Chương II
NGÔN NGỮ CA DAO
§ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NGÔN NGỮ CA DAO
Có thể nói, ngôn ngữ trong ca dao đã kết tụ những đặc điểm
nghệ thuật tinh tuý đẹp đẽ nhất của ngôn ngữ dân tộc.
Ngôn ngữ trong ca dao giản dị, cô đọng, trong sáng, chính xác
vì đã được gọt rũa, trau chuốt, chắt lọc qua sự đồng sáng tạo của hàng
bao thế hệ. Những câu ca dao đến được với chúng ta ngày nay phải
đẹp cả nội dung và hình thức giúp cho việc biểu lộ thế giới tâm hồn
đa dạng, phong phú và vô cùng sâu sắc của con người. Có thể khái
quát một số đặc điểm chung của ngôn ngữ ca dao:
+ Sự kết hợp giữa ngôn ngữ nghệ thuật (ngôn ngữ giàu chất
thơ) với ngôn ngữ của đời sống, với lời ăn tiếng nói hàng ngày của
quần chúng nhân dân;
+ Sự kết hợp giữa ngôn ngữ ca dao và ngôn ngữ thơ ca văn
học viết;
+ Sự kết hợp tính dân tộc và tính địa phương. Văn học dân gian
đóng vai trò cơ sở, nền tảng cho văn học viết trong quá khứ trên
nhiều phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Các nhà thơ lớn của dân
tộc như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Bính, Tố Hữu... đã
tiếp thu nguồn mạch trong trẻo của ngôn ngữ ca dao để sáng tác nên
những tác phẩm có giá trị lớn lao. Ngược lại, ca dao mang đặc điểm
phong cách thơ ca trung đại rõ nét, thể hiện mối quan hệ ảnh hưởng
qua lại giữa văn học dân gian và văn học viết. Những tác giả bình
dân cũng tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của thơ ca văn học viết từ cách
19
sử dụng từ ngữ đến việc đưa vào thơ ca của mình những điển cố,
điển tích giàu tính chất ước lệ “Vầng quế”, “Người ngọc”, “Vườn hồng”,
“Chim xanh”, “Trăng già”, “Nguyệt lão” khiến cho ngôn ngữ ca dao trở
nên sang trọng đẹp đẽ, giàu chất trí tuệ và biểu cảm.
Theo Mai Ngọc Chừ: “Ngôn ngữ ca dao có những đặc điểm
“thơ” nhất của ngôn ngữ thơ Việt Nam, nó mang không chỉ chức năng
thông báo thuần tuý mà còn là thông báo ‐ thẩm mỹ”(1. tr.24‐28). Xuân
Diệu đã phải thốt lên khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ngôn từ dân gian
‘Cái chàng thi sỹ dân gian nào đây đã xui gì mà xui hay xui đẹp vậy
“Lên non đón gió lấy trầm/ Xui ong lấy mật, giục tằm nhả tơ”. Ngôn ngữ
ca dao được gọt dũa, trau chuốt, được tinh luyện trên cơ sở khai thác
và sử dụng ngôn ngữ dân tộc với những đặc điểm và quy luật của
nó, ngược lại, ca dao là minh chứng rõ nét, đáng tự hào nhất về sự
phát triển rực rỡ của ngôn ngữ dân tộc:
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này.
Bên cạnh vẻ đẹp trang trọng, giàu chất thơ thì sức hấp dẫn của
ngôn ngữ ca dao còn ở tính chất giản dị, đậm màu sắc khẩu ngữ
trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Các nhà nghiên cứu
thật có lý khi cho rằng sức quyến rũ của thơ ca dân gian chính là ở sự
giản dị, chân thực. Ngôn ngữ ca dao là sự kết hợp hài hoà giữa ngôn
ngữ đời thường với ngôn ngữ thơ. Nó vừa giản dị như lời ăn tiếng
nói hàng ngày của nhân dân lao động vừa mang tính nghệ thuật cao,
giàu sức biểu cảm.
‐ Lá này là lá xoan đào
Tương tư gọi nó thế nào hở em
Lá khoai anh ngỡ lá sen
Bóng trăng anh ngỡ bóng đèn em khêu.
‐ Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này.
20
Tính chất khẩu ngữ thể hiện ở hiện tượng thêm hoặc bớt âm tiết
ở câu thơ (đặc biệt ở thể thơ lục bát) là hiện tượng không phải là
hiếm thấy trong ca dao:
‐ Cho dù trúc mọc thành mai
Em cũng không xiêu lòng lạc dạ nghe ai phỉnh phờ
‐ Ngó lên quán Đảnh‐trời xanh
Với ai cũng vậy, gá nghĩa với anh cho rồi
Ngôn ngữ ca dao không phải là sáng tác cá nhân mà là sáng tác
tập thể, sáng tác truyền miệng của nhân dân lao động qua nhiều thế
hệ, nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau nên nó mang tính thống nhất và
tính đa dạng. Ngôn ngữ ca dao vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa
mang sắc thái địa phương rõ nét. Việc sử dụng tiếng địa phương
đúng chỗ, thích hợp sẽ làm cho ca dao có sắc thái riêng, thêm phong
phú đa dạng. Đúng như một số ý kiến nhận xét rất tinh tế: ca dao Bắc
Bộ thường trau chuốt, bóng bẩy, hay dùng lối so sánh, ví von, nghĩa
là hay nói vòng vo, bóng gió, gần với lối diễn đạt điêu luyện của văn
chương bác học; còn ca dao miền Trung và đi sâu hơn vào nam
Trung Bộ, nó mang phong cách của ngôn ngữ vùng đất mới, có phần
tự nhiên, phóng khoáng, không bị trói buộc bởi các quy tắc một cách
quá chặt chẽ:
Anh đến tìm em thì em đã có chồng
Em yêu anh như rứa, có mặn nồng chi mô?
‐ Tai nghe em bậu lấy chồng
Bất tỉnh nhơn sự, dậm chưn kêu trời.
Song cũng có tình trạng nếu ngôn ngữ địa phương bị lạm
dụng quá nhiều thì ca dao sẽ nặng nề, khó hiểu, khó được lưu
truyền rộng rãi.
21
§ MỘT SỐ TỪ LOẠI TIÊU BIỂU
A. TÍNH TỪ, TÍNH NGỮ TRONG CA DAO
I. Vấn ₫ề nghiên cứu tính từ, tính ngữ
Có một điều rất lạ rằng, trong vài chục năm gần đây, ca dao là
đối tượng được các nhà nghiên cứu Việt Nam để mắt đến nhiều, có
thể nói không ngoa rằng đó là thể loại được ưu ái nhất trong các thể
loại văn học dân gian. Các giáo trình đại học, các bài nghiên cứu,
khảo cứu, các chuyên luận đã đi sâu bình giá ca dao từ nội dung đến
nghệ thuật, từ nghiên cứu một cấp độ đến nhiều cấp độ ca dao: khảo
sát kết cấu, các phương thức ẩn dụ, so sánh, biểu tượng, không‐thời
gian nghệ thuật, các yếu tố ngôn ngữ, các thể thơ. Vậy mà ít ai (có thể
nói chưa có ai) lưu ý nghiên cứu sâu một phương diện ngôn ngữ có
giá trị biểu cảm to lớn, mang đặc trưng thể loại rõ nét của các bài hát
dân gian. Đó là việc sử dụng tính từ, tính ngữ trong các bài hát trữ
tình dân gian. Trong khi đó giới nghiên cứu thi pháp văn học dân
gian thế giới, đặc biệt các nhà phônclo học Nga rất quan tâm đến
hướng nghiên cứu này. Viện sĩ A.N.Vêxêlôpxki đã dành hai chương
cho việc nghiên cứu tính ngữ: Từ lịch sử của tính ngữ, Sự lặp lại tính
ngữ như một thời điểm niên đại trong công trình nổi tiếng Thi pháp lịch
sử của mình. V.M.Xidennhicôp có bài Tính ngữ trong bài hát trữ tình
dân gian (M, 1959), N.L.Crapxôp có bài Tính ngữ trong các bài ca sinh
hoạt trữ tình, E.I.Iaxucôp: Tính ngữ, trong các bài ca múa vòng,
N.V.Pôchiavina: Tính ngữ trong các bài ca binh lính, C.G.Laduchin Tính
ngữ trong tráng sĩ ca, bởi ca lịch sử oà bài ca trữ tình... Trong các công
trình này, các nhà nghiên cứu đã đi sâu khảo sát tính ngữ trong các
thể loại khác nhau, tìm hiểu đặc điểm sử dụng tính ngữ ở mỗi thể
loại, từ đó hiểu rõ hơn đặc thù thể loại.
22
Tính ngữ chiếm một vị trí quan trọng trong phong cách thơ ca,
trong cấu trúc nghệ thuật, tư tưởng của tác phẩm. Trong mối liên
quan với sự hiện diện của khoa học ngữ văn, một lĩnh vực lí luận
mới xuất hiện với việc cần thiết nghiên cứu tính ngữ ở một khía cạnh
mới nào đó; hiện nay, tính ngữ cần được nghiên cứu sâu sắc hơn
dưới ánh sáng của việc giải quyết vấn đề thể loại, xác định những
đặc trưng của phương pháp nghệ thuật, sự phát triển có tính quy
luật của phônclo và văn học. Các thể loại văn học dân gian khác nhau
không chỉ được phân biệt ở những đặc trưng phản ánh trong
nó những chất liệu cuộc sống mà còn ở chính những nguyên tắc, cách
thức, phương pháp nghệ thuật của sự phản ánh đó. Sự sử dụng tính
ngữ ở mỗi thể loại có những đặc điểm riêng thể hiện đặc thù thể loại.
Chuyên khảo này của chúng tôi không có tham vọng đi sâu vào
những vấn đề lớn như lịch sử tính ngữ, những đặc điểm tính ngữ
trong việc góp phần phân biệt các thể loại mà chỉ đi vào việc khảo sát
tính ngữ trong thơ trữ tình dân gian Việt Nam; bước đầu nghiên cứu
đặc điểm sử dụng tính ngữ trong ca dao, tìm hiểu nét đặc sắc có tính
chất truyền thống trong hình thức nghệ thuật đã góp phần biểu hiện
thế giới tâm hồn phong phú của nhân dân lao động Việt Nam.
II. Phân loại tính từ, tính ngữ trong thơ ca trữ tình dân gian
Theo định nghĩa của Viện sĩ A.N.Vêxêlôpxki: ʺTính ngữ là định
ngữ một phía của ngôn từ, hoặc xác định ý nghĩa chung chiếm ưu thế
hoặc làm tăng thêm, nhấn mạnh thêm một phẩm chất đặc trưng, nổi
bật nào đó của sự vậtʺ (Thi pháp lịch sử. M, 1940).
Muốn nghiên cứu sâu một đối tượng, công việc đầu tiên của
người nghiên cứu là phân loại đối tượng. Mỗi cách phân loại đều đi
theo một tiêu chí nhất định, chúng đều có hạt nhân hợp lý cũng như
sẽ có những hạn chế, hoặc khó phân định tư liệu hoặc chưa bao
quát được hết đối tượng. A.N.Vêxêlôpxki đã phân loại tính ngữ ra
thành bốn nhóm:
‐ Tính ngữ trùng lặp. Về bản chất có sự đồng nghĩa, gần gũi
giữa danh từ và tính từ, chúng đều diễn đạt một ý tưởng của cuộc
23
sống, của sự phản ánh. Thêm vào đó, trong sự đối chiếu của chúng
có thể không biểu đạt được nhận thức về nét tương đồng cổ xưa
của chúng.
Ví dụ: Mặt trời đỏ, ánh sáng trắng, bùn lầy.
‐ Tính ngữ giải thích. Trên cơ sở một dấu hiệu chung nào đó:
+ Được coi là dấu hiệu chính yếu của sự vật;
+ Dấu hiệu đặc trưng của nó trong quan hệ với mục đích thực
tế và tư tưởng thẩm mĩ.
Về nội dung, những tính ngữ này được tách thành hàng loạt
nhóm khác biệt. Trong chúng có nhiều trạng thái biểu thị xúc cảm
này hay xúc cảm khác mang tính chất dân tộc, chứa đựng những yếu
tố lịch sử ‐ địa phương.
‐ Tính ngữ ẩn dụ. Tạo ra sự song hành của cảm giác, ngầm so
sánh chúng. Như bất kỳ ẩn dụ nào, sự giả định chuyển đổi dấu hiệu
nhận thức nổi bật từ một trong những đối tượng so sánh này sang
đối tượng khác.
Ví dụ: Nỗi buồn đen, nỗi buồn chết chóc.
‐ Tính ngữ nguyên hợp. Cơ sở của nhóm tính ngữ này là tính
dính kết giữa tính ngữ này và tri giác bên ngoài với kết quả liên
tưởng, biểu tượng tình cảm của chúng ta.
Ví dụ: Chất giọng sáng, lời cay độc, đêm dày đặc.
Theo chúng tôi, giữa tính ngữ ẩn dụ và tính ngữ nguyên hợp có
nhiều điểm có thể hòa đồng. Xét về mặt cội nguồn, chúng có thể có
sự phân biệt rõ nhưng trên lớp cắt đồng đại, có thể tạm gộp chúng
với nhau để tiện nghiên cứu. Vì thế, với tính ngữ trong các bài dân ca
trữ tình dân gian Việt Nam, chúng tôi khảo sát theo ba nhóm.
1. T˝nh ngữ tr•ng lặp
Nghiên cứu bộ phận tính ngữ trùng lặp trong bài ca trữ tình
dân gian Việt Nam có thể thấy chúng thiên về nhóm tính từ chỉ màu
24
sắc. Nếu tính ngữ ở nhóm này trong bài ca trữ tình dân gian Nga là
ʺcô gái đẹpʺ, ʺmặt trời đỏʺ, thì trong các bài hát trữ tình dân gian Việt
Nam nó thường cụ thể hóa những nét đặc điểm nào đó của con
người, sự vật: ʺmá đỏ hồng hồngʺ, ʺyếm thắm lòa lòaʺ, ʺrăng đen
nhưng nhứcʺ, ʺchim xanh ăn trái xoài xanhʺ.
‐ Cô kia má đỏ hồng hồng
Cô chưa lấy chồng còn đợi chờ ai.
‐ Hỡi cô yếm thắm lòa lòa
Lại đây đập đất trồng cà với anh.
Bao giờ cà lớn trái xanh
Anh cho một quả để dành mớm con.
‐ Răng đen nhưng nhức hạt dưa
Miệng cười tủm tỉm như chưa có chồng.
Những tính ngữ chỉ màu sắc chiếm một số lượng khá lớn trong
ca dao. Nó diễn tả màu sắc thực của cảnh vật: trời, mây, cây cỏ và
những đặc điểm thể chất của con người, tất nhiên có thông qua
trường nhìn của tâm trạng nhân vật trữ tình. Tính từ trùng lặp đã gọi
tên và khắc họa đặc điểm đối tượng rõ nét:
‐ Người khôn con mắt đen sì
Người dại con mắt nửa chì nửa thau.
Nhân dân lao động thường thiên về miêu tả những gam màu
tươi tắn, sáng sủa. Theo sự quan sát thì màu xanh chiếm tỷ lệ cao
nhất, rồi đến màu vàng, màu trắng, màu đỏ, màu đen. Có tả màu đen
thì cũng phải là màu đen theo quan điểm thẩm mỹ một thời: ʺRăng
đen nhưng nhức hạt dưaʺ….
‐ Gặp cô má phấn răng đen
A di đà Phật anh quên mất chùa.
25
Sau các tính từ chỉ màu sắc, có thể còn có các từ láy tạo thành
tính ngữ kép. Phải chăng đây là một đặc điểm của tính ngữ chỉ màu
sắc của ca dao Việt Nam. Miêu tả, gọi tên màu sắc chưa đủ, còn phải
dùng từ láy để nhấn mạnh, để diễn tả đậm nét hơn: ʺmá đỏ hồng
hồngʺ, ʺyếm thắm lòa lòaʺ, ʺcon mắt đen sìʺ, ʺđất rộng mênh môngʺ,
ʺtrời cao lồng lộngʺ. Tính ngữ kép có tác dụng gây ấn tượng nhanh
mạnh, có thể khái quát chăng về tâm lý yêu ghét rõ ràng, rạch ròi,
không chấp nhận sự nửa vời của nhân dân lao động.
Nhóm tính từ chỉ màu sắc cho thấy đặc điểm tâm lý dân tộc qua
cách miêu tả. Những màu sắc mà người dân lao động yêu thích
thường được dùng để miêu tả đối tượng trữ tình ‐ đó là những chàng
trai cô gái mà họ đang thầm yêu trộm nhớ hoặc đang tìm mọi cách
khéo léo để giãi bày tâm trạng.
‐ Hỡi cô thắt dải lưng xanh
Ngày ngày thấp thoáng bên mành chờ ai.
Thiên nhiên tươi tắn, rực rỡ,ʺmây trắng trời hồngʺ, ʺmây bạc
chín tầngʺ, trời cao lồng lộngʺ, ʺmây xanh mây trắng mây vàngʺ, luôn
hiện lên trong tâm trạng của chàng trai đang yêu. Thường ở những
bài ca này, nhân vật trữ tình là các chàng trai, còn cô gái nhìn cảnh
sắc thiên nhiên bằng con mắt trầm tĩnh hơn, tâm tưởng hơn, cho nên
họ ít miêu tả cảnh sắc thực, có chăng là màu sắc đã được chuyển
theo nghĩa tâm trạng: ʺHỡi anh áo trắng vân vânʺ.
Người phụ nữ thường nhìn không gian trong tâm tưởng. Đây
là cách nhìn rất đặc trưng của họ:
‐ Người về em vẫn ngó chừng
Ngó sông, sông rộng, ngó rừng, rừng sâu
‐ Ngày ngày em đứng em trông
Trông non, non ngất, trông sông, sông dài
‐ Trông mây, mây héo ngang trời
Trông trăng trăng khuyết trông người, người xa.
26
Có thể thấy rõ là, bên cạnh màu sắc được sử dụng để miêu tả
màu sắc thực của đối tượng còn có một bộ phận không nhỏ được
dùng theo nghĩa bóng, cần hiểu theo văn cảnh:
‐ Đôi tay vít lấy đôi cành
Quả chín thì trẩy quả xanh thì đừng.
‐ Ai ơi đã vít thì vin,
Đã chơi bông trắng, thì nhìn bông xanh.
Đôi khi thiên nhiên với màu sắc trong một số bài ca cũng chỉ có
ý nghĩa đưa đẩy, bắt vần, được dùng theo những mô thức có sẵn để
dễ bề ứng tác, ứng khẩu:
‐ Giữa trời có dám cây xanh
Hai bên bác mẹ tác thành thì nên.
‐ Nước xanh xanh chảy quanh cồn cát trắng
Con chim phượng hoàng rầy vắng tiếng kêu.
2. T˝nh ngữ giải th˝ch
Nhóm tính ngữ này giải thích hoặc nhấn mạnh một đặc điểm
đặc trưng nào đấy của đối tượng, có thể là miêu tả trạng thái thực:
‐ Hai hàng nước mắt rưng rưng
Chàng xa thiếp cách, giậm chưn kêu trời.
‐ Người về em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt dầm dầm như mưa.
‐ Nhớ ai con mắt lim dim
Chân đi thất thểu như chim tha mồi.
Điều đặc biệt có giá trị trong nhóm tính ngữ giải thích này là
ngoài việc nhấn mạnh đặc điểm đặc trưng của đối tượng, nó còn bao
hàm, chứa đựng cách đánh giá của nhân dân về sự vật, hiện tượng
đó: chim khôn, gái khôn, trai lành, ngọc lành, chiếu hoa sập vàng.
27
‐ Chim khôn lựa nhánh lựa cành
Gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân
‐ Đào tơ sen ngó xanh xanh
Ngọc lành phải giá, gái lành phải duyên
‐ Chiếu hoa mà trải sập vàng
Điếu ngô xe trúc, sao chàng chẳng say
‐ Những nơi chiếu cói, võng đay
Điếu sành xe cậy chàng say la đà.
Cách gọi tên đặc điểm đối tượng một cách chính xác, rõ ý gọn
lời, bao hàm cách đánh giá.
‐ Anh tiếc cái thuyền nho nhỏ, mũi nó sơn đen
Để cho người hèn bẻ lái không ra.
Chiếm một số lượng lớn trong nhóm tính ngữ này là nhóm tính
ngữ chỉ khoảng cách không gian, đặc biệt là những từ chỉ không gian
xa cách (cao, dài, rộng) non cao, sông rộng, rừng sâu bộc lộ thuộc
tính nội tại của sự vật, qua đó khắc họa những khó khăn cách trở của
đôi lứa yêu đương.
‐ Anh nói với em sơn cùng thủy tận
Em nói với anh nguyệt khuyết sao băng.
‐ Anh về em vẫn trông chừng
‐ Trông mây mây tản, trông rừng, rừng xanh.
Đây là môtip được lặp lại nhiều trong ca dao. Từ một trường
nhìn, một điểm nhìn của nhân vật trữ tình, không gian mở ra
dường như vô tận. Những tính ngữ khắc họa rõ nét tính chất của
không gian, nhờ không gian mà khắc họa rõ nét tâm trạng người
trong cảnh. Tính ngữ ở đây rõ ràng đóng vị trí trung tâm trong giá
trị biểu cảm.
28
Nhiều khi thiên nhiên được nêu ra với những giả định về tính
chất bền vững, vĩnh cửu của không gian để so sánh với tình cảm con
người. Thiên nhiên thường được đưa ra để thề nguyền, ước hẹn:
‐ Trăm năm đá nát vàng phai
Non mòn, biển cạn không phai lời nguyền.
‐ Bao giờ sông cạn đá mòn hãy hay.
3. T˝nh ngữ ẩn dụ
Thực chất tính ngữ ẩn dụ góp phần thể hiện sự so
sánh ngầm, chuyển dời dấu hiệu nhận thức từ đối tượng này
sang đối tượng khác. Về số lượng, tính ngữ ẩn dụ trong ca dao trữ
tình người Việt không nhiều như nhóm tính ngữ giải thích nhưng
khá đặc trưng:
Anh ngồi bậc lở anh câu
Khen ai xúi giục cá sầu không ăn.
Bài ca đã sử dụng cả tính ngữ giải thích ʺbậc lởʺ cả tính ngữ ẩn
dụ ʺcá sầuʺ, ʺcá buồnʺ bằng biện pháp nhân cách hóa đối tượng thể
hiện tính khái quát cao:
‐ Cá buồn cá lội tung tăng
Người buồn người biết đãi đằng cùng ai.
‐ Trầu này trầu quế trầu hồi
Trầu loan trầu phượng trầu tôi trầu mình
Trầu này trầu tính, trầu tình
Trầu nhân, trầu nghĩa trầu mình lấy ta.
Trầu quế, trầu hồi là tên những loại trầu quý được nhân dân
dùng trong giao tiếp (ʺMiếng trầu là đầu câu chuyệnʺ), trong hôn lễ
(ʺMiếng trầu nên dâu nhà ngườiʺ) tác giả dân gian đã chuyển đổi
tên các loại trầu biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi, những biểu
tượng rất đặc trưng trong ca dao. Toàn bộ bài ca chỉ là một điệp
29
khúc về miếng trầu, không cần một thông báo nào khác ngoài sự
chuyển đổi dấu hiệu nhận thức đối tượng với những tên gọi đa
dạng phong phú về miếng trầu. Chỉ cần gọi tên miếng trầu trong
các tính ngữ ẩn dụ, bài ca đã diễn đạt được sự trân trọng người yêu
(biểu tượng của đẹp đôi vừa lứa (ʺtrầu loan trầu phượngʺ), sự
thắm thiết và đạo lý tình yêu (ʺtrầu nhân trầu ngãiʺ); sự thông minh
chững chạc của nhân vật trữ tình, sự duyên dáng ở lối phô diễn tình
cảm trong cách vơ vào rất có duyên (ʺtrầu tôi trầu mìnhʺ, ʺtrầu tính
trầu tìnhʺ, ʺtrầu mình lấy taʺ). Đây là một trong những kiểu bài ca
có chức năng giao duyên (có thể rõ hơn là bài ca mời trầu) trong hát
giao duyên mà sự sử dụng hàng loạt tính ngữ có giá trị biểu cảm rõ
rệt. Chỉ bằng cách sử dụng và thay đổi các tính ngữ, người hát
đã diễn đạt rõ ý tưởng của mình, bộc lộ rõ tâm trạng trữ tình của
thể loại mang đậm bản chất trữ tình. Trong ca dao, ta có thể gặp
không ít sự chuyển nghĩa đặc thù như vậy. Nỗi buồn của lòng
người cũng như niềm vui sướng hạnh phúc thường được gửi gắm
trong cỏ, cây, hoa lá:
‐ Nên chăng bởi khách chương đài
Mưa sầu, gió thảm lấy ai bạn cùng.
‐ Anh về xin chớ về luôn
Phòng loan trăng úa gió luồn thâu đêm
Chén son nguyện với trăng già
Càn khôn đưa lại một nhà vui chung.
Tính đa nghĩa của ngôn ngữ nghệ thuật, sự sử dụng các thành
ngữ dân gian khiến cho việc miêu tả vừa mang ý nghĩa thực vừa
mang ý nghĩa khái quát cao, tạo cho người nghe những hướng liên
tưởng phong phú:
Tưởng rằng bóng cả cây cao
Thiếp lăn mình vào những nắng cùng mưa.
‐ Ai ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau
30
III. Đặc ₫iểm sử dụng tính ngữ trong ca dao
Trên đây trong quá trình phân loại, chúng tôi đã sơ bộ trình bày
một số đặc điểm sử dụng tính ngữ trong từng nhóm. Để có cái nhìn
tổng quát, chúng tôi xin rút ra một số nhận xét chính về đặc điểm sử
dụng tính ngữ trong các bài hát trữ tình dân gian.
1. Tính ngữ được sử dụng trong ca dao trữ tình với số lượng
lớn, lớn hơn bất kỳ một thể loại tự sự hay văn vần nào khác trong
văn học dân gian (so với vè, truyện thơ). Là một yếu tố ngôn ngữ
nghệ thuật của thể loại mang đậm bản chất trữ tình, tính ngữ đã góp
phần bộc lộ tâm trạng trữ tình, biểu lộ tư tưởng thẩm mỹ một cách
ưu việt. Tính từ trong nhóm định ngữ này đã đóng vai trò trung tâm
trong ý nghĩa biểu cảm. Hãy thử che đi các tính từ, chỉ giữ lại các
danh từ, ta sẽ thấy lời ca mất hẳn đi ý nghĩa biểu cảm đặc thù.
Thế giới tâm hồn con người là vô hình, vô hạn, phong phú, phức tạp
muốn biểu hiện nó phải viện đến các biện pháp nghệ thuật mà tính
ngữ là một trong những phương tiện nghệ thuật đắc dụng.
2. Ca dao mang đặc điểm phong cách thơ ca trung đại rõ nét,
thể hiện rõ mối quan hệ ảnh hưởng qua lại giữa văn học dân gian và
văn học viết. Điều này đặc biệt rõ khi ta khảo sát nhóm tính ngữ
trong ca dao. Tính ngữ trong các bài ca trữ tình dân gian vừa chứa
đựng những yếu tố ngôn ngữ nghệ thuật cụ thể sinh động, diễn tả
một cách chân thật tình cảm của người lao động (Em như tép nhỏ lộn
rong, em như chiếu rách, củi than nhem nhuốc...) vừa sử dụng nhiều
hình ảnh ước lệ, đôi khi dẫu có sáo mòn nhưng được lặp đi lặp
lại nhiều lần trở thành cách nói quen thuộc trong dân gian. Các điển
cố, điển tích được sử dụng nhiều trong văn học viết cũng xuất hiện
với mật độ cao trong thơ ca trữ tình dân gian, đem lại cho thơ ca dân
gian một vẻ đẹp thẩm mỹ thời đại.
Lối nói phóng đại hoặc lối nói nhún nhường với những điển cố,
những ẩn dụ trong ca dao rõ ràng chịu ảnh hưởng của văn thơ bác
học trung đại.
31
‐ Anh như tấm vóc đại đồng
Em như chỉ thắm, thêu rồng nên chăng.
‐ Tơ hồng chỉ thắm là duyên
Dẫu bao giờ gặp thì nên bấy giờ.
‐ Ước sao chỉ Tấn tơ Tần
Sắt cầm hòa hợp lửa vần quan thư.
‐ Cánh hồng bay bổng trời thu
Thương con chim gáy cúc cu trong lồng.
‐ Dâu về dâu chẳng về không
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau
Ngựa ô đi đến vườn cau
Ngựa hồng chậm rãi đi sau vườn dừa.
Cách nói giàu tính chất ước lệ kết hợp hài hoà với cách miêu tả
không gian, cảnh vật thực khiến cho lời ca vừa đẹp, mang phong
cách ngôn ngữ trang trọng của một thời đã xa mà vẫn chan chứa hồn
quê, làng quê Việt Nam thân thuộc.
3. Một đặc điểm dễ nhận thấy khi khảo sát tính ngữ ca dao là sự
sử dụng đậm đặc tính ngữ, thành ngữ dân gian. Chính việc sử dụng
nhuần nhị thành ngữ dân gian, tận dụng lối tư duy, lối nói quen
thuộc trong lời ăn tiếng nói của nhân dân nên kết cấu của ca dao tuy
ngắn gọn mà vẫn đủ sức diễn đạt ý tưởng, tình cảm một cách sâu sắc,
rõ ràng. Các tính ngữ, thành ngữ quen thuộc thường được dùng
trong ca dao như: gừng cay muối mặn, gừng cay mía ngọt, non xanh
nước bạc, đồng trắng nước trong, dạ sắt gan đồng…
‐ Thấy anh em cũng muốn chào
Sợ lòng bác mẹ cây cao lá dài.
‐ Tưởng rằng bóng cả cây cao
Thiếp lăn mình vào những nắng cùng mưa.
32
‐ Trăm năm đá nát vàng phai
Sông mòn bể cạn, không sai lời nguyền.
Các tính ngữ, thành ngữ này mang lớp ý nghĩa tổng hợp, có giá
trị khái quát cao. Tưởng ít có cách diễn đạt nào gọn lời đa nghĩa mà
chất văn chương vẫn đậm đà đến vậy.
Còn có thể nhận thấy những đặc điểm khác nữa trong tính ngữ
ca dao… Ví dụ dấu ấn của biện pháp tu từ qua lối đảo từ đưa tính từ
lên trước danh từ để nhấn mạnh tính chất đối tượng:
‐ Anh về nhớ ngãi em không
Hay là thuận buồm, xuôi gió biệt mong xa chừng.
‐ Ai dè đâu trận gió đông
Rời hồng rã lục, hương nồng lạt hương.
Ví dụ sự sử dụng tính ngữ cặp đôi khá phổ biến trong ca dao: má
hồng răng trắng, nước biếc non xanh, nguyệt khuyết sao băng, sơn cùng
thủy tận… góp phần đảm bảo tính nhịp nhàng cân đối của thể thơ lục
bát, của đặc điểm ngôn ngữ thơ Việt Nam, phù hợp với nhịp bằng
trắc theo luật ngữ âm. Tất cả những đặc điểm này và một số vấn đề
khác nữa như: tính ngữ ca dao trong sự so sánh với một số thể loại
văn vần (vè truyện thơ, sử thi); tính ngữ trong sự phát triển lịch
sử văn học dân gian; tính dân tộc, tính địa phương trong sự sử dụng
tính ngữ… cần được nghiên cứu kỹ càng trong một bài viết khác khi
có điều kiện.
Tóm lại, chúng tôi xin nhấn mạnh rằng nghiên cứu tính ngữ
những bài ca trữ tình dân gian, về nội dung, chúng ta có thể hiểu rõ
hơn quan niệm thẩm mỹ cũng như tâm lý truyền thống dân tộc và
về thi pháp, tính ngữ là một phương diện ngôn ngữ nghệ thuật
được sử dụng một cách ưu việt trong việc diễn tả tâm trạng trữ tình
của một thể loại mang bản chất trữ tình đặc thù.
33
B. ĐẠI TỪ NHÂN XƯNG TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT
Có lẽ không ở bộ phận văn học dân gian nào mà đại từ nhân
xưng được sử dụng phong phú, giàu sắc thái biểu cảm như trong ca
dao trữ tình. Khảo sát ca dao, chúng ta sẽ gặp hàng loạt các đại từ
nhân xưng ngôi thứ nhất, thứ hai như: anh ‐ em, thiếp ‐ chàng, mình ‐
ta, cô kia ‐ anh; qua ‐ bậu; tui ‐ mình; người ‐ tôi; anh ‐ tôi; bạn ‐ ta, người
ngoan ‐ anh; người nghĩa ‐ em; anh ba ‐ em; chị hai ‐ tôi; đó ‐ đây; ai ‐ ta;
anh ‐ cô nường; anh ‐ cô bạn; em ‐ phu quân….
‐ Công tôi đi đợi về chờ
Sao người ăn nói lững lờ như không.
‐ Cô kia cắt cỏ bên sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.
‐ Bây giờ ướm hỏi người ngoan
Em về thưa với thầy mẹ anh muốn dan díu tình.
‐ Bậu với qua, duyên đà thậm bén
Biết cha mẹ rầy chọn kén nơi nao.
‐ Bây giờ hỏi thiệt cô ba
Còn thương như cũ hay là hết thương.
‐ Cô mình ơi, anh quyết với cô mình
Công anh dan díu chẳng thành thì thôi.
‐ Cá sấu cá chẳng quật đuôi
Như lan sầu huệ, như tui sầu mình.
‐ Đó nghèo thì đây cũng nghèo
Đôi ta như bọt với bèo dưỡng nhau.
‐ Đói no có thiếp có chàng
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình.
Ở bài viết này chúng tôi sẽ hệ thống hoá, phân tích các đặc
điểm sử dụng, giá trị biểu cảm và lý giải những đặc điểm đó từ góc
độ bản chất thể loại ca dao.
34
I. Cách sử dụng ₫ại từ nhân xưng trong ca dao
Cách sử dụng các đại từ nhân xưng thể hiện rõ phương thức
diễn xướng, lối kết hợp câu đối đáp trong ca dao.
Ca dao in rõ dấu ấn của kết cấu đối đáp, lối trò chuyện bằng lời
thơ tiếng hát. Nhà nghiên cứu quá cố Cao Huy Đỉnh đã phân tích rất
hay và sâu sắc điểm quan trọng này trong bản chất thể loại của ca
dao mà theo chúng tôi đại từ nhân xưng đã góp phần làm sáng tỏ. Có
đối tượng để trò chuyện trực tiếp thì người lao động mới sử dụng các
cặp từ nhân xưng mang đặc điểm gọi, chào, hỏi như vậy:
‐ Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài lời.
‐ Người về, em chẳng cho về
Em nắm vạt áo, em đề câu thơ.
Chính vì có nhân vật đối thoại, trò chuyện nên sự sử dụng đại
từ nhân xưng trong ca dao hết sức linh hoạt và độc đáo. Ta có thể
gặp nhiều cách nói bóng gió, ỡm ờ, nhiều trường hợp tưởng như
đang nói đến ngôi thứ ba, đến một người nào đấy nhưng thực chất
chỉ là ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai, là ʺmìnhʺ và ʺtaʺ, là những
người đang trực tiếp trò chuyện. Điều này rất hợp với bản chất trữ
tình của ca dao:
‐ Cô ấy mà lấy anh này
Chẳng phải đi cấy đi cày nữa đâu
‐ Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng
Trong bài ca xin áo quen thuộc này, chàng trai trò chuyện với
cô gái về cái áo bị bỏ quên ʺEm được thì cho anh xinʺ lại bất ngờ
chuyển sang nói về một ʺcô ấyʺ nào đó bâng quơ. Cô gái đang trò
chuyện chắc cũng hiểu ngay ʺcô ấyʺ là ai rồi. Rõ ràng, cách xưng hô
này cho phép mọi người ở mọi thời điểm hiểu được bởi phương thức
diễn xướng của thể loại.
35
Không ở đâu, dấu ấn cộng đồng, dấu ấn đối đáp tập thể lại rõ
nét như trong ca dao. Bày tỏ tình cảm lứa đôi mà lại có ʺđôi ngườiʺ,
ʺđôi tôiʺ, ʺchúng tôiʺ, ʺđôi ba người ơiʺ.
‐ Tính tang tình, chị hai ơi
Đương vui thế này
Chúng tôi trở ra về
Liệu có nhớ đến chúng tôi chăng.
II. Sắc thái biểu cảm của ₫ại từ nhân xưng trong ca dao
Đại từ nhân xưng trong ca dao sử dụng kết hợp cả lối xưng hô
trong văn chương bác học và lối xưng hô trong ngôn ngữ đời thường.
