Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Nhập môn lý thuyết nhân học

.PDF
454
143
135

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. H ồ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VẤN BỘ MÔN NHÂN HỌC 게 L게 , / か办か Ш ^ デ lib i ら іЛ しỉ ^ • p MÔN LÝ THUYẾT NHÂN HỌC ROBERT LAYTON Đ ại h ọ c D urham Người dịch: ThS. P h a n Ngọc C hiến H iệu dinh: GS.TS Lương V ăn Hy NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC Q u ố c GIA TP. HỒ CHÍ MINH - 2007 TỦ SÁCH NHÂN HỌC NHẬP MÔN LÝ THUYET NHÂN HỌC Q u ỹ F o r d t ạ i V iệ t N am t à i trơ S u p p o r te d b y F o r d F o u n d a tio n AN INTRODUCTION TO THE THEORY IN ANTHROPOLOGY C opyright ® R o b ert L ayton 1997 F irst p u b lish ed 1997 R e p rin te d 1998 (twice), 2000 P u b lish e d by th e p re ss sy n d icate Of th e u n iv e rsity of C am bridge MỤC LỤC Trang Lời giới thiệu Ghi chú về nội dung quyển sách C h ư ơ n g I : Q u a n n iệ m v ề m ộ t hệ th ố n g xã h ộ i .................................1 Chưc/ng 2: Lý thuyết Chức năng............................................. 50 Chương 3: Lý thuyết cấu trúc................................................117 Chương 4: Các lý thuyết Tương tác....................................... 182 Chương 5: Nhân học Mác x ít................................................ 236 Chương 6: Sinh thái học xã h ộ i............................................. 290 Chương 7: Học thuyết Hậu hiện đại và ngành Nhân học ............................................................ 342 Tài liệu tham khảo................................................................ 404 LỜI GIỚI THIỆU Quyển sách của tác giả Robert Layton là một giáo trình nhập môn về lý thuyết nhân học. Tác giả đặt trọng tâm vào những lý thuyết nhân học từ thập kỷ 1930 cho đến nay. Tuy nhiên, tác giả cũng có trình bày về những lý thuyết cổ điển của Hobbes, Rousseau, và nhất là của Karl Marx và Emile Durkheim vốn ảnh hưởng nhiều đến lý thuyết nhân học. Tác giả cũng đã đưa ra nhiều thí dụ cụ thể để giúp sinh viên và người đọc hiểu rõ hơn những lý thuyết vốn trừu tượng. Tuy tôi không phải là người lựa chọn quyển sách này để dịch sang tiếng V iệt, tôi nhận xét quyển sách này cũng có một ưu thế so với một số quyển sách về lý thuyết nhân học khác là đã đề cập đến một vài lý thuyết hiện đại như lý thuyết trò chơi (game theory) và sinh học xã hội (sociobiology) vốn đã được một số các nhà nhân học áp dụng trong nghiên cứu của mình. Sinh học xã hội là một lý thuyết trong sinh học tiến hoá (evolutionary biology), được phát triển từ thập kỷ 1970 trở lại đây ở M ỹ, để giải thích hành vi xã hội của sinh vật (kể cả loài người). Lý thuyết trò chơi được phát triển từ thập kỷ 1940 để giải thích hành vi con người. Lý thuyết trò chơi đã có ảnh hưởng không những trong kinh tế học và nghiên cứu quan hệ quốc tế (kể cả chiến tranh) mà còn trong nhân học như Layton trình bày trong quyển sách. Theo đánh giá của tôi, thì tác giả Layton đã thành công trong việc cho thấy sự đa dạng của lý thuyết nhân học trong ba phần tư thế kỷ qua. Vì tác giả là một nhà nhân học người Anh, nghiên cứu sâu về nhân học nghệ thuật và tổ chức xã hội của thổ dân Úc, nên quyển sách này cũng không tránh khỏi một số giới hạn nhất định, về quy mô của quyển sách, ngoại trừ phần về nhân học tri thức, tác giả Layton đã không trình bày gì nhiều về nhân học văn hoá vốn phát triển mạnh ở M ỹ cũng như ảnh hưởng của Max Weber đến sư phát triển của nhân học văn hoá ở M ỹ. M ột phân ngành của nhân học văn hoá là nhân học tâm lý cũng cơ bản đã bị bỏ quên, vì nhân học tâm lý phát triển mạnh ở M ỹ mà không phát triển gì trong nhân học ở Anh. Trong việc dùng thí dụ để minh hoạ lý thuyết, tác giả Layton đã đưa nhiều thí dụ liên quan đến tổ chức xã hội của các xã hội tương đối đơn giản, đặc biệt là ở những cựu thuộc địa của Anh ở Úc và Phi châu, vì ông chuyên về thổ dân ú c. Cụ thể hơn, trong chương về cấu trúc luận (structuralism), tác giả đã không chú trọng nhiều đến những ứng dụng cấu trúc luận vào việc phân tích biểu tượng và hành vi con người trong những xã hội phức tạp và hiện đại (như trong việc phân tích tổ chức xã hội ở các xã hội nông nghiệp phức tạp ở châu Á hay xã bội công nghiệp hiện nay, hoặc trong việc phân tích hành vi tiêu thụ, lãnh vực quảng cáo trong nền kinh tế thị trường trong giai đoạn toàn cầu hoá). Vì thế, sinh viên và người đọc V iệ t Nam, không biết nhiều về thổ dân úc hay các bộ tộc châu Phi, có thể gặp khó khăn trong việc thấy rõ tầm quan trọng của lý thuyết nhân học trong việc phân tích văn hoá xã hội kinh tế hay hành vi con người trong một xã hội nông nghiệp hay đang công nghiệp hoá như ở V iệt Nam. Những giới hạn này của quyển sách đòi hỏi người giảng dạy lý thuyết nhân học phải bổ xung thêm mảng lý thuyết nhân học văn hoá chịu ảnh hưởng của Weber và phải đưa ra thêm nhiều thí dụ về những xã hội nông nghiệp hay công nghiệp ở châu Á, châu Âu, và châu Mỹ, để giúp sinh viên thấy rõ về tầm quan trọng của lý thuyết nhân học trong việc soi sáng những vấn đề văn hoá, xã hội, kinh tế, những vấn đề phát triển, và hành vi con người ngay trong cả giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay. Lương Văn Hy (Hy V. Luong) Giáo sư Tiến sĩ Trưởng khoa nhân học Đại học Toronto, Canada. GHI CHÚ VỀ NỘI DUNG QUYEN sá c h Cuốn sách này không nhằm mục đích cung cấp một lịch sử toàn diện về các luồng tư tưởng trong nhân học. Cuốn sách được viết với sự quan tâm đến những tranh luận đang diễn ra và tập trung vào việc phân tích các lý thuyết đã ảnh hưởng đến ngành nhân học như thế nào hơn là truy tầm lịch sử của các lý thuyết một cách đầy đủ. Sự ứng dụng của từng lý thuyết được minh họa bằng cách cho thấy chúng đã giúp giải thích những quá trình xã hội và văn hóa trong các dân tộc nhất định như thế nào. Lúc nào có thể được, tôi đã tìm cách đưa vào những giải thích bổ sung hay cạnh tranh nhau của các lý thuyết khác nhau về cùng những trường hợp dân tộc học giong nhau. Tôi cho rằng hiện nay các lý thuyết quan trọng nhất là Sinh thái học xã hội và học thuyết Hậu hiện đại và khi chọn những lý thuyết trước đây để đem ra thảo luận, tôi đã chú ý đến những đóng góp của chúng vào việc hình thành nên các tranh luận lý thuyết hiện nay. Lý thuyết Khuếch tán (Diffusionism) không được cuốn sách này đề cập đến, và quan điểm cho tiến hóa là tiến bộ chắc hẳn đã không được bàn đến một cách đúng mức. Ngay cả trong những lãnh vực lý thuyết được đem ra xem xét, nhiều tác giả và tác phẩm quan trọng đã không được đề cập đến. Khi đọc lại những nguồn tài liệu được đem ra thảo luận, tôi luôn luôn nhận thấy rằng chúng chứa đựng những ý tưởng phong phú hơn nhiều và không có nguồn tài liệu thứ cấp nào có thể lột tả hết được. Cuốn sách này nhắm mục đích định hướng cho người đọc tìm đến những tác phẩm gốc, chứ không nhắm đến việc thay thế những tác phẩm đó. Những người phản biện khuyết danh của nhà xuất bản đã cung cấp nhiều lời nhận xét và gợi ý có ích, nhờ đó nội dung cuối cùng của cuốn sách này đã được tốt hơn. Chương 1 QUAN NIỆM VỀ MỘT HỆ THốNG XÃ HỘI Nhân học nghiên cứu về con người; nhân học xã hội nghiên cứu về xã hội con người. Có thể miêu tả nhân học xã hội là “ xã hội học đối chiếu” ; đó là sự nghiên cứu về rất nhiều xã hội con người khác nhau để phát triển những lý thuyết tổng quát về sự vận hành của xã hội. Cụ thể hơn, nhân học xã hội thường được xem là nghiên cứu về những xã hội “ có quy mô nhỏ, , , mà sự đơn giản tương đối của chúng làm cho việc nghiên cứu dễ được toàn diện hơn. Cũng có thể xem nhân học xã hội là sự “ chuyển dịch văn hóa, , ; khoác ý nghĩa cho những tập tục có vẻ kỳ lạ của các dân tộc xa lạ. Vào khoảng nãm 450 trước công nguyên, nhà sử học Hy Lạp Herodotus viết một bài tường thuật về những biến cố rốt cuộc đã dẫn đến việc người Hy Lạp đánh bại người Ba Tư một thế hệ trước đó. Ý tưởng của Herodotus là sự thất bại của người Ba Tư không phải chỉ đơn thuần do việc làm của những nhân vật v ĩ đại tạo nên, cũng không phải từ ý muốn của các thần linh. Herodotus giải thích sự thất bại của người Ba Tư là hậu quả của sự xung đột giữa các nền văn hóa xa lạ. Điều này biện minh cho việc ông ghi 1 chép về những nền văn hóa chung quanh người Hy Lạp cổ và, để củng cố cho lập luận của mình, ông cung cấp những tường thuật chi tiết về các xã hội đương thời rất khác với xã hội của chính ông, truy nguyên lịch sử sự tiếp xúc của chúng với đế quốc Ba Tư. Vì vậy, ông được xem như cha đẻ của ngành nhân học (Gould 1989: 1). Herodotus miêu tả một thế giới cổ đại rất mực đa dạng văn hóa, trong đó những giá trị quen thuộc thường được xem xét lại bởi vì người ta gặp những điều bất ngờ hay lạ lùng. Người Scythia, sống ở phía bắc Hắc Hải, là một dân tộc không thể bị đánh bại do nếp sống du cư của họ. Một dân tộc không có những đô thị với thành quách bảo vệ và sống trong những chiếc xe ngựa mà họ mang theo bất cứ nơi nào họ đến, đánh nhau trên lưng ngựa và sống nhờ vào gia súc lớn thay vì đồng ruộng, là một dân tộc không bao giờ có thể bị đánh bại. Không có cây cối trên lãnh thổ của người Scythia và khi giết một con bò, họ đốt xương của nó để nướng thịt. Ngay khi bị người Cyrus xâm chiếm lãnh thổ, người Scythia tiếp tục di chuyển. Vào một lần duy nhất khi quân đội Ba Tư và Scythia chạm trán nhau, người Scythia bị một con thỏ rừng nhảy ra từ đám cỏ giữa hai đội quân làm phân tâm. Người Scythia biểu lộ thái độ coi thường đối với người Ba tư bằng cách cho ngựa phi nước đại đuổi theo con thỏ (Herodotus 1954: 286 ff.). Một ví dụ hay khác minh họa kỹ thuật của Herodotus là tình tiết liên quan đến việc Cambyses gửi phái viên đến nhóm người mà Herodotus cho biết là người Ethiopia. Vua Ba 2 Tư gửi đại diện của ông đến dò xét tình hình để chuẩn bị cho việc chinh phục, nhưng chỉ thị cho họ phải làm ra vẻ thân thiện. Với hy vọng làm cho người Ethiopia kính nể sự tinh tế của mình, các sứ giả dâng cho vua Ethiopia nhiều món quà khác nhau, gồm cả vải nhuộm và rượu vang. Họ ngạc nhiên khi ông vua chê nhuộm là lừa gạt, cố ý làm cho sự vật trông khác với bản chất thật của chúng. Mặc dù thích mùi vị của rượu vang, ông vua chế giễu ví đồ ăn của Ba Tư là “ phân” ,nói rằng họ phải cần đến rượu vang để sống đến tuổi già với một chế độ ăn uống như vậy. Ông nói người Ethiopia sống đến 120 tuổi bằng cách uống sữa và ăn thịt luộc. Cambyses nổi giận khi nghe câu trả lời của ông vua nhưng, không có gì ngạc nhiên, cuộc xâm lăng sau đó của người Ba Tư là một thất bại (Herodotus 1954: 211-12). Nhà sử học La Mã Tacitus đã dùng những kỹ thuật tương tự trong tường thuật của ông về các bộ lạc Đức sống ở rìa đế quốc La Mã vào khoảng năm 100 sau công nguyên. Tacitus, ít ái quốc hơn Herodotus, có ý làm tương phản cuộc sống thành thật, đơn sơ của người Đức với cuộc sống buông thả suy đồi ở Rome. Ông cũng muốn đánh giá đe dọa quân sự của người Đức đối với đế quốc La Mã bằng cách điều tra hình thức xã hội Đức. Người Đức có sẩn những dải đất canh tác rộng và mỗi cộng đồng hàng năm phân phối đất canh tác mới cho từng hộ gia đình. Nền dân chủ địa phương của Đức được thực hiện theo cách rất khác với Nghị Viện La Mã: “ Khi đám đông hội họp nghĩ 3 là đúng, họ ngồi xuống với vũ khí của họ. Nếu không vừa lòng với một đề nghị, họ la ó phản đối; nếu đồng ý, họ lấy giáo mác chạm vào nhau.” Người ta có thể bắt gặp trong nhà của họ những chiếc lọ bằng bạc đem dâng cho các thủ lĩnh và các sứ giả khi họ ra nước ngoài, mà họ sử dụng hàng ngày giông như các đồ bằng đất nung (Tacitus 1985: 104,110, 123). Dân tộc chí, hay “ tác phẩm về các dân tộc , ,là truyền thống miêu tả trong nhân học. M iêu tả đầy đủ là điều không thể có được. Dù có ý thức hay không, những ý tưởng và giả định của chúng ta làm cho chúng ta chú ý đến một số khía cạnh trong đời sống xã hội của các dân tộc, nhưng lại bỏ qua các khía cạnh khác. Cả Tacitus và Herodotus đều không vô tư đối với đối tượng của họ. Cả hai đều làm công việc ghi nhận những nền văn hóa xa lạ để hỗ trợ cho một lập luận, nhưng chứng cứ khảo cổ học đã xác nhận một số điều họ viết, như tập tục chôn cất phức tạp của người Scythia và hệ thống nông nghiệp và tổ chức làng của các dân tộc Géc-manh (Herodotus 1954: 294n.; Hedeager 1992: 205, 230, 250). Lý thuyết hướng sự chú ý của chúng ta đến những đặc điểm nhất định của hành vi xã hội, và gợi ý về mối liên hệ giữa những điều chúng ta quan sát và nghe thấy. Những lý thuyết tiến hóa theo quan điểm xã hội tiến bộ qua thời gian, đã thống trị các khoa học về xã hội trong thế kỷ 19, khuyến khích một cái nhìn bao quát đến những sự đa dạng văn hóa, trong khi những lý thuyết tương tác khuyến khích tập trung vào 4 những chi tiết của hành động cá nhân. M ột số lý thuyết từ những lý thuyết không còn phù hợp nữa. Chẳng hạn, Sinh thái học xã hội thay thế học thuyết Chức năng trong việc giải thích những mối liên hệ giữa các tập tục. Trong những trường hợp khác, các lý thuyết tương phản nhau: Học thuyết Marx giải thích đời sống xã hội bằng những điều kiện vật chất của nó; học thuyết cấu trúc giải thích đời sống xã hội như là hệ quả của ý tưởng và giá trị. Liệu có những quy luật tổng quát giải thích đời sống xã hội hay không, hay liệu mọi xã hội phải được hiểu theo những điều kiện riêng của chính nó, vẫn còn là một vấn đề sôi nổi trong nhân học. Lý thuyết không phải là những suy đoán vẩn vơ. Bất cứ nơi nào lý thuyết hướng dẫn hành động cụ thể, chủng có những hệ quả về chính trị. Nhiều lý thuyết được phác họa trong sách này bắt nguồn từ nỗ lực tìm hiểu chính điều kiện xã hội của tác giả, và đặt nó trong bối cảnh những lối sống khác có vẻ xa lạ. Đặt những vấn đề hiện đại Những vấn đề làm bận tâm nhân học xã hội trong thời gian gần đây hơi khác với những vấn đề mà Herodotus và Tacitus quan tâm. Chúng được nêu lên lần đầu tiên trong thời đại Anh sáng. Các lý thuyết tìm cách giải quyết những vấn đề này được đề ra cùng thời gian đó. Cho đến thế kỷ 17 và 18, người ta tin rằng vua chúa ở châu Au cai tri bằng quyền hành Thượng đế ban cho, và xã hội loài người được cho là tái hiện ở một cấp độ thấp hơn xã hội linh thiêng của Chúa. Những giả định này đã 5 bị đặt thành vấn đề trong thời đại Anh sậng (xem Watson 1991). M ột khi người ta nghĩ mình có tự do quyết định cho mình thế nào là hành vi xã hội thích hợp hay không thích hợp theo quy luật tự nhiên thay vì quy luật linh thiêng, thì có thể đặt ra những câu hỏi là xã hội thực tế có thể được cải thiện như thế nào, và những xã hội hiện tại đã phân rẽ thế nào từ tình trạng nhân sinh tự nhiên hay ban đầu. cả những xã hội loài người ở châu Au trong quá khứ và những xã hội xa lạ hơn nhưng vẫn còn tồn tại được xem là nguồn thông tin có thể giúp trả lời những câu hỏi này. Sức mạnh của chứng cứ và những kỹ thuật thẩm định nó thì kém xa những điều tìm thấy trong công trình của Herodotus và Tacitus (so sánh với Trigger 1989: 55-60). Trong những năm dẫn đến cuộc Nội chiến ở Anh Quốc, * những người ủng hộ Quốc hội chống đối tuyên bố của nhà vua về sự cai trị bằng Quyền linh thiêng đã dựa trên bài tường thuật của Tacitus về nền dân chủ Đức thời cổ đại. Họ lập luận rằng những tập tục này đã được người Anglo-Saxon mang đến nước Anh và truyền qua lịch sử đến thời đại của họ qua luật thông tục. Những người bảo hoàng lập luận ngược lại rằng luật thông tục hiện hành đã được Nhà chinh phục W illiam mang đến nước Anh, dập tắt mọi sự tự do có thể đã tồn tại trước đó. Trong khi phần lớn những người tham gia vào cuộc tranh luận giả định rằng xã hội Đức về mặt lịch sử là một xã hội độc đáo, * Đây là cuộc nội chiến 1642-1649 ở Anh, bắt nguồn từ mầu thuẫn giữa Quốc hội và nhà vua Stuart (người hiệu đính). 6
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan