43
Chng II
THỂ LOẠI SỬ THI
A . Nh.ng ki1n th3c b6 tr8
a. Tình hình sưu tầm sử thi ở Việt Nam
Với sử thi cần chú ý đến khái niệm và đặc điểm thể loại. Thế giới
hiện nay lưu lại được 5 sử thi tiêu biểu : I-li-át, Ô-đi-xê (Hi Lạp), Maha-bha-ra-ta, Ra-ma-ya-na (Ấn Độ), Ka-lê-va-la (Phần Lan). Vậy mà Việt
Nam từ những năm đầu thế kỉ XX đến nay chúng ta đã sưu tầm và
công bố hàng vài chục sử thi các dân tộc ít người. Không chỉ ngạc
nhiên về số lượng mà chúng ta thực sự sửng sốt trước vẻ đẹp nội
dung và giá trị nghệ thuật dân gian được kết tinh trong các tác phẩm
ấy. Nhiều nhà nghiên cứu nhất trí rằng, có một hiện tượng diễn
xướng sử thi sống ở Tây Nguyên. Khi giảng dạy sử thi, cần chú ý đến
một số vấn đề có tính thời sự về thể loại, vấn đề thuật ngữ, những
đặc điểm thời đại sử thi, một số cách phân loại, những nét cơ bản về
dân tộc sản sinh ra tác phẩm đó (vùng VHDG Tây Nguyên, Tây Bắc).
Những vấn đề đặc trưng nội dung và nghệ thuật phản ánh, đặc điểm
diễn xướng tác phẩm. Do thời gian dành cho việc giới thiệu, phân
tích thể loại và tác phẩm hạn chế nên giáo viên cần cho học sinh đọc
trước, chuẩn bị bài ở nhà.
b. Định nghĩa về thể loại
Sử thi thuộc thể loại được sáng tác theo phương thức tự sự có kết
cấu quy mô, gồm nhiều chương hồi, tồn tại trong hình thức văn vần
hoặc văn xuôi kết hợp với văn vần, xuất hiện rất sớm trong lịch sử
văn học các dân tộc nhằm ngợi ca những sự nghiệp anh hùng có tính
toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với toàn thể cộng đồng dân tộc.
44
c. Thời đại của sử thi
Thời đại sử thi là “thời đại của cây kiếm sắt, cái cày và cái rìu
bằng sắt”(Ăng ghen). Đồ sắt được ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả
cao trong chiến tranh và trong công cuộc mở rộng địa bàn làm ăn,
sinh sống của các bộ tộc.
- Thời đại sử thi là thời kì liên minh giữa các cộng đồng thị tộc để
hình thành dân tộc, hình thành nhà nước đầu tiên.
Sử thi ra đời vào thời điểm nối tiếp thần thoại. Thế giới của các vị
thần trong thần thoại bắt đầu chuyển sang thế giới của con người mà
trung tâm của sự phản ánh là con người với ước vọng sức mạnh sánh
ngang thần linh. Các nhân vật trung tâm trong sử thi đậm đà màu
sắc thần kì mà vẫn biểu trưng tập trung nhất cho sức mạnh của cộng
đồng. Đây chính là cái nhìn chứa đựng quan niệm nghệ thuật của
nhân dân được thể hiện tập trung trong việc xây dựng hình tượng
người anh hùng sử thi.
Về kết cấu, sử thi là một câu chuyện được kể với quy mô lớn, có
nhiều chương, vì theo Hêghen “nội dung và hình thức của nó thực
sự là toàn bộ các quan niệm, toàn bộ thế giới và cuộc sống của một
dân tộc được trình bày dưới hình thức khách quan của một biến cố
thực tại”.
“Các nhân vật chính của sử thi là các anh hùng – tráng sĩ tiêu
biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thần, cho ý chí và lòng dũng cảm
của cộng đồng được miêu tả khá tỉ mỉ, đầy đủ từ cách ăn mặc, trang
bị, đi đứng dến những trận giao chiến với kẻ thù, những chiến công
lẫy lừng và đôi khi cả những sinh hoạt đời thường của họ nữa. Điều
đáng chú ý là tất cả những chi tiết này đều được miêu tả trong vẻ
đẹp kì diệu khác thường.
(Từ điển thuật ngữ văn học – Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
đồng chủ biên – NXB Giáo dục, 1992)
45
d. Phân loại sử thi: Có nhiều cách phân loại sử thi. Có khuynh
hướng chia sử thi thành hai loại : sử thi thần thoại và sử thi anh hùng.
Sử thi thần thoại là tiểu loại sử thi có hầu hết các đề tài chính của
thần thoại như : sự hình thành vũ trụ, sự ra đời của muôn loài, nguồn
gốc dân tộc, sự sáng tạo văn hoá. Dân tộc Mường có sử thi thần thoại
nổi tiếng là sử thi Đẻ đất đẻ nước - một loại văn cúng được các thầy
Mo đọc trong các nghi lễ khi gia đình có người chết.
Sử thi anh hùng miêu tả sự nghiệp và chiến công của các anh
hùng trong khung cảnh có những sự kiện lớn mang ý nghĩa trọng
đại đối với cộng đồng. Sử thi Tây Nguyên đa số là sử thi anh hùng:
Đăm Săn, Xinh Nhã, Đăm Noi, Khinh Dú... Sử thi anh hùng có ba đề
tài chính : hôn nhân, chiến tranh và lao động
Phan Đăng Nhật dựa vào cách phân loại của Mêlêtinxki đã phân
ra sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại “Sự hình thành nhà nước là một mốc lịch
sử tạo nên những đặc điểm cơ bản của sử thi. Do đó người ta phân ra
hai loại sử thi : Sử thi cổ sơ là sử thi ra đời trước khi hình thành nhà
nước. Sử thi cổ đại (hay còn gọi là sử thi cổ điển) ra đời sau khi hình
thành nhà nước”.
Chương trình lớp 10 học cả sử thi thế giới và sử thi Việt Nam nên
cần thiết giới thiệu cách phân loại này. Theo Phan Đăng Nhật, Đăm
Săn, Xinh Nhã là sử thi cổ sơ, còn I-li-át, Ô-đi-xê, Ra-ma-ya-na là
những sử thi cổ điển.
e. Diễn xướng sử thi : Từ trước đến nay, khi nghiên cứu sử thi,
các nhà nghiên cứu thường coi sử thi là đối tượng của nghiên cứu
văn học mà quên mất rằng một trong những đặc điểm của sử thi là
nó vẫn tồn tại một cách sinh động trong đời sống của các dân tộc, nơi
nó được sinh thành và lưu giữ. Sử thi đối với đồng bào Tây Nguyên
không phải chỉ là một loại hình ngôn từ dân gian mà nó là loại hình
diễn xướng dân gian, bao gồm cả nghệ thuật ngôn từ, ca hát, nhảy
múa, nghĩa là nó ít nhiều mang tính chất của nghệ thuật sân khấu
46
trình diễn. Nghiên cứu sử thi mà bỏ qua yếu tố diễn xướng tức là ta
đã bỏ qua một bộ phận có ý nghĩa quan trọng về mặt văn hoá, đời
sống. Phương thức diễn xướng sử thi là phương thức khá phổ biến
và thống nhất ở mọi dân tộc có sử thi trên thế giới. Tại Hi Lạp nổi lên
vai trò của các nghệ nhân dân gian trong sự hình thành và lưu truyền
sử thi. Trong thời cổ đại, hình thức kể chuyện trong nhân dân đã khá
phát triển, ngày càng được nâng cao, hình thành nên những bài ca
hay những anh hùng ca”. Song hình thức diễn xướng sử thi một cách
tự nhiên đã không còn tồn tại trong đời sống văn hoá của người Hi
Lạp nhưng vẫn tồn tại một cách sống động trong đời sống của đồng
bào các dân tộc Tây Nguyên. Người Ê-Đê gọi đó là Khan, người
Giarai gọi là Hri, người Hrê gọi là Hmon. Điều đáng tiếc là hiện nay
hầu hết các văn bản sử thi được sưu tầm, dịch ra tiếng Việt đều là
những văn bản tóm tắt bằng văn xuôi chứ chưa được tồn tại trong
hình thức thơ ca như bản chất thực của nó. Chính vì sử thi được tồn
tại trong hình thức thơ ca nên nó mới tồn tại lâu bền đến thế trong kí
ức các nghệ nhân và tạo nên các công thức truyền thống thơ ca đặc
thù trong miêu tả và biểu hiện (Miêu tả người anh hùng, miêu tả
thiên nhiên, ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ đối thoại... thủ pháp
trùng điệp trong kết cấu và ngôn ngữ).
Sử thi là những tác phẩm có dung lượng lớn, nếu diễn xướng
phải mất vài đêm mới hết. Diễn xướng sử thi đòi hỏi một thời điểm,
một không gian đặc biệt phù hợp. Môi trường sinh hoạt quen thuộc
của diễn xướng sử thi là môi trường lễ hội. Lễ hội đảm bảo không khí
“thiêng”, không khí cộng đồng cần thiết cho diễn xướng sử thi vì
nhân vật trung tâm của sử thi là những anh hùng có tầm vóc kì vĩ đại
diện cho sức mạnh cộng đồng, được nhân dân tôn sùng, ngưỡng
vọng… Nghệ nhân kể sử thi đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong việc lưu giữ, sáng tạo và trình diễn tác phẩm. Những nghệ
nhân này hầu hết là những người không biết chữ nhưng họ có khả
năng nhớ một cách kì lạ những tác phẩm sử thi hàng ngàn, hàng vạn
47
câu, họ có bề dày vốn tri thức dân gian đa dạng của dân tộc mình. Lễ
hội cũng là nơi thu hút người ở khắp nơi đến tham dự, tại các địa
điểm sinh hoạt cộng đồng, quanh bếp lửa nhà rông, nhà gươl. Sau
nghi lễ ngoài trời, mọi người quây quần bên bếp lửa, bên vò rượu
cần. Nghệ nhân kể khan ngồi ngay bên bếp lửa và bắt đầu câu
chuyện. Người nghe có khi đông đến nỗi phải ngồi ra phần sau ở
ngoài trời. Thời gian tốt nhất để bắt đầu một cuộc diễn xướng sử thi
là vào buổi tối. Các tài liệu trước đây ghi lại người chứng kiến buổi
diễn xướng sử thi kể rằng : mọi người đến tham dự rất đông, họ ngồi
suốt đêm, nghe say sưa đến nỗi, tối hôm trước họ ngồi thế nào thì
sáng hôm sau vẫn thấy họ ngồi y nguyên như vậy.
B- Phân tích đo>n trích Chin thng Mtao Mxây
Văn bản Ngữ Văn 10
Chương trình lớp 10 PTTH có giới thiệu sử thi Đăm Săn và yêu
cầu phân tích đoạn trích “Chiến thắng MTao Mxây”. Sau đây chúng
tôi xin nêu một vài gợi ý khi khai thác tác phẩm: trọng tâm là qua
phân tích một đoạn trích cụ thể có thể giúp người đọc hiểu được
những giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm sử thi Tây
Nguyên tiêu biểu đồng thời nắm vững đặc trưng của tiểu loại sử thi
anh hùng.