Chắc trong cuộc sống, người lao động xưa ít khi trực tiếp dùng
đại từ xưng hô mang tính chất trang trọng ʺchàng‐ thiếpʺ, ʺphu quân
‐ emʺ. Vậy mà đi vào thơ ca dân gian, đại từ này được sử dụng khá
nhiều. Bên cạnh đó cũng sử dụng đậm đặc cách gọi bình dân ʺmình‐
taʺ, ʺtôi‐ cô mìnhʺ, ʺngười‐emʺ:
Bấy lâu chàng đợi thiếp trông
Bây giờ chàng hỏi thiếp nói không sao đành
Mình nghiêng tai tôi nói nhỏ cho rành
Theo mình có thác cũng đành dạ tôi.
Cách xưng hô trong ca dao chỉ mức độ quan hệ và thể hiện sắc
thái biểu cảm cũng giống như cách xưng hô trong ngôn ngữ đời
thường. Khi nghiêm túc, khi tha thiết thì dùng ʺanh ‐ emʺ, ʺthiếp ‐
chàngʺ, mình ‐ taʺ:
Thiếp nhớ chàng, tấm phên hư, nuột lạt đứt
Chàng nhớ thiếp khi đắng nước nghẹn cơm
Khi giận hờn, gay gắt:
Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây.
36
Khi tình yêu đơn phương dè dặt:
Ngó đây, ngó đó không ưng
Ngó về xứ bạn, lòng mừng dạ vui.
Khi vui đùa, tinh nghịch:
Cô mình ơi anh quyết với cô mình
Công anh dan díu, chẳng thành thì thôi.
Đặc biệt cặp từ ʺngười ‐ tôiʺ, ʺngười ấy – tôiʺ, ʺngười dưng‐ tôiʺ
là những cặp đại từ rất đặc trưng trong ca dao, vừa mang tính chất
truyền thống vừa rất hiện đại. Ngày nay thơ hiện đại vẫn tiếp thu, sử
dụng một cách ưu thế lối xưng hô này. Nó không cũ đi, không xói
mòn và giàu chất thơ, phù hợp với ca dao mà Xuân Diệu có lời bình
rằng ʺngười dưng mà chẳng thể dửng dưng đượcʺ:
Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này.
Cái hay của các đại từ này ở chỗ nó diễn tả mức độ quan hệ
chưa đủ độ chín để thân mật, nhưng cũng không hề xa cách lạnh
lùng. Cách xưng hô biểu hiện được tình cảm của người hát, chứa
đựng ẩn ý bên trong. Lại có những đại từ nhân xưng không câu nệ
vào hình thức mối quan hệ. Mối quan hệ của hai nhân vật ở câu ca
dưới đây chưa phải mối quan hệ phu ‐ thê nhưng tác giả vẫn xưng
hô ʺmình ‐ taʺ biểu hiện mức độ thân thiết, ý thức gắn bó keo sơn:
Cửa song loan sớm mở tối gài
Mình đứng trong than thở, tôi đứng ngoài thở than.
Ở một bài ca dao khác, nội dung nói về mối quan hệ đã từng keo
sơn, gắn bó mà sao lối xưng hô lại cầm chừng, mức độ: ʺbạn ‐ taʺ. Nó
phản ánh phần nào khoảng cách hiện tại giữa các nhân vật trữ tình:
Ớ bạn ơi, bạn có nhớ hồi khi mô
Dang tay ta gối cho bạn nằm
Nay chừ hai hàng châu lệ đầm đầm như mưa.
37
Đó là lối xưng hô độc đáo trong ca dao gợi cho người
nghe những liên tưởng phong phú.
So với thơ bác học, có lẽ chỉ ở ca dao mới có cách sử dụng đại từ
nhân xưng kèm theo các tình từ chỉ rõ tính chất đặc điểm đối tượng
được gọi: ʺngười thươngʺ, ʺngười ngoanʺ, ʺngười nghĩaʺ.
‐ Chiều nay người nghĩa xa anh
Chim sa cá lụy, kiểng đương canh vội tàn
‐ Bây giờ ước hỏi người ngoan
Em về thưa với thầy mẹ, anh muốn dan díu tình.
Dân ca Thái cũng có lối gọi rất đặc trưng như thế : ʺanh yêuʹ,
ʺem yêuʹ, ʺmẹ yêuʺ:
Em yêu đan vó nên hình chim công
Vá chài thành hình lượn con rồng
Người các phương mường muốn khóc
Đều ước ao được em yêu thêu khăn.
(dân ca Thái)
Trong ca dao, có những đại từ được danh từ hóa một cách tài
tình làm tăng chất thơ, chất nghệ thuật cho lời ca:
Bây giờ tôi mới gặp tình
Khác nào Kim Trọng thanh minh gặp Kiều.
III. Dấu ấn ₫ịa phương, dấu ấn vùng, miền qua từ nhân xưng trong ca dao
Nếu như cách gọi anh Cả, chị Hai, chị Ba, chị Tư, người ngoan,
đôi người... là cách gọi đặc sắc của dân ca quan họ hay rộng ra là đặc
trưng cho lối xưng hô nền nã, đằm thắm của dân ca vùng đồng bằng
Bắc Bộ:
Năm canh tưởng nhớ bạn hiền
Nhớ câu hò hẹn trăng nguyền cho cam
Chị Tư có yêu cho mượn khăn áo giữ màu.
38
- Xem thêm -