BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
BÙI THANH HƢNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TẠI HUYỆN THƢỜNG XUÂN,
TỈNH THANH HÓA
BÙI THANH HƢNG
2018 - 2020
HÀ NỘI – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TẠI HUYỆN THƢỜNG XUÂN,
TỈNH THANH HÓA
BÙI THANH HƢNG
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS NGUYỄN HIỀN PHƢƠNG
HÀ NỘI – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Bùi Thanh Hưng, học viên lớp 18KB khóa 18 xin cam đoan đây
là công trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ bất kỳ nguồn tài liệu
nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích trong luận văn
đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận của cơ quan
cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả nghiên
cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách quan. Tôi
xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số liệu cũng
như các thông tin sử dụng trong công trình nghiên cứu của mình.
NGƢỜI THỰC HIỆN
Bùi Thanh Hƣng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH
An sinh xã hội
CSSK
Chăm sóc sức khỏe
BHYT
Bảo hiểm y tế
BHXH
Bảo hiểm xã hội
KCB
Khám chữa, bệnh
NLĐ
Người lao động
NSDLĐ
NSNN
Người sử dụng lao động
Ngân sách nhà nước
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ...................................... 4
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của Luận văn ................................. 5
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 5
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO
HIỂM Y TẾ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ TẠI VIỆT
NAM ................................................................................................................. 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật BHYT............................................. 6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò BHYT ................................................... 6
1.1.2. Khái niệm và nội dung pháp luật BHYT .............................................. 12
1.1.3. Nguyên tắc pháp luật BHYT ................................................................. 17
1.2. Quy định pháp luật về BHYT tại Việt Nam ........................................ 20
1.2.1. Đối tượng tham gia BHYT.................................................................... 20
1.2.2. Quy định về chế độ hưởng BHYT ........................................................ 24
1.2.3. Quy định về quỹ BHYT ........................................................................ 33
1.2.4. Quy định về quản lý và tổ chức thực hiện BHYT ................................ 39
1.2.5. Quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về BHYT 40
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................. 43
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y
TẾ TẠI HUYỆN THƯỜNG XUÂN, TỈNH THANH HÓA ...................... 44
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội và cơ quan thực hiện BHYT .... 44
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội huyện Thường Xuân .................... 44
2.1.2. Cơ quan thực hiện BHYT - BHXH huyện Thường Xuân .................... 46
2.2. Những thành tựu, kết quả đạt đƣợc trong thực hiện pháp luật BHYT
tại huyện Thƣờng Xuân ................................................................................ 49
2.2.1. Về đối tượng tham gia BHYT ............................................................... 49
2.2.2. Về giải quyết chế độ quyền lợi hưởng BHYT ...................................... 50
2.2.3. Về công tác thu, chi và quản lý quỹ BHYT .......................................... 51
2.2.4. Về công tác quản lý, tổ chức thực hiện pháp luật về BHYT ................ 53
2.2.5. Về công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật BHYT ..... 54
2.3. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong việc
thực hiện pháp luật BHYT tại huyện Thƣờng Xuân ................................. 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................. 60
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN TẠI HUYỆN THƯỜNG XUÂN, TỈNH THANH
HÓA ................................................................................................................ 61
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật BHYT ................................................... 61
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành về BHYT
......................................................................................................................... 64
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHYT tại
huyện Thƣờng Xuân, tỉnh Thanh Hóa. ....................................................... 68
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ .
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm sóc y tế là một trong những chế độ trợ cấp quan trọng, mang tính
đặc thù của hệ thống ASXH. Pháp luật về ASXH của hầu hết các quốc gia
trên thế giới đều ưu tiên đảm bảo chế độ trợ cấp về y tế, thể hiện dưới hình
thức BHYT. Chính vì lẽ đó, pháp luật về BHYT là một trong những bộ phận
cơ bản của hệ thống pháp luật ASXH, là cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền lợi
của người tham gia BHYT, đáp ứng được yêu cầu chăm sóc y tế và hơn hết là
chia sẻ những rủi ro khi người tham gia BHYT ốm đau, bệnh tật.
Ở nước ta, quy định pháp luật về BHYT bắt đầu được hình thành từ
những năm đầu thập niên 90, cụ thể là vào ngày 15/8/1992 Nghị định số 299HĐBT ngày 15-8-1992 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ban hành Điều lệ Bảo
hiểm Y tế. Đến nay, BHYT được tổ chức thực hiện trên cơ sở pháp lý là Luật
BHYT năm 2008, sửa đổi, bổ sung Luật BHYT năm 2014 và các quy định
pháp luật liên quan. Việc ra đời và phát triển các quy định về BHYT qua các
thời kỳ, các lần sửa đổi, bổ sung đã phần nào đạt được nhiều thành tựu đáng
kể trong việc mở rộng phạm vi đối tượng tham gia, mở rộng quyền lợi và
nâng cao mức trợ cấp về kinh tế cho người dân tham gia BHYT, đảm bảo quỹ
BHYT vẫn luôn được giữ an toàn.
Tuy vậy, bên cạnh các thành tựu đã đạt được, vẫn tồn tại các hạn chế
như: Quyền lợi của người tham gia BHYT trong nhiều trường hợp vẫn chưa
được đảm bảo; Chất lượng KCB chưa cao; Khó khăn trong việc tiếp cận dịch
vụ y tế đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, biên giới và các
vùng kinh tế đặc biệt khó khăn; Ở các đô thị lớn, tình trạng quá tải điều trị nội
trú xảy ra thường xuyên, cơ sở vật chất không đảm bảo, xuống cấp, không
đáp ứng được nhu cầu CSSK ngày càng lớn của người dân; Hiện tượng trục
lợi BHYT vẫn hàng ngày diễn ra phức tạp, trong một số trường hợp, có hiện
tượng bệnh viện kê khai “khống” kết quả xét nghiệm để trục lợi từ quỹ
BHYT.
Việc nghiên cứu pháp luật về BHYT tại nước ta và thực tiễn thực hiện
tại huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp,
phương hướng góp phần hoàn thiện pháp luật về BHYT ở nước ta và nâng
1
cao hiệu quả, chất lượng trong thực hiện tại huyện Thường Xuân hiện nay là
thực sự cần thiết và có vai trò quan trọng, góp phần vào mục tiêu an sinh xã
hội, chia sẻ rủi ro, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe con người một cách tốt nhất.
Bởi các lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Pháp luật Bảo
hiểm y tế ở Việt Nam từ thực tiễn tại huyện thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa”
cho luận văn thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
BHYT là một chính sách ASXH, pháp luật về BHYT là bộ phận quan
trọng không thể thiếu của pháp luật về ASXH. Trên thế giới BHYT ra đời từ
rất sớm và đã khẳng định tầm quan trọng tại các nước có kinh tế phát triển. Ở
Việt Nam ta pháp luật về BHYT đang trên con đường xây dựng và phát triển,
từ khi ra đời cho đến nay đã có rất nhiều nhà khoa học có các công trình đề tài
nghiên cứu, luận án hay bài viết khoa học về Pháp luật BHYT dưới nhiều góc
độ tiếp cận khác nhau, có thể kể tới:
Về sách tham khảo có một số cuốn sách như: “Pháp luật bảo hiểm y tế
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay”, NXB Tư pháp năm
2018 cuả tác giả Phùng Thị Cẩm Châu và “Pháp luật về bảo hiểm y tế một số
quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, NXB Tư pháp
năm 2013 của tác giả Nguyễn Hiền Phương; “Hỏi đáp pháp luật về bảo hiểm
y tế”, NXB Tư pháp năm 2016 của tác giả Nguyễn Hiền Phương và Phùng
Thị Cẩm Châu; “Quyền an sinh xã hội và đảm bảo thực hiện trong pháp luật
Việt Nam” Tác giả Lê Thị Hoài Thu là chủ biên năm 2014.
Đối với cấp độ luận án, luận văn có thể kể tới: Luận án “Hoàn thiện
pháp luật Bảo hiểm y tế Việt Nam” của Phùng Thị Cẩm Châu, năm 2018;
Luận án “Quản lý quỹ bảo hiểm y tế ở Việt Nam” của Phạm Thu Hiền năm
2019; Luận văn: “Pháp luật bảo hiểm y tế và thực tiễn thực hiện tại huyện
Văn Chấn, tỉnh Yên Bái”: của Hà Biên Cương năm 2017; “Pháp luật về bảo
hiểm y tế và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hòa Bình” của Trần Minh Thêu năm
2019
Trên các tạp chí có thể kể tới một số bài viết như: “Đẩy mạnh việc thực
thi chính sách, pháp luật về BHYT ở Việt Nam” của Đoàn Huy Kim trên Tạp
chí Quản lý nhà nước, số 07/2018; “Kiến nghị hoàn thiện một số quy định của
2
Luật BHYT nhằm thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân” của TS. Đỗ Thị Thùy
Dung trên tạp chí Luật học, số 08/2017; “Thực hiện giải pháp mạnh ngăn
ngừa lợi dụng trục lợi quỹ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế”, của TS. Nguyễn
Văn Tiến, đăng trên Tạp chí BHXH kỳ 01, tháng 7/2017; “Bảo hiểm y tế hộ
gia đình - từ quy định pháp luật đến thực tiễn thực hiện”, Tạp chí Bảo hiểm
xã hội kỳ II tháng 8/2015, tr. 24-28 và nhiều bài viết khác.
Các công trình nghiên cứu, luận án, luận văn về BHYT và pháp luật
BHYT từ trước tới nay nhìn chung đã đề cập toàn diện các vấn đề liên quan
đến pháp luật BHYT, là nền tảng lý luận cơ bản cho BHYT và pháp luật
BHYT ở nước ta. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu phần lớn chỉ tiếp cận
về BHYT nói chung, chỉ số ít nghiên cứu về thực tiễn trên địa bàn các địa
phương. Tại huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa theo tác giả được biết chưa
có công trình nghiên cứu khoa học nào về Pháp luật BHYT hiện hành và thực
tiễn thực hiện tại huyện Thường Xuân. Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu về:
“Pháp luật Bảo hiểm y tế ở Việt Nam từ thực tiễn tại huyện Thường Xuân,
tỉnh Thanh Hóa” là thực sự cần thiết, có ý nghĩa thiết thực trên các phương
diện lý luận và thực tiễn áp dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu các quy định pháp luật
BHYT hiện hành ở nước ta hiện nay và việc áp dụng các quy định đó từ thực
tiễn tại huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Từ đó, tìm ra các nguyên nhân
hạn chế còn bất cập trong các quy định pháp luật về BHYT đưa ra quan điểm
các giải pháp hoàn thiện pháp luật BHYT và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật BHYT ở huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Từ mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu một số
vấn đề lý luận và pháp luật BHYT ở Việt Nam; Nghiên cứu, phân tích và
đánh giá các quy định pháp luật về BHYT hiện hành tại Việt Nam. Từ đó tìm
hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về BHYT tại huyện Thường
Xuân, tỉnh Thanh Hóa, đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật BHYT
ở Việt Nam và đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng hiệu quả việc thực
hiện pháp luật BHYT tại huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: Là Luật BHYT và các văn bản
hướng dẫn thi hành về BHYT tại Việt Nam. Luận văn cũng tập trung nghiên
cứu về thực tiễn thực hiện BHYT ở huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa
trong những năm gần đây.
Về phạm vi nghiên cứu: BHYT và pháp luật về BHYT là một lĩnh vực
rộng lớn. Trong giới hạn nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ đi sâu nghiên
cứu BHYT xã hội dưới góc độ pháp luật và ở các nội dung như đối tượng
tham gia, chế độ hưởng BHYT, quỹ BHYT, tổ chức thực hiện BHYT, công
tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật BHYT từ thực tiễn thực
hiện tại huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Trong giới hạn của luận văn
tác giả không đề cập tới vấn đề giải quyết tranh chấp BHYT, bởi những năm
qua tại huyện Thường Xuân, không xảy ra các tranh chấp BHYT.
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp
luật BHYT tại huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật BHYT
ở huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa từ năm 2017 – 2019.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về chính sách và
pháp luật BHYT. Quá trình xuyên suốt toàn bộ luận văn vận dụng sự kết hợp
sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, mô tả… cụ thể:
Phương pháp tổng hợp, thống kê: Nhằm tập hợp, chọn lọc các thông tin
có ý nghĩa cần thiết từ các tài liệu tham khảo có liên quan đến pháp luật
BHYT, từ đó sắp xếp, khái quát hóa theo từng nội dung cần trình bày trong
luận văn.
Phương pháp mô tả: Với mục tiêu khái quát, cô đọng lại các kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học từ trước tới nay và mô tả các quy
định pháp luật cũng như tình hình thực hiện pháp luật, qua đó tạo ra bức tranh
tổng thể về pháp luật BHYT Việt Nam.
4
Phương pháp phân tích, so sánh: Nhằm mục đích đối chiếu các quy
định pháp luật của BHYT Việt Nam trong các thời kỳ khác nhau, tìm các
điểm mới giữa các quy định, từ đó giải thích tại sao có sự thay đổi đó.
Phương pháp khai thác, thu thập thông tin và xử lý số liệu để phục vụ
cho việc phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật BHYT…
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của Luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về pháp luật BHYT tại Việt
Nam, đánh giá việc thực hiện áp dụng pháp luật BHYT từ thực tiễn huyện
Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, từ đó đề xuất một số ý kiến, giải pháp để hoàn
thiện pháp luật về BHYT và nâng cao chất lượng hiệu quả trong việc thực
hiện các quy định pháp luật về BHYT. Kết quả nghiên cứu của luận văn có
giá trị tham khảo đối với các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện pháp
luật BHYT và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHYT tại địa phương.
Ngoài ra, luận văn này sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với
việc học tập, nghiên cứu pháp luật của bất cứ cá nhân quan tâm tới lĩnh vực
BHYT.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được trình bày ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục
tham khảo, kết cấu luận văn được chia thành 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm y tế và quy
định pháp luật bảo hiểm y tế tại Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật bảo hiểm y tế tại huyện
Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật bảo hiểm y
tế và những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện tại huyện Thường Xuân,
tỉnh Thanh Hóa
5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ
VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ TẠI VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật BHYT
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò BHYT
- Khái niệm:
Trong mỗi chúng ta không ai sinh ra mà lại không mong muốn mình có
sức khỏe. Sức khỏe là nền tảng cơ bản của một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc,
là cơ sở quan trọng để mỗi người thực hiện ý tưởng, ước mơ, nguyện vọng
của cuộc đời mình. Ngày nay, khi nền kinh tế - xã hội vận động và phát triển,
kéo theo nhiều hệ lụy ảnh hưởng tới khí hậu, môi trường và đời sống sinh
hoạt của con người, rủi ro về bệnh tật ốm đau luôn có khả năng tác động đến
con người. Khi xảy ra ốm đau, bệnh tật, ốm đau bất ngờ không phải ai cũng
có đủ khả năng để chi trả chi phí KCB. Bên cạnh đó, với sự phát triển của
kinh tế xã hội, cuộc sống con người được nâng cao, người dân ý thức được
tầm quan trọng của sức khỏe, yêu cầu được CSSK của người dân không
ngừng tăng lên. Hệ thống KCB, cơ sở vật chất y tế cũng đã phát triển theo
nhưng vẫn không đáp ứng đủ, gây gánh nặng cho nguồn NSNN. Do đó,
BHYT được ra đời với tính chất phi lợi nhuận, huy động sự đóng góp của số
đông người khỏe mạnh để chia sẻ cho số ít người ốm đau, bệnh tật; Giúp gia
đình, doanh nghiệp tháo gỡ được khó khăn và giảm gánh nặng cho nguồn
NSNN.
Hình thức sơ khai đầu tiên của BHYT là bảo hiểm ốm đau và thương
tật cho công nhân của chủ doanh nghiệp, xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX. Ngày
28/6/1952 Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thông qua Công ước số 102 về quy
phạm tối thiểu về an sinh xã hội ghi nhận BHYT là một nội dung thuộc hệ
thống ASXH và là loại hình bảo hiểm phi lợi nhuận, nhằm đảm bảo chi phí y
tế cho người tham gia khi gặp rủi ro, ốm đau, bệnh tật [21]. Quan điểm này
của ILO chưa phân biệt rõ giữa chăm sóc y tế với BHYT. Chăm sóc y tế
không chỉ dừng lại ở chế độ bảo hiểm cho các thành viên trong xã hội còn bao
gồm các hoạt động y tế công cộng khác nhằm mục đích chăm lo và bảo vệ
sức khỏe toàn dân.
6
Trong tuyên bố Alma-Ata năm 1978 của Tổ chức y tế thế giới (WHO)
về “sức khỏe con người”, đưa ra quan niệm về BHYT “là loại hình bảo hiểm
không kinh doanh, không vì mục đích lợi nhuận và được tiếp cận chủ yếu
dưới góc độ quyền con người”. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đều
thống nhất tiếp cận BHYT theo quan điểm của WHO. Trên cơ sở đó, tùy
thuộc vào tính chất và phạm vi áp dụng của từng quốc gia mà có cách tổ chức,
thực hiện khác nhau.
Dưới góc độ kinh tế: BHYT là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc
hợp nhất sự đóng góp tài chính của những người tham gia BHYT không vì
mục đích lợi nhuận, hình thành nên quỹ tài chính chung do Nhà nước quản lý,
nhằm chi trả toàn bộ hoặc một phần chi phí y tế cho người tham gia BHYT
khi gặp ốm đau, bệnh tật. Do đó, BHYT bảo đảm về vật chất để phục vụ cho
những người tham gia BHYT và gia đình họ khi có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi
ốm đau, bệnh tật.
Dưới góc độ xã hội: BHYT có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là một hình
thức tương trợ cộng đồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng với mục đích CSSK
của các thành viên trong xã hội. BHYT thể hiện sự đoàn kết, cùng chia sẻ rủi
ro, ốm đau, bệnh tật, không phân biệt thành phần trong xã hội và vùng miền,
thông qua việc bỏ một phần thu nhập để đóng góp vào quỹ chung nhằm chăm
sóc y tế bản thân và cho các thành viên khác. Ngoài ra, Nhà nước luôn dành
một phần ngân sách để tài trợ cho các thành viên yếu thế trong xã hội, đảm
bảo mọi thành viên đều có quyền được tham gia BHYT.
Dưới góc độ pháp lý: BHYT là sự cụ thể hóa quyền được chăm sóc về
sức khỏe của con người được quy định trong các văn bản pháp luật do Nhà
nước ban hành và tổ chức thực hiện. Các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận
quyền CSSK của con người trong Hiến pháp và cụ thể hóa quyền CSSK của
con người bằng việc xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về BHYT, với
mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc bảo vệ, CSSK của
người dân.
Khái niệm BHYT của Việt Nam cũng thống nhất với quan điểm của Tổ
chức y tế giới (WHO) và các quốc gia khác trên thế giới, được cụ thể hóa
trong Luật BHYT năm 2014: “BHYT là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp
dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc sức khỏe,
7
không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện” [19]. Do vậy, ở
nước ta BHYT là một chính sách ASXH do Nhà nước tổ chức thực hiện nhằm
CSSK cho nhân dân mà không vì mục đích lợi nhuận.
Như vậy, BHYT dù được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau: kinh
tế, xã hội, pháp lý... nhưng đặc trưng của BHYT vẫn cơ bản là sự thiết lập
trên cở sở đóng góp của người tham gia BHYT với mục tiêu chia sẻ rủi ro do
ốm đau, bệnh tật, tai nạn… đảm bảo mọi đối tượng tham gia BHYT đều được
bảo vệ, CSSK và không vì mục đích lợi nhuận. Do đó, từ toàn bộ các phân
tích trên ta có thể đưa ra khái niệm BHYT như sau:
“Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc nhằm mục đích chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân được hình thành trên cơ sở đóng góp của
những người tham gia, do nhà nước tổ chức thực hiện và không vì mục
đích lợi nhuận”
- Đặc điểm của BHYT:
BHYT là cơ chế tài chính trong lĩnh vực CSSK, đồng thời là chính sách
ASXH quan trọng của Nhà nước. Vì vậy, BHYT có những đặc điểm chung
tương đồng với các chính sách ASXH khác của Nhà nước như: Đối tượng
tham gia, thiết lập trên cơ sở tương trợ cộng đồng và tổ chức thực hiện quản
lý bởi Nhà nước… Tuy nhiên, ngoài các đặc điểm chung BHYT còn một số
đặc điểm riêng mang tính đặc thù:
Thứ nhất, đối tượng tham gia BHYT có phạm vi rộng lớn, bao gồm mọi
thành viên trong xã hội. BHYT là hình thức tương trợ cộng đồng, là một
chính sách lớn của Nhà nước với mục tiêu bảo vệ và CSSK cho toàn bộ các
thành viên trong xã hội, vì vậy đối tượng tham gia BHYT không có giới hạn
về bất cứ tiêu chí nào. Nhìn lại từ khi hình thành BHYT ban đầu chỉ là hình
thức bảo hiểm ốm đau và thương tật cho đối tượng công nhân của các chủ
doanh nghiệp tại các nước Tây Âu. Về sau khi đời sống đại bộ phận nhân dân
được nâng cao, ý thức về CSSK của người dân vì thế cũng được cải thiện và
cũng vì nguồn NSNN cần giảm một phần gánh nặng, tất cả thành viên trong
xã hội đều có thể tham gia BHYT dù là trẻ em hay người già, người có quan
hệ lao động, người giàu hay người nghèo khó… điều này cũng là tất yếu bởi
BHYT với mục tiêu hướng tới là sự chia sẻ rủi do ốm đau, bệnh tật và toàn bộ
người dân đều có quyền được hưởng dịch vụ chăm sóc y tế. Hiện nay, nhiều
8
quốc gia trên thế giới qua quá trình phát triển BHYT cho thấy, BHYT ngày
một mở rộng về phạm vi đối tượng tham gia theo nghĩa vụ (tức là theo tính
chất bắt buộc) và tiến tới BHYT toàn dân, đây là một chủ trương, đường lối
mà các quốc gia đang hướng đến vì mục tiêu ASXH.
Thứ hai, mục tiêu của BHYT là nhằm hướng tới CSSK và bảo vệ sức
khỏe cho mọi người dân trong xã hội khi người tham gia BHYT xảy ra rủi do
ốm đau, bệnh tật và không nhằm mục đích bù đắp lại thu nhập, kinh tế bị
giảm sút khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đặc điểm này của BHYT khác với
BHXH ở chỗ phát sinh sự kiện bảo hiểm. Đối với BHXH thì người tham gia
BHXH sẽ được trợ cấp bằng tiền bù đắp lại một phần thu nhập bị mất, còn đối
với BHYT khi người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật thì tất yếu
dẫn đến nhu cầu KCB và sử dụng các dịch vụ y tế (các dịch vụ như: xét
nghiệm, thuốc men, giường bệnh…) điều này sẽ phát sinh các chi phí. Lúc
này BHYT có trách nhiệm chi trả các chi phí của dịch vụ y tế cho người tham
gia. Vì vậy, mục tiêu của BHYT hướng đến là CSSK và bảo vệ sức khỏe cho
mọi người dân thông qua việc chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí KCB
chăm sóc y tế chứ không nhằm mục đích bù đắp lại thu nhập bị mất bằng trợ
cấp tiền mặt như các loại bảo hiểm khác.
Thứ ba, mức hưởng của BHYT dựa trên cơ sở tình trạng bệnh tật, ốm
đau của người tham gia đóng BHYT. Từ khi hình thành cho đến nay mức
hưởng BHYT không dựa trên cơ sở mức độ rủi ro, mức hưởng BHYT dựa
theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và không phải chi trả trực tiếp như các loại
hình bảo hiểm khác. Khi người tham gia BHYT xảy ra ốm đau, bệnh tật, họ sẽ
được hưởng các dịch vụ chăm sóc y tế cho đến khi hồi phục, điều này hoàn
toàn không phụ thuộc vào mức đóng, thời gian đóng BHYT hay xem xét đến
mức lương làm căn cứ đóng của họ là bao nhiêu. Mức độ được chăm sóc, bảo
đảm về các dịch vụ y tế phụ thuộc vào khả năng cung cấp của cơ sở KCB.
Đây chính là đặc điểm cơ bản của BHYT khác với các loại hình bảo hiểm
khác kể từ khi hình thành cho đến nay.
Thứ tư, việc tổ chức thực hiện BHYT dựa trên quan hệ ba bên: Bên
tham gia đóng BHYT, bên thực hiện BHYT và cơ sở KCB. Mối quan hệ ba bên
trong BHYT là mối liên kết chặt chẽ nhằm phát huy đầy đủ quyền lợi cũng
như lợi ích của BHYT đối với xã hội. Đây là mối quan hệ xuyên suốt trong hệ
9
thống BHYT, được xem là quan hệ giữa trách nhiệm và quyền lợi của những
cá nhân và tổ chức tham gia BHYT. Khác với các loại hình bảo hiểm khác,
việc thực hiện BHYT bao giờ cũng có sự xuất hiện của bên thứ ba là cơ sở
KCB BHYT, là cơ quan tổ chức thực hiện việc KCB và cung cấp các dịch vụ
CSSK. Khi người tham gia BHYT có nhu cầu KCB (sự kiện bảo hiểm xảy ra)
họ sẽ có nhu cầu tới các cơ sở y tế KCB để CSSK, từ đó sẽ phát sinh các chi
phí, các chi phí này sẽ được cơ quan BHYT chi trả theo quyền lợi hưởng đã
quy định. Do đó, việc đáp ứng nhu cầu của người tham gia BHYT hay chất
lượng của BHYT phụ thuộc nhiều vào khả năng cung cấp dịch vụ (cơ sở hạ
tầng kỹ thuật, chuyên môn cán bộ y bác sỹ…) của cơ sở cung cấp dịch vụ y tế
KCB. Vì vậy, trong quan hệ ba bên của hoạt động BHYT cần đòi hỏi sự phối
hợp, hợp tác hài hòa giữa các chủ thể, đặc biệt là với các cơ sở cung cấp dịch
vụ y tế KCB.
- Vai trò của BHYT
Đối tượng tham gia BHYT hướng tới là toàn xã hội, mục tiêu của
BHYT là CSSK và bảo vệ sức khỏe cho toàn dân. Chỉ có sức khỏe của người
dân được đảm bảo thì tình hình kinh tế, chính trị - xã hội mới của đất nước
mới ổn định và phát triển bền vững. Vì vậy, BHYT đóng vai trò, ý nghĩa quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đời sống của
người dân, cụ thể:
+ Đối với người dân và các thành viên trong xã hội
BHYT là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện trách nhiệm trong
việc đảm bảo quyền con người, đó chính là quyền được đảm bảo CSSK của
mỗi thành viên trong xã hội. Qua hoạt động BHYT mỗi công dân trong xã hội
đều có thể thực hiện quyền của bản thân đối với sức khỏe và Nhà nước cũng
thực hiện được trách nhiệm trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân
dân. Ngoài ra, BHYT đảm bảo cho những người yếu thế trong xã hội cũng
được CSSK và hưởng các dịch vụ y tế cơ bản nhất, bảo trợ họ thoát khỏi gánh
nặng về tài chính do phát sinh chi phí KCB và CSSK khi họ gặp phải ốm đau,
bệnh tật.
BHYT là hình thức trợ giúp tài chính, có vai trò quan trọng trong việc
hỗ trợ tài chính cho những người tham gia BHYT và gia đình họ khi gặp rủi
ro ốm đau, bệnh tật. Không phải ai cũng có đủ khả năng tài chính để chi trả
10
toàn bộ các chi phí KCB cho bản thân và gia đình khi gặp rủi ro ốm đau, lúc
này họ cần sự chia sẻ từ các thành viên khác trong xã hội. BHYT xuất hiện có
vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ toàn bộ hay một phần chi phí KCB cho
những người tham gia BHYT và gia đình họ khi gặp rủi ro. Việc hỗ trợ này
không phụ thuộc vào việc người tham gia BHYT là tầng lớp nào trong xã hội,
tôn giáo nào, trẻ hay già… hay mức đóng BHYT, mức lương của họ ra sao,
mà phụ thuộc vào mức độ rủi ro, tình trạng bệnh tật của người tham gia
BHYT.
+ Đối với Nhà nước và xã hội
BHYT trên phương diện xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Trong
hoạt động của BHYT tính nhân văn thể hiện ở việc chia sẻ rủi ro, hỗ trợ lẫn
nhau khi ốm đau, bệnh tật, thể hiện sự tương thân tương ái trong cộng đồng.
Khi ốm đau, bệnh tật, mọi người không chỉ suy giảm về sức khỏe, khả năng
lao động mà còn ảnh hưởng đến tinh thần người bệnh và người thân trong gia
đình. Không phải ai cũng đủ tài lực để chi trả cho chi phí KCB. Bởi vậy,
BHYT sẽ chi trả toàn bộ hoặc một phần các chi phí y tế KCB của người tham
gia BHYT, từ đó khó khăn của người tham gia BHYT phần nào được giảm
gáng nặng về mặt tài chính khi họ gặp rủi ro, ốm đau, bệnh tật.
BHYT là một công cụ hữu hiệu giúp Nhà nước tạo ra sự cân bằng xã
hội trong việc bảo vệ và CSSK cho nhân dân. Bản chất của hoạt động BHYT
là sự phân phối lại giữa những người tham gia, nhằm đáp ứng nhu cầu tài
chính cho việc KCB đảm bảo cho mọi thành phần trong xã hội đều có cơ hội
tiếp cận với các dịch vụ y tế CSSK. Việc phân chia lại dựa trên pháp luật về
BHYT, khi đó những người có điều kiện hơn, thu nhập cao hơn… sẽ đóng
góp nhiều hơn cho xã hội để trợ giúp những người “yếu thế” hơn trong xã hội;
Và mọi người đều có quyền bình đẳng như nhau cần CSSK cho bản thân và
gia đình. Đây chính là sự công bằng trong việc CSSK cho người dân mà mọi
nhà nước muốn hướng tới và BHYT đóng vai trò quan trọng, là cán cân cân
bằng xã hội trong việc bảo vệ và CSSK toàn dân.
BHYT có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, đảm bảo sự phát triển bền vững của người dân trong xã hội. BHYT
giúp mọi người dân đều được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giúp họ chống lại
11
bệnh tật, vượt qua khó khăn, từ đó ổn định lại cuộc sống của bản thân và gia
đình. Điều này sẽ là một tiền đề quan trọng cho mọi quốc gia, vì chỉ có sức
khỏe của người dân được đảm bảo thì kinh tế - xã hội của một quốc gia mới
phát triển một cách bền vững.
BHYT góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và công tác KCB. Ở
mỗi quốc gia NSNN cho lĩnh vực y tế CSSK cho người dân luôn là vấn đề
cấp thiết bởi lẽ sức khỏe của người dân đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của đất nước phát triển bền vững. Tuy nhiên, chỉ
dựa vào nguồn NSNN là không đủ để đáp ứng cho việc nâng cao chất lượng
dịch vụ y tế và năng lực KCB. Vì vậy, thực hiện chính sách BHYT sẽ giúp
ngành y có thêm nguồn lực, động lực để đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, nâng
cao chất lượng nhân lực KCB cho người dân từ đó việc bảo vệ và CSSK của
người dân được nâng lên.
1.1.2. Khái niệm và nội dung pháp luật BHYT
- Khái niệm pháp luật về BHYT
Nhiều quốc gia trên thế giới đều coi BHYT là một chính sách ASXH
lớn. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội, trình độ khoa học kỹ
thuật mà mỗi quốc gia có cách thức, phạm vi mức độ khác nhau để thực hiện
pháp luật về BHYT. Việc xây dựng và ban hành các quy định pháp luật về
BHYT để điều chỉnh các đối tượng, tổ chức trong hoạt động BHYT là thực sự
cần thiết, đảm bảo chính sách ASXH của Nhà nước được thực thi nghiêm
chỉnh, mọi người dân đều được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế không
phân biệt một ai, giảm bớt gánh nặng cho người nghèo, người có hoàn cảnh
khó khăn…cũng để đảm bảo cho tất cả mọi người dân đều được hưởng quyền
con người, quyền được CSSK của mình.
Pháp luật BHYT là một bộ phận cấu thành nên hệ thống pháp luật
ASXH, các quy định của pháp luật BHYT được Nhà nước xây dựng và ban
hành đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp khác nhau. Pháp luật BHYT điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội trong hoạt động BHYT giữa người tham gia
BHYT với cơ quan BHYT (cơ quan được Nhà nước giao tổ chức và thực hiện
BHYT), giữa cơ quan BHYT với cơ sở KCB BHYT và giữa người tham gia
BHYT với cơ sở KCB BHYT. Các quan hệ xã hội này là các quan hệ kinh tế 12
xã hội đan xen lẫn nhau phát sinh trong quá trình tham gia, thụ hưởng BHYT
theo nguyên tắc chia sẻ rủi ro, tương trợ lẫn nhau và không mang mục đích lợi
nhuận, bao hàm toàn bộ các nội dung: Đối tượng tham gia BHYT, chế độ
hưởng, quỹ BHYT, hệ thống tổ chức và thực hiện BHYT, xử lý vi phạm và
giải quyết tranh chấp BHYT. Vì vậy, hầu hết trong Hiến pháp của các quốc
gia trên thế giới đều ghi nhận các quy định về BHYT và được cụ thể hóa bằng
các quy phạm pháp luật về BHYT. Từ các phân tích ở trên, có thể đưa ra khái
niệm về pháp luật BHYT như sau:
“Pháp luật BHYT là hệ thống các quy phạm pháp luật được Nhà
nước xây dựng, ban hành và đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ kinh tế - xã hội phát sinh trong hoạt động BHYT với
mục đích CSSK cho người dân, không vì mục đích lợi nhuận”.
- Nội dung pháp luật về BHYT
Pháp luật BHYT ở các quốc gia trên thế giới nhìn chung đều bao gồm
các nội dung cơ bản như: Đối tượng tham gia BHYT; Chế độ hưởng BHYT;
Quản lý thu, chi quỹ BHYT; tổ chức thực hiện BHYT; công tác thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật BHYT.
Về đối tượng tham gia BHYT, đây là một trong những nội dung quan
trọng của pháp luật BHYT và là mục tiêu hướng đến để thực hiện. Tùy theo
quy định pháp luật BHYT của từng quốc gia có điểm khác nhau về loại hình
tham gia BHYT là bắt buộc hay tự nguyện, nhưng điểm chung của hầu hết
các quốc gia thực hiện BHYT toàn dân thành công đều dựa vào loại hình
BHYT bắt buộc và bảo đảm mọi thành viên trong xã hội đều có thẻ BHYT.
Ví dụ, ở Hàn Quốc Luật BHYT quy định bắt buộc mỗi người dân đều phải
tham gia BHYT. Theo đó, đối tượng ưu tiên được triển khai bảo hiểm y tế
(BHYT) bắt buộc là công nhân khu vực chính thức trong các công ty lớn, kế
đến là công nhân ở các công ty nhỏ hơn và cuối cùng là người lao động tự do.
Ở nước ta, đối tượng tham gia BHYT luôn là vấn đề đặc biệt được quan
tâm và quy định chi tiết trong các văn bản pháp luật từ khi hình thành đến
nay. Đối tượng tham gia BHYT được quy định dựa trên tình hình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và đến nay pháp luật BHYT nước ta quy định
BHYT là loại hình bảo hiểm bắt buộc.
13
Về chế độ hưởng BHYT, là sự tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, thông qua đó xác định điều kiện hưởng, phạm
vi hưởng, mức hưởng và thủ tục hưởng các quyền lợi của BHYT. Do đó, điều
kiện hưởng BHYT là phải đóng phí tham gia BHYT đầy đủ và phải có sự kiện
bảo hiểm xảy ra (ốm đau, bệnh tật…) được quy định trong phạm vi chi trả của
Luật BHYT. Còn mức hưởng là mức chi trả từ quỹ BHYT cho người tham gia
BHYT, mức độ hưởng khác nhau tùy vào các nhóm đối tượng tham gia có đủ
điều kiện hưởng theo quy định
Ở các nước trên thế giới, pháp luật BHYT của các quốc gia nhìn chung
đều có giới hạn và phân biệt về chế độ hưởng của các đối tượng tham gia
BHYT. Như ở Thái Lan, chế độ hưởng BHYT cho công chức bao gồm công
chức, hưu trí và thân nhân của họ gồm bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con gồm các
quyền lợi được CSSK ban đầu, KCB nội, ngoại trú; Còn đối với người lao
động có hợp đồng lao động chế độ hưởng được quy định gồm gói dịch vụ cơ
quan và những chi phí khác do người lao động và người sử dụng lao động chi
trả; Đối với số người dân tham gia BHYT còn lạo, chế độ hưởng BHYT được
hưởng là các dịch vụ KCB cơ bản và tối thiểu, các chi phí đặc biệt thì người
bệnh tự trả. Ở Đức, quyền lợi hưởng BHYT của đối tượng tham gia BHYT
bắt buộc và tự nguyện lại khác nhau ở việc người tham BHYT tự nguyện đã
có mức đóng góp cao hơn người tham gia BHYT bắt buộc nên chế độ hưởng
BHYT được hưởng lớn hơn…
Ở nước ta, tùy vào từng giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế - xã hội mà
pháp luật BHYT về chế độ hưởng cũng được điều chỉnh kịp thời phù hợp với
tình hình đất nước, đảm bảo người dân yên tâm tham gia BHYT và hướng tới
mục tiêu BHYT toàn dân.
Về quản lý quỹ BHYT, trong các hoạt động BHYT, để đảm bảo quản lý
và sử dụng quỹ BHYT tối đa, hiệu quả và cân bằng thu chi thì pháp luật
BHYT phải tạo ra một cơ chế đóng góp, chi trả hợp lý, chặt chẽ. Theo đó,
pháp luật BHYT xác định rõ những nguồn tài chính hình thành quỹ BHYT,
mức đóng, phương thức đóng, phương thức thanh toán chi phí BHYT và dự
liệu các biện pháp bảo toàn, tăng trưởng quỹ, khai thác tối đa hiệu quả sử
dụng quỹ.
14
- Xem thêm -