1
Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục
mở đầu
1. ý nghĩa của đề tài
1.1. Ý nghĩa khoa học
Trong lịch sử Văn học Việt Nam, đặc biệt là trong văn xuôi tự sự Việt
Nam thời trung đại, có một tác giả mà cho tới nay chóng ta biết được chỉ có
duy nhất một tác phẩm nhưng đấy lại là một tác phẩm vô cùng đặc sắc. Tên
tác phẩm thật khiêm tốn: Truyền kỳ mạn lục (ghi chép một cách ngẫu hứng
những truyện lạ được lưu truyền) nhưng từ khi ra đời đến nay, nó đã từng
làm hao tổn tâm trí và giấy mực của nhiều thế hệ. Từ các bậc túc Nho thời
xưa cho đến các nhà nghiên cứu văn học thời hiện đại đều đánh giá cao và
coi tác phẩm là một biểu hiện vinh dù cho nền văn học nước nhà. Đặc biệt ở
thế kỷ XVIII, một thế kỷ rực rỡ nhất của văn học trung đại, các học giả nổi
tiếng như Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đã từng ca ngợi
Truyền kỳ mạn lục là một thiên cổ kỳ bút, áng văn hay của bậc đại gia với
lời lẽ thanh tao tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen.
Vì vậy, nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục là việc làm có ý nghĩa nhằm
khám phá đầy đủ hơn giá trị của tác phẩm.
Truyền kỳ mạn lục không chỉ là mối quan tâm của người Việt Nam
mà còn là một tác phẩm văn học được sự quan tâm của giới nghiên cứu văn
học trên thế giới. Ngay từ những năm sáu mươi, tác phẩm đã được dịch ra
tiếng Nga, các nhà nghiên cứu Xô-viết khi nghiên cứu văn học phương
Đông thường chú ý tới Truyền kỳ mạn lục [43, tr.114]
Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một trong những
đỉnh cao của văn học Việt Nam trung đại, càng ngày càng trở thành mối
quan tâm của các nhà nghiên cứu, càng chiếm được cảm tình của bạn đọc.
2
Càng ngày, người ta càng phát hiện và khẳng định vị trí vai trò của tác
phẩm bởi nó ra đời đã đánh dấu sự trưởng thành của truyện ngắn Việt Nam
trung đại, đánh dấu sự chuyển biến từ văn xuôi mang nặng tính chức năng
sang văn xuôi giàu tính nghệ thuật. Mặc dù, tác giả đã khai thác những đề
tài dân tộc, chú ý đến những truyền thuyết dân gian nhưng tác giả đã thực
sự vươn lên trên cách ghi chép của lối biên soạn truyện cổ [27, tr.54].Tác
phẩm biểu hiện một xu hướng thoát dần khỏi ảnh hưởng thụ động của văn
học dân gian và văn xuôi lịch sử để bước sang mét giai đoạn mới, giai đoạn
của văn xuôi tự sự, của truyện ngắn nghệ thuật.
Vì vậy, nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục giúp ta soi rọi vào việc tìm
hiểu loại hình truyện ngắn trung đại Việt Nam.
Sở dĩ Truyền kỳ mạn lục được đánh giá cao, được quan tâm như vậy
là vì: mặc dù viết theo thể loại truyền kỳ, một loại hình văn học dùng hình
thức kỳ ảo làm phương tiện nghệ thuật nhưng tác phẩm đã mô tả khá phong
phú về hiện thực cuộc sống một giai đoạn lịch sử mang màu sắc bi kịch của
dân tộc Việt Nam thế kỷ XVI. Sau cái vỏ hình thức kỳ ảo là những vấn đề
có ý nghĩa xã hội to lớn được thông qua số phận các nhân vật trong truyện.
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề của xã
hội, trong đó nổi bật là vấn đề người phụ nữ. Lần đầu tiên trong văn học
Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ đã xuất hiện như thế ở Truyền kỳ mạn
lục, với cả diện mạo, tâm tư, tình cảm, nhu cầu và khát vọng, với số phận
của mình. [43, tr.118-119]
Người phụ nữ, số phận của họ, những tâm tư, khát vọng … của họ đã
được phản ánh nhiều trong văn học Việt Nam trung đại và hầu hết các nhà
văn đều cho thấy người phụ nữ là nạn nhân của xã hội. Nhưng nhìn nhận
vấn đề, lí giải vấn đề về số phận của người phụ nữ sớm nhất và theo một
cách nhìn đa chiều thì có lẽ chỉ có trong sáng tác của Nguyễn Dữ. Truyền
kỳ mạn lục là một tác phẩm có tác động lớn đến sự phát triển của văn học
3
Việt Nam trung đại trên nhiều phương diện, đặc biệt là vấn đề số phận con
người, nhất là người phụ nữ.
Vì vậy, nghiên cứu số phận người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục là
một công việc rất cần thiết và rất có ý nghĩa. Nó giúp chúng ta có cái nhìn
toàn diện hơn về số phận người phụ nữ, tiếp cận vào đúng yếu tố cốt lõi của
tác phẩm, từ đó có thể có được cách lí giải những vấn đề khác một cách
đúng đắn về tác giả cũng như về di sản văn học quý giá này.
1.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với tư cách là một tác phẩm được xếp vào loại đỉnh cao của văn xuôi
tự sự Việt Nam thời trung đại, Truyền kỳ mạn lục đã được tuyển chọn để
giảng dạy ở nhiều cấp học (Chuyện người con gái Nam Xương được học ở
lớp 9, Chức phán sự ở đền Tản Viên được học ở lớp 10, tác phẩm được giới
thiệu trọn vẹn ở ngành văn các trường đại học và cao đẳng). Đây là tác
phẩm đã tạo được nhiều hứng thú cho cả người dạy và người học nhưng
cũng là một tác phẩm không dễ dàng chiếm lĩnh và cần phải được tiếp tục
khám phá.
Bởi vậy, nghiên cứu vấn đề đã nêu là một điều cần thiết và rất hữu
Ých cho người viết để hiểu sâu hơn và giảng dạy đạt hiệu quả tốt hơn.
2. nhiệm vụ của đề tài:
Trên cơ sở ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn và những vấn đề liên
quan đến Truyền kỳ mạn lục, chúng tôi nghiên cứu cụ thể từng số phận nhân
vật phụ nữ nhằm đi tới những kết luận khoa học về số phận người phụ nữ
trong tác phẩm. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần năng cao hiệu quả trong
giảng dạy và học tập về Nguyễn Dữ nói riêng, về loại hình truyện ngắn
trung đại Việt Nam nói chung.
3. Lịch sử vấn đề:
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm lớn mà ngay từ khi ra đời đã được
đánh giá cao, được nhiều học giả nổi tiếng quan tâm. Nhiều vấn đề trong
4
Truyền kỳ mạn lục là đối tượng, là đề tài của các công trình nghiên cứu xưa
nay và không phải chỉ còn ở trong nước mà còn ở ngoài nước. Từ nhiều góc
độ, đã có những công trình, bài viết có liên quan đến vấn đề mà đÒ tài của
chúng tôi đặt ra. Chúng tôi xin được lược dẫn về những công trình, những
bài viết có liên quan trực tiếp đến đề tài:
3. 1. Trước thế kỉ XX
3.1.1. Lời đề tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định
sơ niên 1547:
- “Tập lục này là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng
Châu. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được
bổ làm tri huyện Thanh Tuyền. Mới được một năm ông cáo quan về nuôi
mẹ, thế rồi viết ra tập lục này để ngụ ý.”[ 8, tr. 204]
- “Xem lời văn thì Truyền kỳ mạn lục không vượt khỏi phên dậu của
Tông Cát, nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc
giáo hoá ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu”[ 8, tr.204].
Đây có lẽ là ý kiến đánh giá sớm nhất về tác phẩm, Hà Thiện Hán chủ
yếu khẳng định mục đích sáng tác Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là để
nhắc nhở khuyên răn, liên quan đến việc dạy đời và tác phẩm là một cuốn
sách có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
3.1.2. Các học giả của thế kỉ XVIII – XIX, khi đánh giá về Truyền kỳ mạn
lục thường thiên về ngợi khen nghệ thuật của tác phẩm:
- Ôn Như hầu Vũ Khâm Lân (1702 - ?) trong Bạch Vân am cư sĩ phả
kí coi Truyền kỳ mạn lục là một “thiên cổ kì bút”.
- Lê Quý Đôn (1726 – 1784)trong Kiến văn tiểu lục đánh giá văn
chương Truyền kỳ mạn lục là “lời lẽ thanh tao tốt đẹp, người bấy giờ lấy
làm ngợi khen”
- Phan Huy Chó (1782 – 1840) thì khen rằng, Truyền kỳ mạn lục “là
áng văn hay của bậc đại gia”.
5
Như vậy, các học giả thế kỉ XVIII – XIX, đã chú ý nhiều tới mặt văn
phong, tới nghệ thuật ngôn từ nhưng chưa thực sự chú ý một cách thích
đáng tới vấn đề số phận con người nhất là người phụ nữ.
3.2. Thế kỉ thứ XX
Vào thế kỉ XX, Truyền kỳ mạn lục đã tiếp tục được khảo cứu trên
nhiều phương diện cả về nội dung và nghệ thuật. Ngoài một số công trình
nghiên cứu chủ yếu về nghệ thuật viết truyện ngắn, về thể loại của tác phẩm
như của Nguyễn Văn Dân ( Loại hình văn xuôi huyễn tưởng – Tạp chí văn
học số 5. 1984), Nguyễn Hữu Sơn ( Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỉ XVI
– các bước nối tiếp và phát triển, Tạp chí văn học sè 5,6 - 1988) còn có khá
nhiều các bài viết trong đó đáng lưu ý là các bài viết của Bùi Duy Tân
(Truyền kỳ mạn lục một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán
– Văn học Việt Nam – Nhà xuất bản Giáo dục, 2001), Lại Văn Hùng ( Bàn
luận thêm về vấn đề tác giả- tác phẩm Truyền kỳ mạn lục – Tạp chí văn học
số 10 - 2002 ), Vò Thanh ( Những biến đổi của những yếu tố kỳ và thực
trong truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam – Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn
học), Nguyễn Phạm Hùng ( Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ - Tạp chí văn học số 7- 1987)).
Chúng tôi xin trình bày một số tài liệu liên quan trực tiếp đến đề tài
và nêu rõ ý kiến như sau:
3.2.1. Lời giới thiệu Truyền kỳ mạn lục của Bùi Kỷ (được Trúc Khê Ngô
Văn Triện dịch ra quốc ngữ in năm 1941):
- Về nghệ thuật, cụ Bùi Kỷ viết: “Nguyễn Dữ học rất rộng, lại có tài
viết văn dùng nhiều điển tích. Lối viết nào cũng hay, về phần uyên bác có
thể ngang với Bồ Tùng Linh, về phần vận dụng các văn thể vượt hơn Đặng
Trần Côn…”
- Về nội dung, cô cho rằng Truyền kỳ mạn lục đã đề cập đến vấn đề
người phụ nữ và xác định:
6
+ Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Người con gái Nam Xương
có chủ đề: Tả rõ phụ nữ ở xã hội cũ dù ăn ở thuỷ chung với chồng thế nào
cũng chịu một thân phận hèn kém: Một đằng vì thua bạc mà gán vợ, một
đằng vì ngờ vực hão huyền mà vợ phải quyên sinh. Đáng giận thay! Cái
thuyết “tòng phu” đã làm hại bao nhiêu bạn quần thoa trong bao nhiêu thế
kỷ! [7, tr.10].
+ Truyện đối tụng ở Long cung, có chủ đề: “bài xích quỷ thần, quỷ
thần mà lại cướp vợ người khác” [7, tr.10]
+ Truyện Từ Thức lấy vợ tiên có chủ đề: “ Cõi trần đáng chán làm
sao, để cho người đời phải tưởng tượng ra một cõi tiên chăng?” [7, tr.10]
+ Các Truyện Nàng Thuý Tiêu và Lệ Nương có chủ đề: “ tả nông nỗi
luân lạc của người phụ nữ, một đằng vì tên cường quyền chiếm đoạt làm rẽ
thuý chia uyên, một đằng vì bọn ngoại xâm áp bức, làm cho bình rơi trâm
gãy, nhưng Thuý Tiêu lại trở về được với Nhuận Chi, Lệ Nương cam chịu
quyên sinh để trọn nghĩa với Phật Sinh, càng rõ ái tình chân chính không
có thế lực nào khuất phục được”[7, tr.10]
+ Truyện Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa có chủ đề: “ …xem như
hai câu thơ nói đùa Kim Hoa nữ sĩ làm cho bà phải mang hận đến suối
vàng…” [7, tr.10]
+ Truyện Cây gạo, Kỳ ngộ ở Trại Tây và Yêu quái ở Xương Giang có
chủ đề: “ bài xích thói đắm đuối trong vòng tình dục của bọn thiếu niên” [7,
tr.10]
+ Truyện Nghiệp oan của Đào Thị: “ vạch trần những hành động bất
bình của bọn đội lốt thầy tu” [7, tr.10]
( Chữ Truyện là chúng tôi dùng theo nguyên bản của Bùi Kỷ)
3.2.2. Bộ sách Lịch sử văn học Việt Nam, tập II (sách Đại học Sư phạmNXB Giáo dục-1978) viết:
“ Nguyễn Dữ cũng đã Ýt nhiều nói lên được đời sống cơ cực của
7
nhân dân, đặc biệt, tác giả đã chú ý đến đời sống tình cảm của những con
người nhỏ bé…nhất là người phụ nữ bình dân …”
Tác giả của bộ sách này đã khẳng định số phận người phụ nữ bị đày
đoạ vì loạn li, điêu đứng vì thế lực cường quyền nhưng chủ yếu là người
phụ nữ bình dân. Ngoài yếu tố Êy, theo tác giả thì đồng tiền cũng là một thế
lực gây lên nỗi thống khổ cho người phụ nữ. Ý kiến này theo chúng tôi cần
được nghiên cứu thêm.
3.2.3 Bộ sách Văn học Việt Nam (NXB Giáo dục, 2001) viết:
Truyền kỳ mạn lục có nhiều truyện miêu tả tình yêu nam nữ, hạnh
phúc gia đình trong hoàn cảnh khó khăn và đầy biến động của xã hội phong
kiến. Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Truyện người con gái Nam
Xương phản ánh tình trạng đáng thương của người phụ nữ trong xã hội cũ:
đảm đang, tình nghĩa mà vẫn phải chịu số phận oan nghiệt…Truyện Lệ
Nương là bi kịch về mối tình chung thuỷ trong cảnh đất nước bị ngoai xâm.
Các Truyện nghiệp oan của Đào thị, Nàng Thuý Tiêu, Cây gạo, Kì ngộ ở
Trại Tây thì lại miêu tả những mối tình trái với đạo lí Nho gia [33, tr.518]
Tuy nhiên các tác giả lại cho rằng Nguyễn Dữ đã táo bạo và phóng
túng khi thể hiện quan hệ yêu đương không lành mạnh giữa TrìnhTrung
Ngộ và Nhị Khanh trong Truyện cây gạo, giữa Hà Nhân và hai nàng Đào,
Liễu trong Truyện kì ngộ ở trại Tây và kết luận “ đối với truyện này
Nguyễn Dữ đã có lời phê bình để phê phán những quan niệm đồi truỵ và
khẳng định lại những giáo điều về “đức hạnh tiết nghĩa” và bình luận thêm
“tuy thông cảm với khát vọng yêu đương của con người nhưng quan điểm
chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo. Điều đó phản ánh thái độ
đầy mâu thuẫn trong tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Dữ.” [33, tr.519]
(Chữ trại Tây là chúng tôi sử dụng theo nguyên bản của Bùi Văn Nguyên)
Với ý kiến này chúng tôi thấy:
- Các tác giả chỉ trình bày sơ lược về số phận người phụ nữ và cho
8
rằng Nguyễn Dữ đã viết về tình yêu “ xuất phát từ thái độ bảo thủ của Nho
giáo”
- Nếu Nguyễn Dữ đã “ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ cứng
nhắc của lễ giáo…”, “táo bạo và phóng túng khi thể hiện quan hệ yêu
đương”, “ có phần thương cảm với những khát vọng hạnh phúc chính đáng
khi miêu tả những cặp trai gái công nhiên yêu nhau…” mà vẫn là người “có
thái độ bảo thủ của nho giáo”, vẫn là người “bảo vệ lễ giáo” thì đây là một ý
kiến đôi chỗ còn chưa nhất quán. Ý kiến này gợi ý cho chúng tôi một hướng
tư duy: Phải chăng Nguyễn Dữ muốn nói rằng người phụ nữ thời Êy chỉ có
thể có Ýt nhiều hạnh phúc khi không tuân theo nguyên tắc của lễ giáo phong
kiến.
3.2.4. Luận án Phó tiến sĩ khoa học Sự phát triển văn xuôi Hán – Việt từ
thế kỉ X đến cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX của phó tiến sĩ Nguyễn Đăng
Na (bảo vệ năm 1987) đã đặc biệt chú ý tới nhân vật phụ nữ và số phận của
họ trong Truyền kỳ mạn lục. Tác giả luận án đã rót ra một kết luận rất thích
đáng: dù sống theo kiểu nào thì người phụ nữ cũng bất hạnh, cái chết
oan khốc là kết cục cuộc đời của hầu hết các phụ nữ.