1. Đặc điểm nội dung
Hôn nhân, chiến tranh và lao động là ba đề tài chính trong sử thi,
trong đó chiến tranh là đề tài nổi bật nhất. Hôn nhân (hành động cầu
hôn, cướp vợ hoặc giành lại vợ) cũng có khi chỉ là cái cớ để các thị tộc
xâm lấn hoặc mở rộng địa bàn sinh sống của các cộng đồng. Sách
giáo khoa chọn phân tích đoạn trích này là cần thiết và hợp lí vì đoạn
trích rất tiêu biểu cho vẻ đẹp nội dung và giá trị thẩm mĩ của sử thi
Tây Nguyên.
Hình tượng Đăm Săn - người anh hùng lí tưởng của cộng đồng
thị tộc Ê-đê trong cuộc giao tranh với tù trưởng Mtao Mxây để giành
48
lạ vợ được tập trung khắc hoạ rõ nét theo bố cục ba phần tương ứng
với ba câu hỏi trong sách giáo khoa:
Cuộc chiến đấu giữa Đăm Săn và Mtao Mxây
Cảnh Đăm Săn cùng nô lệ trở về sau chiến thắng
Cảnh Đăm Săn cùng thị tộc ăn mừng chiến thắng
a) Cuộc giao chiến giữa Đăm Săn và Mtao Mxây được mô tả cặn
kẽ theo tình tự các hiệp đánh. Ưu thế nổi trội của thể loại sử thi so
với một số thể loại VHDG khác là có sự kết hợp hài hoà giữa kể
chuyện và miêu tả. Ngôn ngữ kể chuyện đan xen với ngôn ngữ đối
thoại giữa hai nhân vật càng làm tăng thêm kịch tính ; giúp người
nghe hiểu sâu hơn đặc điểm tính cách nhân vật.
Đăm Săn khiêu khích kẻ thù
Bằng giọng tự tin vào sức mạnh của mình và sự khinh miệt, giễu
cợt kẻ thù, Đăm Săn đã tìm cách khiêu khích và buộc Mtao Mxây
phải giao chiến: “Ơ điêng, Ta thách ngươi đọ dao với ta đấy”,
“Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái sân hiên của nhà ngươi bổ
đôi...“, “Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi nhỉ ? Đến con lợn nái
của nhà ngươi dưới đất ta cũng không thèm đâm nữa là”. Kịch tính
trong đoạn trích tăng lên khi Mtao Mxây cũng trêu tức Đăm Săn :
“Tay ta còn đang bận ôm vợ hai chúng ta” nhưng ngay từ đầu, trong
ngôn từ của Mtao Mxây cũng thể hiện sự nghi ngại, thiếu tự tin của
hắn trước Đăm Săn: “Ta sợ người đâm ta khi ta đang đi lắm”.
- Cuộc giao tranh giữa hai tù trưởng: Để thể hiện cuộc giao chiến
giữa hai tù trưởng, tác giả dân gian đã sử dụng triệt để phương pháp
so sánh tương phản, cấu trúc ngôn ngữ trùng điệp, lối so sánh sinh
động, phép cường điệu, phóng đại nhằm nêu bật sự vượt trội của
Đăm Săn về mọi phương diện. Một biện pháp quen thuộc trong các
sử thi là luôn miêu tả tài năng của đối phương trước khi miêu tả tài
năng người anh hùng. Mtao Mxây múa khiên trước “tiếng khiên của
49
hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô”. Khi Mtao Mxây múa khiên,
Đăm Săn vẫn bình tĩnh, không hề run sợ “Đứng yên không nhúc
nhích”. Khi chưa nhìn thấy Đăm Săn múa khiên, Mtao Mxây con vẫn
huênh hoang “Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi
đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quen đi xéo nát đất đai thiên hạ hay
sao?”. Đối lập với hình ảnh “Tiếng khiên hắn lạch xạch như quả
mướp khô” của Mtao Mxây, tài múa khiên của Đăm Săn đã được
miêu tả cụ thể, sinh động, có sự tăng tiến trong cảm hứng vô cùng
hào hứng say sưa của người kể chuyện. Lần thứ nhất : “Một lần xốc
tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một
đồi lồ ô, chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”.
Lần múa khiên thứ hai : “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng
múa dưới thấp, gió như lốc, cây cối chết rụi. Khi chàng múa dưới
thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng, khi chàng múa trên cao vang lên
tiếng đĩa khiên kênh. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần
rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung”. Còn Mtao Mxây thì thể hiện
sự kém cỏi cả về thể xác lẫn tinh thần “bước cao bước thấp, chạy hết
bãi tây sang bãi đông. Hắn vung dao chém phập một cái nhưng chỉ
vừa trúng một cái cọc trâu”. Qua việc tập trung miêu tả một cách kĩ
lưỡng và sảng khoái tài nghệ múa khiên của Đăm Săn, tác giả đã
khắc hoạ tầm kích vũ trụ, tài năng siêu phàm có thể sánh ngang với
các thần linh của chàng.
Vậy mà sao chàng vẫn phải cầu viện đến thần lịnh thì mới tiêu
diệt được Mtao Mxây? Chi tiết Đăm Săn đớp được và nhai miếng
trầu của Hơ Nhí ném cho làm tăng thêm chất trữ tình của tác phẩm,
còn chi tiết khi thấm mệt, chàng nằm mộng và được ông trời mách
bảo “lấy một cái chày môn ném vào vành tai hắn là được” không hạ
thấp tài năng của chàng mà càng tăng thêm thanh thế, uy danh của
chàng vì chàng là vị tù trưởng được thần linh ủng hộ. Quan hệ giữa
thần linh với Đăm Săn thật gần gũi, thân tình “Ôi chao, chết mất thôi,
ông ơi! cháu đâm mãi mà không trúng hắn”. Điều này thể hiện dấu ấn
50
của tư duy thần thoại còn in đậm trong nghệ thuật sáng tạo sử thi.
Nhưng ông trời cũng chỉ là người “mách nước” còn quyết định vẫn
là hành động trực tiếp của người anh hùng. Chỉ có chàng mới tự tay
hạ gục kẻ thù. Lời cầu xin của Mtao Mxây làm tăng tính kịch, nhưng
Đăm Săn đã không hề khoan nhượng “Chẳng phải vợ ta ngươi đã
cướp, đùi ta ngươi đã đâm rồi sao?”. Chàng hành xử với kẻ thù đúng
như lối hành xử của các thủ lĩnh thời cổ đại “Đăm Săn đâm phập một
cái, cắt đầu Mtao Mxây đem phơi ngoài đường”. Với người anh hùng
sử thi, bị kẻ khác đến cướp vợ tại nhà mình là một hành động xúc
phạm vô cùng lớn đến danh dự, mà danh dự là điều thiêng liêng cao
quý nhất của người anh hùng. Làm sao chàng có thể tha thứ cho
Mtao Mxây được.
b) Cảnh Đăm Săn cùng nô lệ ra về sau chiến thắng
Có thể thấy rõ đặc điểm trong chiến trận của người anh hùng sử
thi : Trong chiến trận, thường chỉ có hai thủ lĩnh giao chiến, tôi tớ, nô
lệ dù “đông đúc như bầy mối bầy kiến” thì cũng chỉ chứng kiến cuộc
chiến chứ không tham dự vì người anh hùng là biểu trưng cao nhất
cho lí tưởng, sức mạnh, tài năng, ý chí cộng đồng. Số phận của cá
nhân anh hùng ảnh hưởng và thống nhất cao độ với số phận cộng
đồng. Đoạn trích không say sưa miêu tả cảnh máu chảy đầu rơi của
các chiến binh, của các tôi tớ nô lệ. Điều này có thể so sánh với truyền
thuyết Thánh Gióng của người Việt, với sử thi I-li-át của Hi Lạp. Thủ
lĩnh chiến thắng, thu nhận tù binh của đối phương, mở rộng địa bàn
lãnh thổ, tôi tớ vui mừng chia quả thực, ăn mừng chiến thắng tưng
bừng. Thủ lĩnh đối phương thua, tôi tớ lại trở thành nô lệ của thủ
lĩnh cộng đồng khác. Qua lời Đăm Săn hỏi ý kiến của nô lệ Mtao
Mxây sau chiến thắng có thể hiểu thêm tinh thần dân chủ công xã thị
tộc thời cổ đại : “Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói, ơ tất cả tôi tớ
bằng này, các người có đi với ta không ?”. Việc miêu tả cuộc đối thoại
giữa Đăm Săn và dân làng Mtao Mxây được lặp lại ba lần và có sự
tăng tiến. Đăm Săn lần thứ nhất gõ vào một nhà, lần thứ hai đập vào
51
phên tất cả các nhà trong làng, lần thứ ba đập vào phên mỗi nhà
trong làng.
Cả ba lần dân làng trả lời cùng một nội dung, chỉ khác nhau chút
ít trong cách nói-(ngôn ngữ sử thi đa dạng, có sự đổi thay một vài từ
ngữ trong khuôn hình chung, không tạo sự nhàm chán cho người
nghe)- Ba lần hỏi, ba lần dân làng Mtao Mxây trả lời.
“Không đi sao được, tù trưởng chúng tôi đã chết, lúa chúng tôi
đã mục, chúng tôi còn ở với ai?”
“Không đi sao được, làng chúng tôi phía bắc đã mọc cỏ gấu, phía
nam đã mọc cỏ hoang, người nhà giàu cầm đầu chúng tôi đã không
còn nữa”.
Thủ pháp lặp lại giữa ba lần hỏi - đáp này thể hiện sự thống nhất
cao độ giữa khát vọng, quyền lợi cá nhân anh hùng với khát vọng,
quyền lợi của cộng đồng, đồng thời thể hiện sự ngưỡng vọng, tôn
vinh tuyệt đối của tập thể nhân dân đối với thủ lĩnh. Con số ba biểu
trưng cho số nhiều vốn rất quen thuộc trong các thể loại VHDG đã
góp phần thể hiện diều đó.
Sau những lần đối thoại là cảnh mọi người đi theo Đăm Săn về
làng đông và vui như đi trảy hội”. “Đoàn người đông như bầy cà
tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối. Bà con xem,
thế là Đăm Săn nay càng thêm giàu có, chiêng lắm la nhiều, Tôi tớ
mang của cải về nhiều như ong đi chuyển nước... “.
Mỗi cuộc chiến tranh thời cổ đại, dẫu là vì nguyên nhân hôn
nhân, trả thù hay chinh phục tự nhiên... thì kết quả cũng là sự mở
rộng địa bàn lãnh thổ, thể hiện quá trình liên minh bộ tộc, khiên cho
bộ tộc nào đã giàu càng giàu thêm, đã mạnh càng mạnh nữa. Đoạn
trích này là một minh chứng sáng rõ, phản ánh lịch sử các bộ tộc trên
con đường hình thành dân tộc thời cổ đại. Những cuộc chiến tranh
quả thực đóng vai trò “Bà đỡ của lịch sử” gửi gắm những khát vọng
lớn lao của cộng đồng.
52
c) Cảnh Đăm Săn cùng buôn làng ăn mừng chiến thắng
Phần kết thúc đoạn trích này không có lời đối thoại ngắn gọn,
đầy kịch tính giữa các nhân vật như hai đoạn trên mà chỉ tập trung
khắc hoạ ngôn ngữ của Đăm Săn chỉ bảo cho mọi người làm lễ mừng
chiến thắng và nổi bật ngôn ngữ của người kể chuyện.
- Lời Đăm Săn kêu gọi ăn mừng chiến thắng thể hiện hai nội
dung chính;
+ Đăm Săn rất coi trọng và đề cao ý nghĩa lớn lao của chiến thắng
vừa giành được.
Bằng việc sử dụng các đại từ xưng hô (hô ngữ) cùng cấc kiểu
câu cảm thán đậm sắc thái biểu cảm rất đặc trưng của thủ lĩnh thời
cổ đại, các hình ảnh so sánh trùng điệp, ngôn ngữ của Đăm Săn thật
sảng khoái, nhiệt thành kêu gọi mọi người tổ chức ăn mừng thật lớn
để tạ ơn thần linh, tổ tiên và cầu mong thần linh ban cho mình và
cộng đồng sức mạnh... Điều này cho thấy niềm tự hào về chiến
công vừa giành được. Trong niềm vui đó có niềm tự hào chính đáng
về tài năng cá nhân anh hùng đồng thời ước vọng cuộc sống tốt đẹp
cho mọi người “Rượu năm ché, trâu một con để ta cúng thần, cáo tổ
tiên, cầu sức khỏe cho ta mới đi đánh kẻ thù, xéo nát đất đai một tù
trưởng nhà giàu về... cầu cho ta được bình yên vô sự, tai qua nạn
khỏi, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không còn ai bì
kịp”.
+ Niềm tự hào về cuộc sống sung túc, thịnh vượng, phát triển
mọi mặt của thị tộc mình “Chúng ta sẽ ăn lợn ăn trâu, đánh lên các
chiêng cái trống to, đánh lên các cồng hlong hoà nhịp cùng chũm
chọe xoa sao cho kêu lên rộn rã, để voi đực voi cái vào sàn hiên
không ngớt... Hãy đánh lên các chiêng có tiếng âm vang, những
chiêng có tiếng đồng tiếng bạc! Từ gùi Quý, hãy lấy ra các vòng
nhạc rung lên”.
53
Lời người kể chuyện
Kết hợp sử dụng ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật và ngôn
ngữ người kể chuyện một cách trực tiếp là một ưu thế nổi trội của sử
thi so với một số thể loại tự sự dân gian khác. Sử dụng ngôn ngữ
người kể chuyện là một thủ pháp nghệ thuật để biểu hiện trực tiếp
thái độ, tình cảm của cộng đồng bộ tộc đối với nhân vật anh hùng sử
thi. Trong lời người kể chuyện, hình tượng Đăm Săn được miêu tả
một cách trực tiếp, toàn diện từ vẻ đẹp thể chất đến tinh thần.
+ Vẻ đẹp thể chất: “Bà con xem, chàng nằm trên võng, tóc thả
trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa”... “Ngực
cuốn chéo một tấm mền chiên, mình khoác một tấm áo chiến... đôi
mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre... Bắp chân chàng to
bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang
sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm như sấm dậy, chàng nằm sấp thì
gãy rầm nhà, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc”.
+ Sự giàu có, hùng mạnh của cộng đồng Đăm Săn sau chiến
thắng: Chàng mở tiệc ăn uống linh đình “thịt lợn thịt trâu ăn không
ngớt, thịt lợn ăn cháy đen đến hết ống lồ ô, máu bò máu trâu đọng
đen khắp sân hiên... Các chàng trai đi lại ngực đụng ngực, các cô gái
đi lại vú đụng vú. Rõ ràng là tù trưởng Đăm Săn đang giàu lên,
chiêng lắm la nhiều...
+ Đăm Săn được sự hưởng ứng và ngưỡng vọng tuyệt đối của tất
thảy mọi người: “Bà con xem, nhà Đăm Săn đông nghịt khách, tôi tớ
chật ních cả nhà. Các khách tù trưởng đều từ phương xa đến... Từ
khắp mọi miền, người ta khiêng rượu khiêng thịt... “
Sau cuộc chiến, người ta không chú ý đến cảnh chết chóc mà chỉ
hướng đến niềm vui chiến thắng, đến khát vọng một cuộc sống thịnh
vượng, buôn làng giàu có, đông vui, hoà bình, phát triển. Ước vọng,
lí tưởng của cá nhân người anh hùng thống nhất cao độ với ước vọng
và lí tưởng của cộng đồng.
54
+ Cùng với những hình ảnh mô tả cụ thể là những lời ngợi ca, sự
tôn vinh tuyệt đối về thủ lĩnh anh hùng. Những lời ngợi ca chàng
vang lên với những điệp khúc hào hùng : “Vì vậy, danh vang đến
thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nghe danh tiếng
Đăm Săn... Chàng Đăm Săn hiện ra là một tù trưởng đang tràn đầy
sức trai, tiếng tăm lừng lẫy... Đăm Săn vốn đã ngang tàng từ trong
bụng mẹ”.
Đặt đoạn trích trong hệ thống tác phẩm để thấy được tính thống
nhất của hành động và lí tưởng người anh hùng. Nhân vật sử thi tiếp
nối nhân vật thần thoại nhưng đã được nâng lên một bước cơ bản.
Nếu nhân vật chính trong thần thoại là thần thì nhân vật chính trong
sử thi là Con Người. Người anh hùng thể hiện tập trung nhất lí
tưởng, sức mạnh, ý chí, tài năng của cộng đồng trong thời kì liên
minh bộ tộc, bước đầu hình thành dân tộc. Đối với nhân vật sử thi,
điều quan trọng cần khai thác không phải chỉ là bản thân hành động
mà quan trọng hơn là mục đích và ý nghĩa của hành động. Con người
lần đầu tiên nhận thức được sức mạnh của mình trên chặng đường
chuyển giao lịch sử vĩ đại nhất thời cổ đại. Vì thế các nhân vật trung
tâm trong sử thi luôn là người anh hùng lí tưởng, được miêu tả với
niềm ngưỡng vọng vô cùng lớn lao của cộng đồng, được nhân dân tô
điểm bằng vô vàn ánh hào quang kì diệu bởi những chiến công, tài
năng và sức mạnh. Lần đầu tiên con người đã tự “nâng mình lên
ngang hàng thần thánh”(Ăngghen).
- Đoạn trích cho ta hiểu thêm về một số sinh hoạt và phong tục
các dân tộc Ê-đê xưa như cách bài trí nhà Mtao Mxây : “Đầu sàn hiên
đẽo hình mặt trăng, đầu cầu thang đẽo hình chim ngói”, cách trang
phục của tù trưởng Đăm Săn : “Ngực quấn chéo một tấm mền chiên,
mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ..., tập quán trong giao tiếp,
nói năng, đặc biệt là cách nghĩ, cách cảm của họ. Hiện nay, sử thi
Đăm Săn nói riêng, sử thi các dân tộc Tây Nguyên nói chung vẫn tồn
tại sâu đậm trong đời sống tinh thần của nhân dân Ê-đê và nhân dân
55
các dân tộc. Các thầy cô nói về diễn xướng khan Đăm Săn như đã
giới thiệu ở phần bổ sung kiến thức thể loại, có thể cho học sinh xem
băng hình về sinh hoạt sử thi Tây Nguyên nếu có điều kiện. Luyện
cho học sinh cách đọc diễn cảm sử thi ít nhiều phù hợp với lời kể của
nghệ nhân.
2. Đặc điểm nghệ thuật
Như đã nêu ở phần giới thuyết, sử thi Tây Nguyên thuộc thể loại
tự sự dân gian mang tính nguyên hợp, trong đó tích hợp các yếu tố
nghệ thuật như ngôn ngữ (văn xuôi và văn vần), âm nhạc, yếu tố
trình diễn. Các yếu tố này gắn bó rất hài hoà tạo nên vẻ đẹp độc đáo
của các tác phẩm sử thi.
Biện pháp khoa trương, ngoa dụ không thể thiếu trong việc miêu
tả người anh hùng lí tưởng của bộ tộc được sử dụng triệt để. Người
anh hùng đẹp toàn diện, tuyệt đối từ lí tưởng, hình thể và hành
động. Hệ thống các biện pháp nghệ thuật được cấu tạo gắn bó hữu
cơ với nhau, tạo nên một vẻ đẹp riêng của sử thi, đó là phong cách
lãng mạn hào hùng đầy sức hấp dẫn của sử thi Tây Nguyên.
Vẻ đẹp của ngôn ngữ trong đoạn trích là kết quả của việc sử
dụng hàng loạt các công thức truyền thống trong tả cảnh, tả người,
các biện pháp nghệ thuật so sánh, ví von, ngôn ngữ giàu hình ảnh,
giàu nhạc điệu rất gần với lời ăn tiếng nói của đồng bào các dân tộc ít
người tạo nên sự đối xứng hài hoà rất thú vị trong câu văn, trong
đoạn văn và trong cả tác phẩm có sự liên kết chặt chẽ với nhau, giữa
các vế trong một câu : “Tôi tớ mang của cải về nhiều như ong đi
chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng
cõng nước”.
Một trong những yếu tố tạo nên sự hài hoà, nhịp nhàng trong
hình tượng nghệ thuật là kết cấu đối xứng được sử dụng rất phổ biến
trong sử thi Tây Nguyên”. Bất cứ chỗ nào chúng ta cũng có thể gặp
được sự đối xứng ấy, đối xứng về số lượng, đối xứng về hành động,
56
đối xứng về cảnh vật: Chàng múa trên cao, gió như bão, chàng múa
dưới thấp, gió như lốc... Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba
lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ”. Lời dân làng: “Làng chúng tôi, phía
bắc đã mọc cỏ gấu, phía nam đã mọc cỏ hoang. Sự hài hoà và nhịp
nhàng ở những vế, những câu, những hình tượng như vậy được phát
triển thành những điệp khúc mà ta thường gặp trong tác phẩm.
Những điệp khúc đó được gọi là “tính trì hoãn sử thi” tạo nên những
khuôn mẫu bền vững, chúng gây nên ảnh hưởng ít nhiều đến sự linh
hoạt của tác phẩm, nhưng lại thuận lợi cho việc diễn xướng và dễ tạo
nên một khung cảnh bề bộn, trùng điệp, hoành tráng vừa theo sát
thời gian lịch sử trước sau vừa bao quát được các sự kiện theo sự dãn
nở không gian trong các sử thi anh hùng.
TƯ LIU THAM KH"O V SA THI
Sử thi là nơi chứa đựng nhiều mật tri thức của các dân tộc. Người
ta mệnh danh “Sử thi là bộ bách khoa thư đầy đủ nhất của các dân
tộc thời cổ”. Ở đây có tài liệu sử học, dân tộc học, văn hoá, địa lí
phong tục… Người Ấn Độ nói rằng: “Cái gì không có trong hai bộ sử
thi Mahabharata và Ramayana thì không thể tìm thấy bất kì ở đâu
trên đất Ấn Độ”.
“Sử thi còn gọi là anh hùng ca.
Thể loại tác phẩm tự sự dài thường là thơ xuất hiện rất sớm trong
lịch sử văn học của các dân tộc nhằm ngợi ca những sự nghiệp anh
hùng có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc trong
buổi bình minh của lịch sử. Về kết cấu, sử thi là một câu chuyện được
kể lại có đầu có đuôi với quy mô lớn vì theo Hêghen, “nội dung và
hình thức của nó thực sự là toàn bộ các quan niệm, toàn bộ thế giới
và cuộc sống của một dân tộc được trình bày dưới hình thức khách
quan của một biến cố thực tại”. Các nhân vật chính của sử thi là
những anh hùng - tráng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh
thần, cho ý chí và trí thông minh, lòng dũng cảm của cộng đồng
57
được miêu tả khá tỉ mỉ, đầy đủ từ cách ăn mặc, trang bị, đi đứng đến
những trận giao chiến với kẻ thù, những chiến công lẫy lừng và đôi
khi cả những nét sinh hoạt đời thường của họ nữa. Sở dĩ như vậy là
vì sử thi ra đời vào thời điểm nối tiếp của thần thoại, tức là thế giới
của các vị thần bắt đầu chuyển sang thế giới của con người, do đó cái
nhìn đậm màu sắc thần kì là không tránh khỏi”.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992, tr 192,193)
…
Sử thi anh hùng Tây Nguyên là một loại hình thuộc thể loại tự sự
dân gian, có tính chất nguyên hợp, trong đó bao gồm cả các yếu tố
nghệ thuật của ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ ca, âm nhạc và cả
ngôn ngữ sân khấu nữa.
…Một trong những yếu tố góp phần tạo nên giá trị độc đáo và
trường cửu của các bản sử thi là yếu tố ngôn ngữ.
Có thể nói rằng có một nét nổi bật gây ấn tượng sâu sắc, đặc biệt
kì thú đối với độc giả được tiếp xúc với sử thi anh hùng Tây Nguyên.
Đó là cách nói ví von, rất giàu hình ảnh, tràn ngập trong khắp tác
phẩm… Cũng là nói về vẻ đẹp của con người, nhưng khi mô tả chàng
trai thì người nghệ nhân kể khan nói như sau: Anh đi trên đường cái
thoăn thoắt như con rắn prao huê. Anh đi trên đám cỏ tranh nhanh
như rắn prao hơmat…Mỗi khi anh dẫm mạnh vào ngạch cửa làm nhà
sàn rung rinh bẩy lần… Đó là vẻ đẹp vừa nhanh nhẹn, mềm mại, vừa
khoẻ khoắn của chàng trai. Còn khi mô tả vẻ đẹp người con gái thì sử
thi miêu tả như sau. Nàng đi đủng đỉnh, thân mình uyển chuyển như
cành cây blô sai quả, mềm dẻo như những cành trên ngọn cây, gió
đưa đi đưa lại… Nàng đi như chim phụng bay, như chim diều lượn
trên không, như nước chảy dưới suối…
Ở đây ngôn ngữ hình ảnh được sử dụng đắc địa, dường như tạo
nên một thứ ma thuật nào đó, khiến cho các cảm quan trong con
58
người (thị giác và thính giác) có một sự giao lưu hài hoà, nhạy bén lạ
thường. Trong sử thi, ngôn ngữ hình ảnh không chỉ được sử dụng để
khắc hoạ các nhân vật, hoặc để mô tả những cảnh lớn như cảnh sinh
hoạt rộn rịp của buôn làng, cảnh hội hè đông vui với tiếng chiêng
ngân không ngớt…, mà ngay những lời giao tiếp hàng ngày cũng
được diễn đạt bằng lối nói hình ảnh sống động.
Nhìn chung lại, các biện pháp (phóng đại, ngoa dụ) …trong
ngôn ngữ hình tượng của sử thi đã được các nghệ nhân dân gian sử
dụng rất đắt. Hệ thống các biện pháp được cấu tạo gắn bó hữu cơ
với nhau, tạo nên một vẻ đẹp riêng, một phong cách riêng của sử
thi, đó là phong cách lãng mạn hào hùng dày sức hấp dẫn của sử thi
Tây Nguyên.
Một đặc điểm khá quan trọng nữa cũng góp phần tạo nên giá trị
nghệ thuật của sử thi, đó là ngôn ngữ giàu nhạc điệu. Xét về mặt ngữ
âm, các tiếng Ê-đê, Giarai… không phải là loại ngôn ngữ có nhiều
thanh điệu , khi nói dễ tạo nên âm hưởng lên bổng xuống trầm, giàu
nhạc điệu như tiếng Việt; nhưng trong cách diễn đạt của sử thi, ngôn
ngữ các dân tộc Tây Nguyên lại thể hiện một ưu thế khác, đó là cách
nói có vần điệu, tạo nên âm hưởng hài hoà và có sự liên kết chặt chẽ
với nhau giữa các vế trong một câu.
… Sự hài hoà trong ngôn ngữ sử thi không chỉ được thể hiện ở
những vần điệu tương đối chặt chẽ, mà còn thể hiện ở kết cấu đối
xứng, tạo nên sự hài hoà, nhịp nhàng trong hình tượng nữa. Nhảy
một bước, vượt qua một đồi tranh, hoặc “Một trăm người vạch lỗ”
đối xứng nhịp nhàng với “hai trăm người moi lỗ”. Sự hài hoà và nhịp
nhàng ở những vế, những câu, những hình tượng như vậy được phát
triển thành những điệp khúc mà ta thường gặp trong tác phẩm…
Những điệp khúc đó tạo nên những khuôn mẫu tương đối bền vững,
chúng gây ảnh hưởng ít nhiều đến tính linh hoạt của tác phẩm,
nhưng chúng lại thuận lợi cho việc diễn xướng và dễ tạo nên một
khung cảnh bề bộn, trùng điệp trong các sử thi anh hùng”.
59
“Các yếu tố kể, hát và điệu bộ diễn cảm trong ngôn ngữ diễn kể
của người nghệ sĩ kể khan tạo nên một hình thức ngôn ngữ sân khấu
tuy còn hồn nhiên, giản dị nhưng cũng đã khá phong phú trong vẻ
nguyên hợp hài hoà của nó”.
(Võ Quang Nhơn, Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, HN, 1997)
Đề tài sử thi được biểu hiện tập trung vào nhiệm vụ của các nhân
vật anh hùng. Quy lại họ có ba nhiệm vụ chính: lấy vợ, làm lụng và
đánh giặc. Trong ba nhiệm vụ đó, trung tâm và chủ đạo là đánh giặc,
chiến tranh… Có thể nói về cơ bản đề tài của sử thi Ê-đê là đề tài chiến
tranh, nhân vật anh hùng là người chiến đấu vì sự giàu có mạnh mẽ và
yên vui của làng buôn, ngoài ra còn có đề tài lấy vợ và làm lụng.
… Chiến tranh đã làm nhiệm vụ “bà đỡ của lịch sử” (Engels), cứu
vãn tình thế, thống nhất lực lượng, đưa cộng đồng từ bộ lạc đến bộ
tộc, dần dần đến dân tộc.
… Sự hình thành nhà nước là một mốc lịch sử tạo nên những đặc
điểm cơ bản của sử thi. Do đó người ta phân biệt hai loại sử thi; sử
thi cổ sơ; là sử thi ra đời trước khi hình thành nhà nước, giai đoạn
tiền quốc gia và sử thi cổ đại, cũng còn gọi là sử thi cổ điển ra đời sau
khi hình thành nhà nước… Như vậy, nếu sử thi Ấn Độ là sử thi cổ
đại thì sử thi Êđê là sử thi cổ sơ.
Nhiệm vụ của anh hùng sử thi Ê-đê có hai lớp: lớp trực tiếp trước
mắt là chiến đấu để giành lại vợ, đòi nợ và trả thù nhưng đằng sau
đó còn có nhiệm vụ mang tính chiến lược và phổ biến (mặc dầu
không được công bố) là thu phục tôi tớ và dân làng, mở rộng đất đai,
đem lại sự giàu mạnh cho buôn làng, khiến cho uy tín của anh hùng
vang dội và do đó không còn “thù đông giặc tây” nữa .
(Phan Đăng Nhật, Sử thi Tây Nguyên, NXB Khoa học Xã hội,
HN, 1998, trang 160-168)
Tất cả mọi lời nói, việc làm của Đăm Săn từ đầu cho đến khi
chết đều nhằm khẳng định ý chí, sự nghiệp và tính cách anh hùng
60
của mình. Tác giả khẳng định: “Đăm Săn hùng cường từ trong bụng
mẹ”. Mơ ước trở thành một tù trưởng giàu mạnh, có nhiều chiêng
núm chiêng bằng, có nhiều voi và tôi tớ, là lẽ sống cao nhất của
chàng, đã thôi thúc chàng vươn lên, chấp nhận mọi thử thách lớn
nhỏ, kể cả cái chết.
….
Việc đi bắt nữ thần mặt trời tuy không thực hiện được và chàng
phải chết, nhưng đó là cái chết bi tráng của người anh hùng bất
khuất và bất tử. Đăm Săn chết nhưng ý chí và khát vọng chinh phục
thiên nhiên của chàng cũng như của nhân dân Ê-đê sống mãi. Sự tái
sinh của Đăm Săn cháu cũng được quan niệm và thể hiện theo tinh
thần ấy.
(Hoàng Tiến Tựu – Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999)
Trích đoạn “Bắt nữ thần mặt trời” diễn tả trọn vẹn quá trình một
hành động anh hùng của Đăm Săn. Đây là hành động có giá trị biểu
hiện hài hoà cả hai phẩm chất “anh hùng trận mạc” và “anh hùng
văn hoá” của con người khổng lồ về ý chí đến mức kì lạ này. Và đó là
hành động đã đạt tới đỉnh cao nhất, tới giới hạn tột cùng, tượng
trưng cho ý muốn vô biên của khát vọng anh hùng thời đại Đăm Săn.
Đây cũng là khúc ca đẹp nhất, kì vĩ nhất, tráng lệ nhất và cũng bi
tráng nhất, hào hùng nhất.
(Vũ Anh Tuấn, Giảng văn văn học dân gian, NXB Giáo dục, HN, 1995)
- Xem thêm -