhu cầu đặt ra là phải có một hình thức GQTC thay thế
cho Tòa án nhằm đáp ứng yêu cầu kinh doanh, thương mại cho các bên. Các hình
thức giải quyết tranh thay thế cho Tòa án có thế như thương lượng, trung gian, hòa
giải, trọng tài để đáp ứng yêu cầu GQTC thương mại quốc tế nhanh chóng, tiện lợi.
Hầu hết các quốc gia đều đa dạng hóa các phương thức GQTC thương mại có
YTNN nhằm đáp ứng yêu cầu của các bên chủ thể. Do đó, mặc dù luật pháp của
mỗi quốc gia không giống nhau nhưng đều cho thấy vai trò GQTC thương mại có
YTNN có những điểm chung sau đây:
Thứ nhất, về phương diện chính trị: việc thừa nhận các phương thức GQTC tại
các quốc gia sẽ thúc đẩy hợp tác hữu nghị giữa các quốc gia, qua đó vừa khẳng định
quyền tối cao của quốc gia trong việc lập pháp, khẳng định chủ quyền tài phán của
quốc gia và phần nào thể hiện ý chí của quốc gia đối với quốc gia khác cũng như sự
tin tưởng lẫn nhau. Sự hợp tác giữa các quốc gia trong vấn đề này không chỉ là sự
thuần túy thể hiện ở lĩnh vực lập pháp, tư pháp mà còn thể hiện sự tôn trọng và tin
tưởng quốc gia này với quốc gia khác. Bởi trên cơ sở sự công khai, minh bạch và ổn
định của nền lập pháp, tư pháp nói riêng hay pháp luật nói chung, các quan hệ kinh
13
- Xem thêm -