Ý kiến trên là một gợi ý mang tính quyết định cho chúng tôi nghiên
cứu đề tài này.
3.2.5. Bài viết “Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ”(Tạp chí văn học số 7- 1987) của tác giả Nguyễn Phạm
Hùng là bài viết được chúng tôi rất quan tâm. Theo tác giả, Truyền kỳ mạn
lục là một tác phẩm đã đặt ra “vấn đề người phụ nữ”. Chúng tôi tán đồng ý
kiến của tác giả khi nhận xét:
“Niềm khát khao hạnh phúc gia đình là chủ đề chính của nhiều
truyện. Mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc đó với các thế lực tàn bạo của
xã hội chính là hạt nhân nghệ thuật của những truyện này. Người phụ nữ,
hoặc vì chiến tranh phong kiến tàn khốc mà phải chịu thiệt thòi, khổ sở
9
(Truyện Lệ Nương) ; hoặc vì kẻ quyền thế độc ác, xảo trá mà phải chịu cảnh
“rẽ thuý chia uyên” ( Truyện nàng Thuý Tiêu); hoặc vì nam quyền phong
kiến mà phải chịu cảnh chia lìa …Những khao khát hạnh phúc chân chính
của người phụ nữ thường dẫn họ đến chỗ chết, và thường là tự vẫn”.
Tựu trung, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, người phụ nữ đã
xuất hiện rầm rộ như thế ở Truyền kỳ mạn mạn lục, với cả diện mạo tâm
hồn, tình cảm, nhu cầu và khát vọng, với số phận của mình. Đó là những
con người vốn xuất thân rất bình thường, có khi tầm thường, như kĩ nữ, tì
thiếp …nhưng lại mang những phẩm chất rất đáng trân trọng, ngợi ca. Nếu
như trước đây, hình ảnh người phụ nữ quí tộc có đi vào sáng tác của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Húc v.v …thì thường cũng mới chỉ dừng lại ở sự
nhận thức trên bình độ tâm lí, còn ở đây, là một đối tượng nhận thức, đối
tượng thẩm mĩ trọn vẹn, thành vấn đề người phụ nữ trong văn học – với
những nhân vật trung tâm là phụ nữ. Sáng tác của Nguyễn Dữ được xem là
mở đầu cho khuynh hướng phản ánh này để rồi những thế hệ nghệ sĩ kế tiếp
sau tiếp tục phát triển nó, tạo nên những thành tựu rực rỡ với những tên tuổi
chói lọi như Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Phạm Thái, v.v …
Chính vì thế, khuynh hướng tư tưởng chủ đạo của Truyền kỳ mạn lục
đâu phải là đề cao chí khí nhà nho hay đạo đức phong kiến mà chính là ở chỗ
đấu tranh cho con người, cho quyền sống của con người, vì con người (nhất
là phụ nữ ), mang tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Và đương nhiên, tác giả
chống lại những gì bất công, tàn bạo, trái với con người, trái với tinh thần
dân chủ mà thời đại cho phép. Đó chính là khuynh hướng tư tưởng của
những nhà văn lớn của giai đoạn này, đang hoà nhập vào một trào lưu rộng
lớn trong suốt nhiều thế kỉ – trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa. [30,
tr.118]
Ý kiến trên là gợi ý xác đáng cho chúng tôi tìm hiểu về số phận người
10
phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục.
3.2.6. Luận văn thạc sĩ của Kim Seona (1995) có liên quan đến nhân vật
phụ nữ nhưng mục đích của luận văn là chứng minh sự phát triển của thể
loại truyền kỳ và so sánh hình tượng phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ với những tác phẩm cùng thể loại.
3.2.7. Một kết quả nghiên cứu mà chúng tôi rất chú ý là luận văn thạc sĩ của
học viên Nguyễn Thị Dương (Đại học Sư phạm Hà Nội 1996) đã nghiên
cứu về “Số phận người phụ nữ và các phương thức thể hiện số phận Êy
trong Truyền kỳ mạn lục” (do PGS.TS Nguyễn Đăng Na hướng dẫn). Đây
là một công trình nghiên cứu rõ nét về số phận người phụ nữ. Tác giả đã
chia số phận người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục thành hai nhóm: nhóm
thứ nhất là những số phận may mắn, nhóm thứ hai là những số phận rủi ro
(cách phân chia này còn có những điểm khiến tôi băn khoăn, xin được trình
bày ở dịp khác).
Do mục đích của đề tài, tác giả Nguyễn Thị Dương đã dành 26 trang
cho việc trình bày số phận người phụ nữ và 35 trang cho việc trình bày các
phương thức thể hiện số phận Êy. Với một bố cục như vậy, luận văn thiên
về nghiên cứu các phương thức biểu hiện hơn là nghiên cứu các số phận
người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể, các học giả, các công trình nghiên
cứu đã có những nhận xét tương đối thống nhất về số phận bi kịch của
người phụ nữ được phản ánh trong Truyền kỳ mạn lục. Tuy nhiên, do những
mục đích khác nhau mà các tác giả, các công trình nghiên cứu trên đây chưa
phản ánh đầy đủ về số phận người phụ nữ trong tác phẩm.
Với mong muốn kế thừa và phát huy những thành tựu nghiên cứu
Truyền kỳ mạn lục của các thế hệ đi trước, chúng tôi chọn vấn đề Nghiên
cứu số phận người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhằm cố gắng hoàn
chỉnh và làm nổi rõ hơn vấn đề đã nêu, hy vọng góp thêm ý kiến vào việc
11
nghiên cứu một tác phẩm văn học lớn và có giá trị nhiều mặt này.
4. đối tượng, Phạm vi, Phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Do yêu cầu, mục đích nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi chọn các nhân
vật phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục làm đối tượng nghiên cứu chính.
Truyền kỳ mạn lục có 20 truyện thì có có tới 12 truyện có nhân vật phụ nữ.
Tuy nhiên không phải bất cứ truyện nào có nhân vật phụ nữ cũng là truyện
nói về số phận người phụ nữ. Chúng tôi chỉ chọn 11 truyện mà theo chúng
tôi là có trực tiếp đề cập tới số phận người phụ nữ. Đó là những truyện:
-
Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa
-
Chuyện đối tụng ở Long cung
-
Chuyện nàng Thuý Tiêu
-
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu.
-
Chuyện người con gái Nam Xương
-
Chuyện Lệ Nương
-
Chuyện cây gạo
-
Chuyện nghiệp oan của Đào thị
-
Chuyện yêu quái ở Xương Giang
-
Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây
-
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm viết bằng chữ Hán, ra đời từ thế
kỷ XVI, đến nay đã nhiều lần tái bản. Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi
dùng bản Truyền kỳ mạn lục do Trúc Khê Ngô Văn Triện (1941) dịch, Nhà
xuất bản Văn hoá Ên hành tại Hà Nội năm 1957 và bản Truyền kỳ mạn lục
do Nhà xuất bản Văn học Ên hành năm 1998, Trần Thị Băng Thanh giới
thiệu.
Vì thời gian, trình độ, khả năng nghiên cứu có hạn, chúng tôi chỉ tập
12
trung làm nổi bật số phận người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học: Đây là phương pháp
được sử dụng chủ yếu trong luận văn này.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi tiến hành thống kê,
phân loại theo từng điều kiện sống và cách sống của nhân vật để phục vụ
cho việc tìm hiểu và rót ra kết luận vÒ các số phận đó.
- Phương pháp so sánh: Đây cũng là phương pháp quan trọng để so
sánh số phận người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục với các nhân vật phụ
nữ trong các tác phẩm văn học khác nhằm làm nổi bật vấn đề đã đặt ra.
5. Cấu trúc của luận văn
Mở đầu:
1. Ý nghĩa của đề tài
2. Nhiệm vụ của đề tài
3. Lịch sử vấn đề
4. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu.
5. Cấu trúc của luận văn
Nội dung:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Số phận người phụ nữ sống theo nguyên tắc đạo đức lễ giáo
phong kiến.
Chương 3: Số phận người phụ nữ có lối sống vượt ra khỏi lễ giáo phong
kiến.
Kết luận:
Nêu những kết luận được rót ra từ kết quả nghiên cứu.
13
Nội dung
chương 1
những vấn đề chung
Để việc nghiên cứu có những kết quả tốt, đảm bảo khách quan khoa
học, ở chương này chúng tôi trình bày những vấn đề có tính chất chung nhất
về lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài làm cơ sở để lí giải những
vấn đề mà đề tài đặt ra.
1.1. Nho giáo với người phụ nữ Việt Nam
Nho giáo là một học thuyết không những chỉ nổi tiếng ở phương
Đông mà còn trên toàn thế giới. Có rất nhiều vấn đề mà Nho giáo đặt ra
nhưng tất cả vẫn quy tụ về mối quan hệ giữa con người với con người. Đấy
là mối quan hệ đơn giản nhất mà cũng rất phức tạp vì con người phải có
những quan hệ với những cộng đồng khác nhau như gia đình, xã hội, nhà
nước… [17, tr.123]. Tức là Nho giáo đòi hỏi con người phải luôn luôn xác
định được mình đứng ở vị trí nào trong mối quan hệ Êy và phải luôn luôn
làm tròn bổn phận của mình. Những tư tưởng của Nho giáo đối với người
phụ nữ về bản chất là sự tước đoạt quyền lợi của nữ giới. Thời nhà Chu,
Nho giáo đã phát huy đến cùng thắng lợi của cuộc cách mạng mà người ta
đã gọi là “ mét trong những cuộc cách mạng triệt để nhất mà loài người đã
trải qua” tức là cuộc cách mạng chuyển từ chế độ mẫu quyền sang chế độ
phụ quyền. Người phụ nữ từ chỗ là chủ trong gia đình và xã hội trở thành
người bị giam hãm, áp bức, ngoài công việc nội trợ chỉ có vai trò rất quan
trọng riêng hẳn của mình là đẻ con – gần như duy nhất đáng kể là đẻ con
trai- đÓ nối dõi tông đường và giữ gìn gia tài tư hữu của các gia trưởng từ
thế hệ này đến thế hệ khác. Chỉ biết “sự”, “tuỳ” và “tùng”, người phụ nữ
không hề có và không được nhắc đến cái gọi là quyền, cả đến quyền yêu
đương. Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, thế thôi. Nếu không còn cha mẹ thì có
chú, bác vậy. Cụ thể là con gái chỉ biết vâng theo dù muốn hay không muốn.
14
Phụ nữ thật là bị ức hiếp suốt đời. Làm con, làm vợ hay làm mẹ cũng đều bị
sự ức hiếp của nam giới, của lễ giáo, của pháp luật. Khổng Tử cho rằng họ là
loại người “khó giáo hoá”, “khó nuôi dạy” [10, tr.188].
Mặc dù tư tưởng Nho giáo khi vào Việt Nam không hoàn toàn cứng
nhắc như ở Trung Quốc nhưng người phụ nữ Việt Nam vẫn là nạn nhân đau
khổ của tư tưởng Nho giáo Êy. Những đòi hỏi người phụ nữ về “tam tòng, tứ
đức” vừa cột chặt họ vào công việc nội trợ gia đình, vừa thêm một lần nữa
tước đoạt của họ những hạnh phúc vốn đã nhỏ bé và hiếm hoi. Lấy chồng thì
theo chồng và một khi bất hạnh, chồng chết thì theo con trai, tức là ở vậy
nuôi con thờ chồng. Xã hội phong kiến khuyến khích việc đó bằng cách tặng
thưởng cho họ một tờ sắc “Tiết hạnh khả phong”. Như thế, những năm tháng
còn lại của người phụ nữ sẽ không còn biết đến hạnh phúc, đến tình yêu khi
mà họ vẫn còn rất trẻ, thậm chí có người mới mười tám, đôi mươi.
1.2. Văn học trung đại Việt Nam với đề tài phụ nữ
“Văn học trung đại Việt Nam phát triển song song với văn học dân
gian. Nó một mặt hấp thụ kinh nghiệm nghệ thuật của văn học dân gian,
nhưng mặt khác nó cũng luôn bổ sung cho văn học dân gian, thóc đẩy văn
học dân gian cùng tiến tới. Đi đôi với công việc này, văn học trung đại còn
tiếp nhận tinh hoa của văn học các nước lân cận, chủ yếu là Trung Hoa, thứ
đến Ên Độ, Campuchia, Triều Tiên, Nhật Bản…” [24, tr.13]
Nhận định này gợi mở và dẫn dắt chúng tôi có cái nhìn toàn diện về
văn học trung đại Việt Nam, về hướng tư duy trong việc phân tích một tác
phẩm thuộc về di sản văn học dân tộc.
Nhìn lại toàn bộ diện mạo của nền văn học trung đại Việt Nam, chóng
ta thấy đề tài phụ nữ chỉ được phản ánh một cách có hệ thống và đạt được
những thành tựu rực rỡ ở giai đoạn thế kỷ thứ XVIII. Trước khi Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ ra đời, văn học trung đại Việt Nam cơ bản là văn
học chức năng mà tập trung là các chức năng lễ nghi tôn giáo, chức năng giữ
15
nước cùng các chức năng giáo hoá, giáo huấn và giáo hối. Các triều Lí, Trần,
Lê đã ra sức xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, ra
sức truyền bá Nho giáo, đã kiên cường chống giặc ngoại xâm, đã làm nên
những trang lịch sử hiển hách. Một hào khí chống xâm lăng trải suốt mấy
trăm năm với ba triều đại đã thấm đẫm trong từng câu chữ. Cảm hứng yêu
nước hừng hực trong văn chương thời Êy. Những Chiếu dời đô của Lý Công
Uẩn, thơ Thần của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo,
Bạch đằng giang phó của Trương Hán Siêu, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn
Trãi và vô số những tác phẩm văn chương của vua tôi nhà Trần thời Trùng
hưng nhị thánh, thực sự đã mãi mãi trường tồn cùng sông núi nước Nam.
Thành công rực rỡ của bộ phận văn học chức năng sẽ tất yếu dẫn tới
những hạn chế của bộ phận văn học nghệ thuật. Tập trung ca ngợi những
cái lớn lao, văn học đã Ýt chó ý tới những vấn đề của cuộc sống đời
thường, tới những cái vẫn bị coi là nhỏ bé. Người phụ nữ và số phận họ thì
càng Ýt được chú ý bởi vì họ vốn đã không được coi trọng, thậm chí có khi
còn không được thừa nhận. Nhìn lại văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, ta
càng thấy rõ điều đó. Chỉ có một số Ýt tác giả viết về phụ nữ: Trần Nhân
Tông với bài Khuê oán (Niềm oán hận của người khuê phụ), Nguyễn Húc
với hai bài thơ Phong vũ khuê tư ( Khuê nữ buồn trong mưa) và Thu khuê
oán (Than thở kẻ phòng thu), Lê Thiếu Dĩnh với bài Cung từ (Lời người
con gái hầu trong cung vua).Thái Thuận có các bài Tràng An xuân mộ
(Chiều xuân ở Tràng An), Chinh phụ ngâm( Nỗi lòng chinh phô) Lão kĩ
ngâm( Khúc ngâm của người kĩ nữ già). Vua Lê Thánh Tông có các bài
Hoàng Giang điếu Vũ nương (Qua Hoàng Giang viếng người đàn bà họ
Vũ), Lỵ Nhân sĩ nữ (Trai gái ở Lỵ Nhân). Ngoài những bài Êy và một vài
bài nữa, Lê Thánh Tông còn có một số truyện ngắn viết về phụ nữ chứa
đựng nhiều yếu tố hoang đường được tập hợp trong Thánh Tông di thảo.
Trước Nguyễn Dữ, Lý Tế Xuyên (trong Việt Điện u linh) và Trần Thế Pháp
16
( trong Lĩnh Nam chích quái lục) có viết về phụ nữ nhưng những nhân vật
phụ nữ thường là thần thánh, là nhân vật lịch sử và họ xuất thân thường là
quý tộc. Nhà văn chú ý tới cái siêu nhiên, cái khác thường ở họ, xây dựng
họ để làm sáng tỏ tư tưởng “ địa linh nhân kiệt” chứ không phải nhằm mục
đích phản ánh về con người trần thế với cuộc sống hiện thực của họ.
Từ thế kỉ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu đi vào thời kì
khủng khoảng, con người có một nhu cầu nhận thức thực tế cuộc sống. Con
người - đối tượng phản ánh của văn học - từ đây Ýt bị ràng buộc hơn vào
những tư tưởng giáo lí có sẵn. Con người trước đó, thường được miêu tả
bằng những bức chân dung “nhìn ngay ngó thẳng”, biểu tượng cho những
chuẩn mực của “tam cương”, “ngũ thường”, “tam tòng, tứ đức”. Con người
trước đó, là con người của tinh thần và ý chí, tư tưởng và giáo điều thì nay
được thay thế bằng những con người trần thế hơn với những nhu cầu trần
thế, với da thịt hồng hào, tươi tốt, với những ham muốn thoát ra ngoài sự
toả chiết của Nho giáo. Nhu cầu sống, nhu cầu hạnh phúc, nhu cầu về sự ái
ân – tức là những nhu cầu cụ thể, hồn nhiên và tự nhiên như nó vốn có đang cựa quậy và trỗi dậy. Tôn giáo, các học thuyết và cả sự không hiểu
biết đã nhồi nhét vào đầu óc con người trung đại ảo tưởng về một cõi tiên
thì nay chính những con người ở cõi tiên Êy lại muốn xuống cõi trần với
cuộc sống trần tục. Tiên nữ Giáng Hương, từ khi lấy chàng Từ Thức đã trở
nên hồng hào chứ không khô gầy như trước nữa[8, tr.122] và chàng Từ
Thức đã lấy được tiên rồi mà vẫn muốn trở lại cõi trần. Cái nhu cầu trần
thế đòi hỏi phải được thực hiện mới mạnh mẽ biết bao.
Sau vai trò dường như là mở đầu viết về các nhu cầu trần thế của con
người của Truyền kỳ mạn lục, tác phẩm đã góp phần thúc đẩy xu hướng dân
chủ hoá trong văn học, thúc đẩy sự nẩy nở và trỗi dậy của tư tưởng nhân
đạo của văn học các giai đoạn sau, đặc biệt là văn học thế kỉ XVIII. Người
phụ nữ mà trước đó văn học có nói đến với bao nhiêu thiết chế đè nặng, với
17
bao nhiêu đòi hỏi vô lí, với bao nhiêu cấm đoán ngặt nghèo thì bây giờ đã
được đề cập theo một cách nói khác, theo một cách nghĩ khác, theo một
cách nhìn khác. Văn học đòi hỏi phải nhìn nhận người phụ nữ một cách
công bằng hơn rộng rãi hơn bởi họ là những con người có rất nhiều những
khả năng sánh ngang với nam giới. Họ phải được trả lại những quyền cơ
bản của con người như quyền sống, quyền tù do, quyền yêu đương, quyền
hạnh phúc. Giai cấp thống trị, tư tưởng phong kiến không thể tiếp tục tước
đoạt những quyền lợi Êy của họ. Một trào lưu nhân đạo đã nẩy nở và phát
triển với những thành tựu rực rỡ trong văn học thế kỷ XVIII – nửa đầu thế
kỷ XIX là bằng chứng về điều đó. Ở hai thế kỷ rất đáng tự hào của lịch sử
văn học nước nhà này, đóng góp đáng kể nhất cho trào lưu nhân đạo chủ
nghĩa trong vấn đề bảo vệ và đấu tranh cho quyền lợi người phụ nữ phải kể
đến vai trò của truyện Nôm bình dân. Những gì mà ở Truyền kỳ mạn lục,
người phụ nữ chưa giành được thì ở truyện Nôm bình dân người họ đã
giành được. Ở đó, mọi người phụ nữ đều vượt qua thử thách, loại bỏ được
bi kịch của cuộc đời mình, giành lại cuộc sống và hạnh phúc cho mình.
Bên cạnh những thành tựu của Truyện Nôm bình dân về vấn đề đã
nêu, văn học viết nửa cuối thế kỷ XVIII- nửa đầu thế kỷ XIX cũng rất thành
công trong việc đề cao yêu cầu giải phóng tình cảm của con người khỏi
những ràng buộc của xã hội phong kiến. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn
Gia Thiều tố cáo chế độ cung nữ làm cho cuộc đời của biết bao cô gái tài
sắc héo hắt lụi tàn trong cung vua, phủ chúa. Người cung nữ có một thời
kiêu hãnh về nhan sắc:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa,
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình
Nhưng rồi chính họ lại “giật mình” khi “bừng con mắt dậy thấy mình
18
tay không” và cay đắng nhận ra sai lầm vì cái “bả vinh hoa” Êy. Hạnh phúc
thực sự đối với họ có thể chỉ là có một người chồng “dù rằng cục mịch nhà
quê” và những đứa con “ lau nhau ríu rít cò con cũng tình”.
Hồ Xuân Hương – nhà thơ của phụ nữ - qua những bài thơ Nôm của
mình đã tố cáo chế độ đa thê và nền đạo đức phong kiến đối với người phụ
nữ. Nền đạo đức phong kiến Êy đã gây nên cho người phụ nữ không biết
bao nhiêu là cay đắng, tủi hờn. Thân phận họ bấp bênh, hẩm hiu như chiếc
bánh trôi “Bảy nổi ba chìm với nước non”; con ốc nhồi “Đêm ngày lăn lóc
đám cỏ hôi”, hay quả mít “ sù sì”. Một nỗi khổ nữa của người phụ nữ đó là
kiếp “lấy chồng chung”. Thân phận họ chỉ là thân phận của một kẻ làm
mướn, thậm chí còn tệ hơn làm mướn nữa - làm mướn không công. Nhà thơ
thường xoáy sâu vào các ngóc ngách Ðo le của cuộc đời để nêu lên những
bi kịch thật chua chát nhưng thường bị xoá nhoà trong một cuộc sống vốn
dĩ đã rập khuôn theo những chế ước nặng nề của lễ giáo. Mặc dù bị áp bức
nặng nề như thế, nhưng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương đã có lúc
ngẩng cao đầu tuyên chiến với lễ giáo phong kiến và ý thức được giá trị của
mình.
Có thể nói, thơ Hồ Xuân Hương là sản phẩm của một thời đại, của
phong trào quần chúng đấu tranh chống lại ách thống trị phong kiến thối
nát, là kết tinh truyền thống phụ nữ trên lĩnh vực xã hội, văn học.
Nguyễn Du, qua cuộc đời của nhân vật Thuý Kiều đã đặt ra một vấn
đề hết sức bao quát là quyền sống của con người trong xã hội phong kiến
trong đó có một vấn đề rất quan trọng là quyền sống của người phụ nữ.
Thuý Kiều - nhân vật đại diện cho số phận người phụ nữ - hội tụ tất cả
những phẩm chất tốt đẹp: sắc, tài, hiếu, nghĩa… nhưng lại có một số phận
đầy bi kịch. Những phẩm chất tốt đẹp của nàng và cả tài sắc nữa lại trở
thành tai họa đối với nàng. Cuộc đời của con người Êy thật là “hết nạn nọ
đến nạn kia”, đúng như lời của Tam Hợp đạo cô:
19
Người sao hiếu nghĩa đủ đường
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi.
Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm qua Chinh phụ ngâm đã nói về số
phận của người chinh phụ. Nếu đối với người chồng đi chinh chiến, chiến
tranh là chết chóc, thì mặt khác, đối với người vợ ở nhà, chiến tranh là sự
phá vỡ cảnh yên Êm của gia đình, là cô đơn, sầu muộn. Chinh phụ ngâm
thực sự là một khúc ngâm ai oán, buồn thương về thân phận người phụ nữ.
Đặng Thai Mai đã gọi đó là “một khối sầu ngưng đọng”.
Như thế, nền văn học trung đại Việt Nam đã có những bước tiến không
ngừng trong việc phản ánh về người phụ nữ và số phận của họ. Có thể nói,
người phụ nữ đã ngày càng hiện lên trong văn học một cách đầy đủ hơn từ
hình thức đến tâm hồn. Mặc dù, ở nhiều tác phẩm, văn học viết chưa vượt ra
khỏi những nguyên tắc của thủ pháp ước lệ tượng trưng nhưng rõ ràng là
hình tượng người phụ nữ đã ngày càng được gia tăng những yếu tố hiện thực.
1.3. Vài nét về thể Truyền kỳ và thể Truyền kỳ trong văn học Việt Nam
Truyền kỳ là thể loại truyện ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc
thịnh hành ở đời Đường. Kỳ nghĩa là kỳ ảo, kỳ lạ, nhấn mạnh tính chất hư
cấu. Thoạt đầu là chí quái thời Lục triều, sau phát triển độc lập thành truyền
kỳ. Có loại miêu tả cuộc đời biến ảo như mộng... Có loại ca ngợi tình yêu
nam nữ... Có loại miêu tả hào sỹ hiệp khách. Từ đời Đường trở về trước,
tiểu thuyết Trung Quốc về cơ bản mới chỉ là mầm mống, tuy ở thời Hán
Ngụy, Lục triều có chút Ýt phát triển, nhưng vô luận nhìn từ góc độ khắc
họa nhân vật hay miêu tả tình tiết hãy còn đơn giản, chưa đạt đến mức độ
thành thục. Đồng thời, khái niệm tiểu thuyết cũng còn rất hỗn loạn, thông
thường trở thành tên gọi chung cho các loại ghi chép truyện lạ hoặc truyện
vặt lịch sử. Phải đợi đến đời Đường, tiểu thuyết Trung Quốc mới dần dần
trưởng thành, mới có được hình thức nghệ thuật tương đối hoàn hảo cũng
như nội dung đời sống xã hội tương đối rộng rãi và giành được vị trí không
20
thể xem thường trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Vào đời Đường, người ta vẫn chưa bỏ được cách nhìn lệch lạc truyền
thống đối với tiểu thuyết, nói chung vẫn gạt nó ra ngoài văn học chính
thống. Bởi cách “cấu tứ chuộng sự li kì”, cho nên nó được gọi là “truyền
kỳ”. Có điều những người sáng tác tiểu thuyết ngày một đông hơn, điều Êy
nói rõ con đường sáng tác tiểu thuyết vốn bị coi là “tiểu đạo” đã ngày một
hấp dẫn mọi người, hơn thế, đã bắt đầu trở thành hoạt động nghệ thuật có ý
thức. Một người đời Minh là Hồ Ứng Luân đã có thể nhìn thấy điều đó,
từng nói: “Những chuyện biến hoá kì lạ rất thịnh vào đời Lục triều, có điều
phần lớn là ghi chép lại những điều bịa đặt chứ đâu phải truyện biến hoá,
đến người đời Đường mới có sự cấu tứ li kì, mượn tiểu thuyết để gửi gắm
ngọn bút.” [38, tr.659]
Chóng ta thấy, về đại thể, truyền kỳ đời Đường có nội dung đa dạng,
phong phó xoay quanh chủ đề tình yêu nam nữ trong đời sống trần tục
thường ngày và mang đậm khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa. Vì thế, nó có
vai trò lớn trong việc đưa văn học viết hướng tới truyền thống văn hoá dân
gian, đời sống hiện thực của quần chúng nhân dân. Đồng thời, với thủ pháp
nghệ thuât độc đáo là lấy kì ảo làm phương tiện nghệ thuật để truyền tải nội
dung về đời sống con người, truyền kỳ đời Đường góp phần không nhỏ
khẳng định giá trị hư cấu và tưởng tượng trong việc phản ánh và lý giải hiện
thực cuộc sống của tác phẩm văn học. Loại hình truyền kỳ tiếp tục phát
triển ở đời Tống, Nguyên (1279-1368). Cuối Nguyên, đầu Minh (thế kỉ thứ
XIV), có Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (1341-1427) là tác phẩm truyền
kỳ nổi tiếng, tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ của Trung Quốc và có ảnh
hưởng lớn đến thể loại truyền kỳ các nước trong khu vực như: Triều Tiên,
Nhật Bản, Việt Nam… Sang đời nhà Thanh (1644-1911), Liêu trai chí dị
của Bồ Tùng Linh (1640-1715) đã làm rạng danh cho truyền kỳ Trung
Quốc… Như vậy, truyền kỳ trải qua quá trình hình thành và phát triển cùng
- Xem thêm -