Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Phân tích hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần sách và thiết bị bình định...

Tài liệu Phân tích hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần sách và thiết bị bình định

.DOCX
95
1
122

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế đất nước trong những năm qua liên tục chịu nhiều sự ảnh hưởng từ tình trạng kinh tế suy thoái chung của thế giới, giá cả các mặt hàng tăng mạnh, thu nhập người dân eo hẹp, thị phần các ngành nghề bị chia nhỏ, lãi suất ngân hàng tăng nhanh v.v... Mặt khác, trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường thì môi trường kinh doanh ngày càng trở nên sôi động và cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh là một xu thế tất yếu, cũng là một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất vươn lên tự khẳng định mình, không ngừng hoàn thiện để tồn tại và phát triển, nhất là khi nước ta trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Do đó, các doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện mình bằng nhiều cách, nhiều công cụ khác nhau. Trong đó, việc phân tích hiệu quả kinh doanh là điều không thể thiếu. Một doanh nghiệp muốn thành công thì phải thường xuyên theo dõi về tình hình hoạt động, diễn biến sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh mà doanh nghiệp đạt được. Việc phân tích hiệu quả kinh doanh thường xuyên sẽ giúp đánh giá chính xác và toàn diện tình hình thực hiện các kế hoạch về vật tư, lao động, tiền vốn, tình hình chấp hành các thể lệ và chế độ quản lý kinh tế của Nhà Nước. Bên cạnh đó, ta còn có thể xác định được các nguyên nhân, các nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có các biện pháp kịp thời nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngoài ra, phân tích hiệu quả kinh doanh tại công ty giúp chúng ta đánh giá đầy đủ hơn hiệu quả kinh doanh của công ty trong từng thời kì. Qua đó đề ra các biện pháp thích hợp nhằm khắc phục những điểm yếu kém, phát huy mặt mạnh và huy động tối đa nguồn lực, nhân lực với mục đích làm tăng 2 doanh thu, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của công ty. Vì nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề nên tôi chọn đề tài: “Phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị Bình Định” để làm đề tài nghiên cứu Thạc sĩ. 2 . Tổng quan về các đề tài đã nghiên cứu có liên quan Phân tích hiệu quả kinh doanh là một vấn đề hết sức cần thiết trong mỗi doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể hoạt động một cách hiệu quả, từ đó làm cho nền kinh tế thị trường ổn định và phát triển hơn. Vì vậy, vấn đề này đã được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu từ lâu trong nhiều cấp bậc khác nhau và có những giá trị nghiên cứu nhất định. Tác giả cũng đã tìm hiểu một số tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu về phân tích hiệu quả kinh doanh. Cụ thể là: - Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu khu vực Nam Trung Bộ” của tác giả Đỗ Huyền Trang (2013). Luận án đã nghiên cứu nhằm thiết kế quy trình phân tích, phương pháp phân tích và một hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ xuất khẩu khu vực Nam Trung Bộ. Tác giả đã hệ thống hóa các lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp sản xuất, khái quát thực trạng phân tích hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu khu vực Nam Trung Bộ. Từ thực tiễn đó, luận án kết quả hóa những điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động phân tích hiệu quả kinh doanh của ngành chế biến xuất khẩu khu vực Nam Trung Bộ và đề xuất quy trình phân tích, phương pháp phân tích và hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh phù hợp với các doanh nghiệp trong ngành. - Luận án tiến sĩ “Phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Mai Hương (2008). 3 Luận án đã đi vào nghiên cứu toàn diện những đặc điểm thực tế về tình hình phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam. Tác giả đã hệ thống hóa các lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh và phân tích hiệu quả kinh doanh của nền sản xuất xã hội cũng như trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản của Việt Nam, đánh giá tình hình và xây dựng các chỉ tiêu để phân tích, so sánh và đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này, từ đó nói rõ quan điểm hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam. - Luận văn thạc sỹ “Phân tích hiệu quả hoạt động tại Công ty Cổ phần khoáng sản Bình Định” của tác giả Đỗ Nguyễn Hoàng Duyên (2013). Đề tài đã đi sâu nghiên cứu vấn đề lý luận về phân tích cả về hiệu quả kinh doanh và hiệu quả tài chính tại Công ty Cổ phần khoáng sản Bình Định từ năm 2007 2011. Luận văn đã trình bày cơ sở lý luận về khái niệm, phân loại và phương pháp phân tích hiệu quả hoạt động tại Công ty, phân tích hiệu quả kinh doanh và hiệu quả tài chính tại Công ty qua các tỷ số tài sản, doanh thu, vốn góp cổ đông, các tỷ suất sinh lời. Qua nghiên cứu thực tế tại Công ty Cổ phần khoáng sản Bình Định, tác giả đã phân tích thực trạng hoạt động và hiệu quả hoạt động của Công ty từ các số liệu thu thập được, từ đó đưa ra các đánh giá, đề xuất để hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích hiệu quả hoạt động tại Công ty Cổ phần khoáng sản Bình Định. - Luận văn thạc sỹ “Phân tích hiệu quả hoạt động của Công ty Cổ phần Du Lịch Hoàng Anh Đất Xanh Quy Nhơn” của tác giả Nguyễn Thọ Quang (2015). Trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả kinh doanh của công ty, tác giả đã thu thập số liệu của Công ty Cổ phần Du Lịch Hoàng Anh Đất Xanh 4 Quy Nhơn từ năm 2011 - 2013 để phân tích các yếu tố phản ánh hiệu quả kinh doanh như doanh thu, chi phí, lợi nhuận và các chỉ số tài chính của Công ty. Từ đó đề ra các giải pháp giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty trong những năm tiếp theo. - Luận văn thạc sỹ “Phân tích hiệu quả hoạt động tại Công ty Cổ phần nhựa Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Huyền (2011), thông qua phân tích hiệu quả kinh doanh bằng các chỉ tiêu hiệu quả cá biệt và tổng hợp, phân tích hiệu quả tài chính, phân tích chỉ tiêu chứng khoán tác giả kết luận hiệu quả hoạt động của Công ty chưa cao do các yếu tố tài sản cố định, vốn lưu động và cơ cấu vốn. Từ đó tác giả đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng vốn, xây dựng cơ cấu vốn hợp lý và hoàn thiện hệ thống thu thập, xử lý, trao đổi thông tin. Các công trình nghiên cứu trên đã giúp cho người đọc có cái nhìn tổng quan về đối tượng tác giả nghiên cứu. Điểm tương đồng của các tác giả là đều xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả chung cho các doanh nghiệp, từ cơ sở đó đi sâu vào phân tích chi tiết thực trạng đối tượng nghiên cứu và đưa ra các giải pháp phù hợp. Các công trình trên đã phần nào giúp tôi có cái nhìn tổng quan hơn và góp phần định hướng cho luận văn của mình. 3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài > Mục tiêu chung: Mục tiêu chung của đề tài này là phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần (CTCP) Sách và thiết bị Bình Định, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quảkinh doanh của Công ty. > Mục tiêu cụ thể: - Trình bày cơ sở lý luận về hiệu quả kinh doanh, các yếu tố ảnh hưởng và phân tích hiệu quả kinh doanh tại các doanh nghiệp. - Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Sách Và Thiết Bị Bình Định. 5 - Đưa ra đánh giá, chỉ rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và đóng góp ý kiến, đề xuất giải pháp khắc phục cho Công ty. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu > Về nội dung: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phân tích hiệu quả kinh doanh, thực trạng hiệu quả kinh doanh và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Sách Và Thiết Bị Bình Định. > Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả kinh doanh của Công Ty Cổ Phần Sách và thiết bị Bình Định > Phạm vi nghiên cứu: - Không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại CTCP Sách và thiết bị Bình Định. - Thời gian: Giai đoạn nghiên cứu của đề tài này là từ năm 2014đến năm 2016. 5. Phương pháp nghiên cứu Trên nền tảng cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, luận văn tiến hành đối chiếu giữa thực tiễn phân tích với cơ sở lí thuyết để tìm ra những nguyên nhân tác động đến hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Sách Và Thiết Bị Bình Định, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, tác giả đã sử dụng kết hợp các phương pháp kỹ thuật - nghiệp vụ khoa học như thống kê, tổng hợp, so sánh, phương pháp điều tra thực tế, kết hợp tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan. Để tiến hành phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Sách Và Thiết Bị Bình Định. Đồng thời tạo căn cứ tin cậy cho việc thực hiện đề tài, luận văn đã tiến hành thu thập thông tin từ nguồn dữ liệu chủ yếu từ Công ty. Những dữ liệu này được thu thập trực tiếp trên báo cáo thường niên, bảng cáo bạch, các báo cáo tài chính đã được kiểm toán, báo cáo của hội đồng quản trị, báo cáo của ban giám đốc. ... 6 6. Ý Nghĩa của đề tài - Về mặt lý luận: Luận văn “Phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Sách Và Thiết Bị Bình Định” đã hệ thống hóa cơ sở lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh và phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp. - Về mặt thực tiễn: Phân tích hiệu quảkinh doanh của công ty sẽ giúp công ty kiểm tra đánh giá kết quả kinh doanh, phát hiện những khả năng tiềm tàng cũng như nhìn nhận đúng sức mạnh, hạn chế của công ty. Đó là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp ra các quyết định kinh doanh và phòng ngừa rủi ro. 7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung luận văn gồm có 03 chương cụ thể như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích hiệu quả kinh doanh Chương 2: Thực trạng phân tích hiệu quả kinh doanh của Công Ty Cổ Phần Sách Và Thiết Bị Bình Định Chương 3: Giải pháp hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh của Công Ty Cổ Phần Sách Và Thiết Bị Bình Định CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢKINH DOANH 1.1.1. Phân tích hiệu quả kinh doanh Hoạt động của tất cả các loại hình doanh nghiệp đều được phân thành ba loại: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. • Hoạt động kinh doanh (Operating activities): là hoạt động chính, thường xuyên của doanh nghiệp (có thể là hoạt động sản xuất, thương mại hoặc dịch vụ). • Hoạt động đầu tư (Investing activities): các hoạt động đầu tư mua sắm tài sản, thiết bị và đầu tư tài sản tài chính. • Hoạt động tài chính (Financing activities): liên quan trực tiếp đến việc tài trợ của doanh nghiệp, đến việc thu tiền hay trả nợ của các nhà đầu tư và các chủ nợ. Ba hoạt động trên đều hướng tới một mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp chính là đạt được lợi nhuận mong muốn. Do đó, tất cả các đối tượng khi muốn tìm hiểu về một doanh nghiệp hoạt động như thế nào, nghĩa là người ta mong muốn được trả lời các câu hỏi như: Doanh nghiệp đang làm ăn như thế nào? Tình hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp ra sao? Để trả lời được các câu hỏi trên, công việc thực hiện chính là tiến hành phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, phân tích hiệu quả kinh doanh là gì? Vấn đề hiệu quả kinh doanh từ lâu đã được các nhà kinh tế học trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Điển hình như nhà kinh tế học Adam Smith cho rằng hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá [5]. Như vậy, hiệu quả được đồng nghĩa với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh, có thể do tăng chi phí mở rộng sử dụng nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này doanh nghiệp cũng đạt hiệu quả. Còn theo nhà kinh tế học P.Samuellson và W.Nordhaus hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một cách hàng loạt hàng hóa mà không cắt giảm một loạt hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó [22]. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các nguồn vật lực, tài chính của doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất [11]. Các nhà kinh tế học hiện đại thì cho rằng hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phản ánh trình độ và chất lượng sản xuất kinh doanh được xác định bằng tổng quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh doanh là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh. Khi tiến hành bất kì một hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì các doanh nghiệp đều phải huy động và sử dụng các nguồn lực mà doanh nghiệp có khả năng để có thể tạo ra kết quả nhất định mà doanh nghiệp đã đề ra. Thông qua việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu của hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp có thể đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình, dựa vào đó các nhà quản trị có thể ra quyết định về tài chính, đầu tư và kinh doanh; xây dựng và thực hiện các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thành công hay thất bại trong việc điều hành hoạt động doanh nghiệp được thể hiện trực tiếp qua việc phân tích hiệu quả kinh doanh. Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế được đo lường bằng các chỉ tiêu tài chính nhằm phản ánh trình độ quản lý và năng lực kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đảm bảo thu được kết quả cao nhất theo những mục tiêu đã đặt ra với chi phí thấp nhất. Để thu được hiệu quả kinh doanh cao, doanh nghiệp phải thông qua việc phân tích tình hình sử dụng vốn, tình hình sử dụng tài sản và phân tích khả năng sinh lợi của doanh thu để có thể đánh giá được thực trạng hiệu quả kinh doanh của mình; từ đó xây dựng các chiến lược, giải pháp khắc phục và phát triển cho doanh nghiệp mình. 1.1.2. Tầm quan trọng của việc phân tích hiệu quảkinh doanh Khi sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu thông tin của các nhà quản trị càng nhiều, đa dạng và phức tạp. Phân tích hiệu quả kinh doanh phát triển như một môn khoa học độc lập để đáp ứng nhu cầu thông tin cho các nhà quản trị. Phân tích hiệu quả kinh doanh giúp nhà lãnh đạo có được các thông tin cần thiết để nhìn nhận đúng đắn về khả năng, sức mạnh cũng như những hạn chế của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra quyết định kinh doanh có hiệu quả. Phân tích hiệu quả kinh doanh là quá trình nghiên cứu để đánh giá kết quả kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm làm rõ hiệu quả kinh doanh và các tiềm năng cần được khai thác để đề ra phương án và giải pháp nâng cao hiệu quảkinh doanh. 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh 1.1.3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp - Trình độ quản lý: Trong môi trường kinh doanh ngày càng biến động không ngừng, việc xác định mục tiêu dài hạn và ngắn hạn, xây dựng chiến lược trong từng thời kỳ một cách đúng đắn là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của nhà quản lý doanh nghiệp. Nhiệm vụ đó bao gồm việc xây dựng cho doanh nghiệp một chiến lược kinh doanh và phát triển hợp lý - đó là nhân tố đầu tiên và quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp, thiết lập một quy trình bao gồm các bước để thực hiện chiến lược kinh doanh đã xây dựng một cách hiệu quả nhất. Xây dựng các kế hoạch kinh doanh, các phương án kinh doanh dựa trên chiến lược đã đề ra; tổ chức thực hiện các kế hoạch; tổ chức kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh các quy trình trên. Yêu cầu này đòi hỏi nhà quản lý không phải chỉ có trình độ chuyên môn, có khả năng quản trị doanh nghiệp tốt, mà còn đòi hỏi họ phải có khả năng nhanh nhạy, nắm bắt kịp thời sự thay đổi liên tục của thị trường. Một nhà quản lý có năng lực, tinh thần trách nhiệm cao sẽ đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả và ngược lại. - Lực lượng lao động: Quá trình sản xuất muốn hoạt động được cần phải có ba yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất và là yếu tố quan trọng nhất, vì không có yếu tố lao động của con người thì tư liệu lao động và đối tượng lao động là những vật vô dụng, vì con người là chủ thể của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp, việc phối hợp hoạt động giữa con người với nhau tạo nên một quy trình làm việc mà kết quả chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đem lại lợi ích cho tất cả mọi người. Nhà quản lý vạch ra chiến lược hoạt động, nhà phát minh tìm tòi phát minh ra những sản phẩm mới và người công nhân lao động có ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả tạo ra sản phẩm đó. Lao động có tay nghề cao, có tinh thần trách nhiệm sẽ làm ra những sản phẩm đạt chất lượng cao, tiết kiệm thời gian và nguyên vật liệu, làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, nhân tố con người với trình độ chuyên môn có ý nghĩa quyết định tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có kế hoạch tỉ mỉ từ khâu tuyển dụng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động lẫn cán bộ quản lý của doanh nghiệp mình và quan trọng là xây dựng một chính sách ưu đãi để thu hút nhân tài về cho doanh nghiệp của mình. - Chính sách bán hàng: Để tăng doanh thu bán hàng thì mỗi doanh nghiệp phải quan tâm đến các chính sách như: chính sách tiêu thụ, chính sách sản xuất ,chính sách tài chính. Tuy nhiên, mỗi chính sách đều cần phải có một khoản chi phí nhất định. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải cân nhắc giữa chi phí bỏ ra và lợi ích đạt được từ đó tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhất nhằm làm giảm chi phí đến mức có thể mà vẫn tăng lượng hàng tiêu thụ, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Tình hình tài chính: Trong môi trường cạnh tranh gay gắt trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển được thì phải đảm bảo một tình hình tài chính vững chắc và ổn định. Doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh sẽ đảm bảo cho những hoạt động sản xuất kinh doanh của mình diễn ra liên tục, là chất keo để chắp nối, kết dính các quá trình và quan hệ kinh tế, là chất bôi trơn cho doanh nghiệp vận động một cách hiệu quả. - Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất: Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất trong doanh nghiệp là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Trình độ kỹ thuật và công nghệ ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới mức độ tiết kiệm hay lãng phí nguyên vật liệu do đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật cao, cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, công nghệ sản xuất tiên tiến và hiện đại sẽ giúp cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, công nghệ sản xuất là luôn thay đổi từng ngày. Do đó, doanh nghiệp phải luôn tự làm mới mình bằng cách tự vận động và đổi mới, cập nhật những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới liên quan đến lĩnh vực sản xuất kinh doanh của mình để áp dụng vào doanh nghiệp, đem lại hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. - Tổ chức cung ứng đầu vào: Ngành sản xuất kinh doanh đòi hỏi phải có nguyên nhiên vật liệu, lao động và các yếu tố đầu vào khác. Các nguồn lực đầu vào này có thể được cung cấp bởi cá nhân, tổ chức hoặc doanh nghiệp khác. Việc đảm bảo chất lượng cũng như giá cả các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp phụ thuộc vào hành vi của nhà cung cấp. Nếu nhà cung cấp có lợi thế và quyền lực trên thị trường thì sẽ có thể có những tác động quan trọng vào việc ra quyết định cung ứng. Điều này khiến cho việc đảm bảo yếu tố đầu vào của doanh doanh phụ thuộc vào nhà cung cấp là rất lớn, có thể ảnh hưởng đến quy mô và giá thành của yếu tố đầu vào; từ đó làm tăng chi phí, tăng giá thành sản phẩm, giảm lợi nhuận từ đó giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại. - Nguồn tài chính: Đây là nhân tố gắn liền với việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại hay phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì điều kiện tiền đề để doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh là phải cần có một số vốn nhất định;ví dụ như nếu doanh nghiệp quyết định đưa một sản phẩm mới, tiến hành đầu tư mới tài sản cố định (TSCĐ), thuê mướn thêm lao động, thanh toán các khoản chi tiêu khác phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh.Tất cả các vấn đề này đều gián tiếp hay trực tiếp liên quan đến hoạt động tài chính. - Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm: Đối với doanh nghiệp, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu. Mà lợi nhuận chỉ có được sau khi tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng tạo ra lợi nhuận đồng thời cũng là bước đệm xoay vòng trong chu trình kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có phương hướng sản xuất kinh doanh cho kì sau, quyết định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định khả năng tài chính, nhịp độ cung ứng nguyên vật liệu, tốc độ sản xuất... và cũng nhằm mục đích thúc đẩy mạnh hoạt động bán sản phẩm và thu lợi nhuận. Chính vì vậy, tiêu thụ sản phẩm là mục tiêu trước mắt và là phương tiện để đạt được mục đích của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp cần phải tổ chức được mạng lưới tiêu thụ hợp lý, đáp ứng đúng nhu cầu khách hàng sẽ có tác dụng to lớn trong việc đẩy mạnh hoạt động của doanh nghiệp; bên cạnh đó việc chú trọng đến cách thức quảng bá, giới thiệu sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp nhanh chóng mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tăng doanh thu quay vòng vốn nhanh... góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1.3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp - Khách hàng và nhu cầu của khách hàng: Nhân tố khách hàng và nhu cầu của khách hàng quyết định qui mô cũng như cơ cấu nhu cầu trên thị trường của doanh nghiệp và là yếu tố quan trọng hàng đầu khi xác định chiến lược kinh doanh. Do đó doanh nghiệp phải tập trung tất cả vào khách hàng, phục vụ khách hàng với mục tiêu cung cấp cho họ những dịch vụ hàng đầu như: gía cả phải chăng, lựa chọn hàng hóa tùy muốn, thuận tiện, phục vụ tận tình.. .Đây là nhân tố quan trọng cũng như áp lực đối với doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động - Môi trường quốc tế và khu vực: Các xu hướng chính trị trên thế giới và khu vực, các chính sách bảo hộ và mở cửa, hợp tác kinh tế, khối đoàn kết kinh tế - chính trị, tình hình chiến tranh, sự mất ổn định chính trị, tình hình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới và trong khu vực... có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như việc lựa chọn và sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Do vậy mà tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế, chính trị trên thế giới và trong khu vực ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, góp phần giúp cho hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. - Môi trường nền kinh tế quốc dân: + Môi trường chính trị, pháp luật: Các yếu tố chính trị và pháp luật, bao gồm hệ thống các quan điểm, đường lối chính sách của chính phủ, hệ thống luật pháp hiện hành, xu hướng ngoại giao của chính phủ, ... có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Chính trị và pháp luật là nền tảng cũng như cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường. Sự ổn định chính trị tạo ra môi trường thuận lợi, sự lành mạnh trong xã hội, ổn định kinh tế, tạo hành lang thông thoáng cho các doanh nghiệp phát triển. Luật pháp đưa ra những quy định cho phép hoặc không cho phép, hoặc những ràng buộc đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ khi tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, được hưởng quyền lợi đi đôi với việc phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Chính phủ có vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ và chính sách của mình, đóng vai trò là người giám sát, duy trì, kiểm soát, khuyến khích, tài trợ, quy định ngăn cấm và đồng thời là nhà cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp như cung cấp thông tin vĩ mô, các dịch vụ công cộng... do vậy, hoạt động của chính phủ cũng có thể tạo ra cơ hội hoặc rào cản cho doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần hiểu rõ môi trường chính trị, pháp luật, nhận ra những cơ hội và thách thức, từ đó điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình cho phù hợp. + Môi trường kinh tế: Đây là nhân tố quan trọng nhất có tác động trực tiếp đến việc ra quyết định kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các chính sách kinh tế của nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, tốc độ lạm phát, thu nhập bình quân trên đầu người... là các yếu tố tác động trực tiếp tới cung cầu của từng doanh nghiệp. Nếu nền kinh tế quốc dân ổn định hoặc có tốc độ tăng trưởng cao, các chính sách của Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, sự biến động tiền tệ là không đáng kể, lạm phát được giữ mức hợp lý, thu nhập bình quân đầu người tăng... sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; và ngược lại khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng nhanh làm cho sức mua của người dân giảm sút khi đó doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn và hiệu quả kinh doanh sẽ giảm. + Môi trường văn hóa - xã hội: Môi trường văn hóa - xã hội bao gồm những chuẩn mực và giá trị được chấp nhận và tôn trọng bởi một xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể. Sự tác động của các yếu tố văn hóa - xã hội như: những quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, về nghề nghiệp; những phong tục, tập quán, truyền thống; những quan tâm ưu tiên của xã hội; trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội... thường có tính dài hạn và khó có thể nhận biết hơn so với các yếu tố khác, đồng thời có phạm vi tác động thường rất rộng, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh. Yếu tố văn hóa - xã hội giúp xác định cách thức người ta sống, làm việc, sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ; vì vậy doanh nghiệp cần phải phân tích kĩ yếu tố này nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra cho hoạt động kinh doanh của mình. + Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng: Các điều kiện tự nhiên bao gồm: các loại tài nguyên khoáng sản, vị trí địa lý, thời tiết khí hậu, cảnh quan, môi trường...có ảnh hưởng đến nguồn cung cấp đầu vào của doanh nghiệp, chi phí sử dụng nguyên nhiên vật liệu, năng lượng; ảnh hưởng tới mặt hàng kinh doanh, năng suất chất lượng sản phẩm; ảnh hưởng đến cung cầu sản phẩm do tính chất mùa vụ, . do đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong vùng. Các vấn đề ô nhiễm môi trường, sản phẩm kém chất lượng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên cùng với nguồn lực có hạn ngày càng được công chúng quan tâm nhiều hơn. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải chú ý đến hoạt động và hình ảnh của mình, phải quan tâm đến tình trạng môi trường, các vấn đề về xử lý phế thải, ô nhiễm, các ràng buộc về môi trường,. Các yếu tố đó có tác động đến chi phí kinh doanh, năng suất và chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vì vậy các doanh nghiệp cần phải có các nghiên cứu kĩ càng trước khi đưa ra các quyết định. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế có tính chất quyết định sự phát triển của nền kinh tế cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp. Hệ thống đường xa, giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống ngân hàng tín dụng, mạng lưới điện quốc gia,. ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh, khả năng nắm bắt thông tin, khả năng huy động và sử dụng vốn, khả năng giao dịch thanh toán,. của các doanh nghiệp do đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. + Trình độ khoa học công nghệ: Các yếu tố khoa học công nghệ bao gồm phương pháp sản xuất mới, kỹ thuật mới, vật liệu mới, thiết bị sản xuất, các phát minh sáng chế, phần mềm ứng dụng,. Đây là một trong những yếu tố chứa đựng nhiều cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp. Sự ra đời của công nghệ giúp các doanh nghiệp có điều kiện ứng dụng các thành tựu để tạo ra sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao hơn nhằm phát triển kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, sự bùng nổ của công nghệ mới càng làm cho vòng đời công nghệ có xu hướng rút ngắn lại, điều này càng làm tăng thêm áp lực phải rút ngắn thời gian khấu hao so với trước, đó là một thách thức lớn đối với hoạt động kinh doanh của mình mà mỗi doanh nghiệp cần phải lưu ý trong quá trình hoạt động kinh doanh. + Môi trường ngành: Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành với nhau ảnh hưởng trực tiếp tới lượng cung cầu sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, ảnh hưởng tới giá bán, tốc độ tiêu thụ sản phẩm,... Do vậy ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Sản phẩm thay thế cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, hầu hết các sản phẩm của các doanh nghiệp đều có sản phẩm thay thế; các sản phẩm đều có chất lượng, mẫu mã, bao bì, số lượng đa dạng, đem lại nhiều sự lựa chọn cho khách hàng từ đó ảnh hưởng đến lượng cung cầu, chất lượng, giá cả, chính sách tiêu thụ và tốc độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bất cứ một doanh nghiệp nào khi kinh doanh cũng đều cần phải quan tâm đến nguồn lực cung ứng cho doanh nghiệp mình. Các nguồn lực đầu vào của một doanh nghiệp được cung cấp bởi các đơn vị kinh doanh khác. Việc đảm bảo chất lượng cũng như giá cả, thời gian cung ứng phù hợp của các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp là hết sức cần thiết và phụ thuộc vào hành vi của người cung ứng. Nếu các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp không có sự thay thế và do các nhà độc quyền cung cấp thì việc đam bảo yếu tố đầu vào của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhà cung ứng rất lớn, chi phí đầu vào của doanh nghiệp sẽ cao từ đó hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giảm xuống; và ngược lại. Khách hàng của doanh nghiệp là một vấn đề vô cùng quan trọng và được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm và chú ý. Mật độ dân cư, thu nhập bình quân của người dân, tâm lý sở thích tiêu dùng,... đều ảnh hưởng lớn đến sản lượng và giá cả sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp không có khách hàng, sản phẩm không tiêu thụ được, vốn của doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. - Nhà cung cấp: Để quá trình sản xuất kinh doanh liên tục và có hiệu quả thì cần phải có mối quan hệ mật thiết với các nhà cung cấp. Vì họ là những người cung ứng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải lựa chon những nhà sản xuất có uy tín, đúng giá cả và thời hạn để cung ứng kịp thời cho quá trình sản xuất, giúp doanh nghiệp có nguồn lực đều đặn, rẻ nhất, hiệu quả nhất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. - Đối thủ cạnh tranh: Đối thủ cạnh tranh là những tổ chức, cá nhân có khả năng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng về các mặt hàng giống với mặt hàng của doanh nghiệp hoặc các mặt hàng có thể thay thế lẫn nhau. Vì vậy, để dành ưu thế thị phần, để cạnh tranh tốt thì doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá bán, khuýên mãi.Điều này tạo ra khả năng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1.2. NỘI DUNG PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KINH DOANH 1.2.1. Đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh Đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh nhằm mục đích giúp doanh nghiệp biết được hiệu quả kinh doanh của mình ở mức độ nào, xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp; thường được đánh giá thông qua những chỉ tiêu sau[5]: - Sức sinh lợi của tài sản: Trong quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, doanh nghiệp mong muốn lấy thu bù chi và có lãi, bằng cách so sánh lợi nhuận với tài sản đầu tư, ta sẽ thấy khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp từ tài sản; có thể xác định bằng công thức: Sức sinh lợi của tài sản Lợi nhuận sau thuế TNDN (ROA) Tổng tài sản bình quân Sức sinh lợi của tài sản giúp cho doanh nghiệp có thể biết được trong một kỳ kinh doanh, doanh nghiệp bỏ ra một đồng tài sản đầu tư thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này có trị số càng cao cho thấy doanh nghiệp làm ăn càng hiệu quả, chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản tốt và còn cho biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp. - Sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu (VCSH): Nguồn vốn là một thành phần quan trọng mà cả nhà quản lý doanh nghiệp và các nhà đầu tư đều quan tâm và xem xét để có thể đánh giá việc sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp như thế nào, ta đánh giá chỉ tiêu sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE). Sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận của vốn chủ sở hữu mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh, được xác định bằng việc so sánh giữa lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp với lượng vốn chủ sở hữu mà doanh nghiệp đã bỏ ra. Theo đó có thể thấy, trong kỳ kinh doanh một đồng vốn chủ sở hữu thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp là tốt, từ đó kéo theo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn và ngược lại. Sức sinh lợi của VCSH(ROE) Lợi nhuận sau thuế TNDN VCSH bình quân Sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu là một trong những chỉ tiêu tài chính quan trọng nhất. Nó thường được xem là tỷ lệ tối thượng có thể được lấy từ báo cáo tài chính của doanh nghiệp để đo lường khả năng sinh lợi của doanh nghiệp đó đối với chủ đầu tư. - Sức sinh lợi của doanh thu thuần (ROS): Để đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp, ta không thể không xét đến bộ phận doanh thu - là yếu tố mà bất kỳ một doanh nghiệp hay chủ đầu tư nào đều trông đợi sẽ có hiệu quả. Ta đánh giá khái quát về doanh thu thông qua chỉ tiêu sức sinh lợi của doanh thu để có thể biết được mỗi đồng doanh thu thuần thu được trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận sau thuế TNDN Sức sinh lợi của doanh thu thuần (ROS) Doanh thu thuần Sức sinh lợi của doanh thu thuần là một chỉ tiêu sử dụng rộng rãi để đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Nó không chỉ được sử dụng như một công cụ để phân tích hiệu quả kinh doanh của một công ty mà còn để so sánh hiệu quả kinh doanh giữa các công ty tương tự nhau. Một ROS tăng đối với các doanh nghiệp có hoạt động ngày càng trở nên hiệu quả hơn, hoặc sẽ giảm khi có dấu hiệu khó khăn về tài chính. Hay nói cách khác, chỉ tiêu này càng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn.Một đồng doanh thu thuần tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế - Sức sinh lợi căn bản: EBIT BEPR = Tài sản bình quân Phản ánh khả năng sinh lợi trước thuế và lãi vay của doanh nghiệp cho nên thường được sử dụng để so sánh khả năng sinh lợi trong trường hợp các
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan