Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nét đặc sắc về nghệ thuật trong quốc âm thi tập của nguyễn trãi...

Tài liệu Nét đặc sắc về nghệ thuật trong quốc âm thi tập của nguyễn trãi

.PDF
70
415
138

Mô tả:

1 Nét đặc sắc về nghệ thuật trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nền văn học của bất kỳ dân tộc nào cũng như lịch sử phát triển của dân tộc đó, để tồn tại cho đến ngày nay, nó đều phải dựa trên cơ sở của cái cũ và phát triển thêm cái mới. Nền văn học của dân tộc Việt Nam cũng như vậy. Ra đời sau văn học dân gian, văn học trung đại Việt Nam có điều kiện tiếp thu những ánh sáng và tinh hoa từ nền văn học truyền thống mà cha ông ta đã dày công xây dựng và để lại. Do đó văn học trung đại Việt Nam đã nhanh chóng phát triển, sớm trở thành một bộ phận lớn của nền văn học nước nhà. Có thể nói, văn học trung đại Việt Nam đã trở thành một mảnh đất tốt tươi, sản sinh, nuôi dưỡng biết bao nhà thơ, nhà văn ưu tú và mỗi người có một phong cách sáng tác riêng. Nếu đọc thơ Nguyễn Du ta bâng khuâng trước những giọt lệ cao cả, chảy mãi ngàn đời giống như Chế Lan Viên đã đúc kết: “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều” thì đến với Nguyễn Trãi ta bắt gặp một nhà quân sự làm thơ hết sức tài tình: “Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu. Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng” (Tố Hữu). Nguyễn Trãi là một nhà chính trị sáng suốt, một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà ngoại giao thiên tài, một nhà sử học, địa lý học và một nhà thơ, nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam. Ở Nguyễn Trãi đã hội tụ tất cả “khí phách”, “tinh hoa” nghĩa là những gì tốt đẹp nhất của dân tộc ta. Sinh ra và lớn lên vào thời buổi lịch sử có nhiều biến động, cuộc đời Nguyễn Trãi cũng có nhiều biến cố, thăng trầm. Tuy nhiên, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng là một tấm gương sáng, hết sức mẫu mực cho con cháu ngày sau noi theo và học tập. 2 Với tư cách là một nhà văn, nhà thơ, Nguyễn Trãi đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ - một di sản văn học quý báu muôn đời. Đúng như Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “…Sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước và tự hào dân tộc”. Bước vào thế giới văn chương của Nguyễn Trãi, người đọc như được sống trong một thế giới đa thanh, đa sắc, đa điệu. Đó là lời sang sảng, hùng khí nhưng đầy nhân nghĩa của Bình Ngô đại cáo. Đó là tiếng nói đanh thép giống như một thứ vũ khí lợi hại, góp phần làm suy yếu tinh thần quân địch của Quân trung từ mệnh tập. Đó còn là tiếng nói tình cảm chân thành, nhiệt huyết của một con người suốt đời “âu việc nước”, “thân nhàn nhưng tâm không nhàn” trong những vần thơ Quốc âm. Có thể nói, Quốc âm thi tập là tập thơ có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Đây là tập thơ Nôm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc hiện còn. Xuân Diệu gọi nó là “tác phẩm mở đầu nền văn học cổ điển” nước ta. Sở dĩ có được vị trí trên vì bên cạnh giá trị nội dung, Quốc âm thi tập còn gặt hái được những thành tựu to lớn về giá trị nghệ thuật. Tìm hiểu Nét đặc sắc về nghệ thuật trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi sẽ góp phần giúp chúng ta nhận thức một cách toàn diện hơn về tài năng, phẩm giá và những đóng góp của Nguyễn Trãi trong tiến trình văn học Việt Nam. Mặt khác, văn chương của Nguyễn Trãi từ lâu đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông, thực hiện đề tài này sẽ góp phần phục vụ thiết thực và hiệu quả cho việc giảng dạy thơ Nguyễn Trãi nói chung, thơ Nôm của ông nói riêng. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Nguyễn Trãi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam với một hồn thơ đa dạng và phong phú, đặc biệt là qua tập thơ Nôm Quốc âm thi tập. Ra đời và tồn tại hơn sáu thế kỷ nên tác phẩm này đã được rất nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đánh giá. Do đó, vấn đề Nét đặc sắc về nghệ thuật trong Quốc âm thi 3 tập của Nguyễn Trãi không còn là vấn đề mới mẻ nữa nhưng nó luôn là mảnh đất huyền bí, có sức hút mãnh liệt, là một dòng nước chưa bao giờ cạn đối với các nhà nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu, các bài viết của các tác giả đã đưa ra nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá của mình nhưng bằng cách này hay cách khác họ đều thống nhất với nhau ở một điểm chung: Quốc âm thi tập đã gặt hái được những thành công to lớn về mặt nghệ thuật. Một số bài viết của các tác giả sau đây sẽ giúp chúng ta thấy rõ điều đó. Tác giả Thanh Lãng với bài viết Quốc âm thi tập đã khẳng định: Quốc âm thi tập là tài liệu văn học cổ nhất hiện còn lưu giữ được của nền văn học quốc âm. Giá trị của tập thơ không chỉ hạn hẹp ở những nét đặc sắc về nội dung mà còn ở nghệ thuật biểu hiện. Theo tác giả Thanh Lãng, với những gì mà Quốc âm thi tập đạt được thì Nguyễn Trãi xứng đáng là ông tổ của nền văn học cổ điển. Không những vậy, ông còn là ông tổ của nền văn học dân tộc, nhưng có tính chất không nguyên vì đem áp dụng luật thơ ngoại quốc vào việc chế tạo thơ văn quốc âm, cụ thể trong việc sử dụng các loại thể hoặc thuần tuý Việt Nam như loại thơ sáu chữ hoặc dung hoà Việt – Hán như lối bảy chữ xen sáu chữ… Tác giả bài viết còn đánh giá cao Nguyễn Trãi ở công khai sinh một nghệ thuật dùng ngôn ngữ của dân gian. Đây là điểm mới mẻ hơn các nhà thơ văn sống sau ông hơn ba bốn thế kỷ. Cuối cùng, Nguyễn Trãi được đánh giá là người dựng một cái mốc trên đà tiến của ngữ ngôn – một ngữ ngôn uyển chuyển, tế nhị trong việc diễn tả mọi tình ý một cách độc đáo [12. tr. 805]. Cũng bàn về việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Trãi, trong bài Một vài nhận xét bước đầu về ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Trãi, sau khi nhận xét về ngôn ngữ trong thơ chữ Hán, tác giả Nguyễn Tài Cẩn – Vũ Đức Nghiêu có nói về ngôn ngữ trong thơ Nôm: Nói đến ngôn ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, điểm đầu tiên nổi bật là sự phong phú của tác giả về mặt dùng từ [20, tr. 4 181]. Tác giả bài viết đã thống kê toàn bộ các bài trong Quốc âm thi tập và phát hiện ra Nguyễn Trãi đã dùng hơn một vạn một ngàn lượt từ (11.067), trong đó có tất cả 2.235 từ khác nhau. Tác giả bài viết còn thống kê chi tiết số từ xuất hiện một lần (2.122 từ) cho đến những từ xuất hiện từ mười lần trở lên (272 từ). Thế là trong kho từ của Quốc âm thi tập, gần 46 trường hợp Nguyễn Trãi đã không dùng từ lặp lại một lần nào – một tỷ lệ khá cao nếu đem so sánh ngay với cả thể loại truyện ký của các nhà văn hiện đại [20, tr. 182]. Điều đó chứng tỏ khả năng vận dụng từ ngữ phong phú, điêu luyện của Nguyễn Trãi. Cuối cùng, để làm nổi bật vai trò của Nguyễn Trãi đối với nền thơ dân tộc, tác giả bài viết còn khẳng định: Chúng ta quý Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta khá nhiều thơ Nôm. Nhưng còn đáng quý hơn nữa là Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta không phải một lối thơ Nôm bác học mà là một lối thơ Nôm viết bằng ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc [20, tr. 183]. Tác giả Bùi Văn Nguyên với bài viết Âm vang của tục ngữ, ca dao trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi đã khảo sát một cách tỉ mỉ hệ thống tục ngữ, ca dao xuất hiện trong thơ quốc âm để thấy rằng yếu tố tục ngữ, ca dao khá đậm đà trong nhiều câu, nhiều bài. Với 1908 câu thơ thì đã có 50 câu thơ có yếu tố tục ngữ và khoảng 20 câu thơ có yếu tố ca dao, và nếu tính phần trăm thì yếu tố tục ngữ chiếm khoảng 2,5 % và yếu tố ca dao chiếm khoảng 1 % [10, tr. 83]. Điều đáng ghi nhận là các hình thức vận dụng vốn cổ văn học dân gian được thể hiện một cách linh hoạt, sáng tạo: Có chỗ như “lẫy”, có chỗ như “tập”, có chỗ như “phỏng”, có chỗ lấy toàn cả ý, cả từ, có chỗ lấy ý mà từ có bổ sung hay có chỗ lấy từ mà ý có bổ sung [10, tr. 88]. Đọc Quốc âm thi tập, chúng ta thấy xuất hiện trong đó nhiều hình ảnh, nhiều thi liệu, chất liệu từ văn học dân gian. Đó chính là nhận định của đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân dịp kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi: Thơ Nôm Nguyễn Trãi tiếp thu nhiều thành tựu của văn hoá dân gian, văn học 5 dân gian. Củ khoai, quả ổi, bè rau muống, luống dọc mùng… vốn rất xa lạ với văn chương bác học đã được Nguyễn Trãi đưa vào thơ Nôm của mình một cách rất tự nhiên. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao, những đặc sắc, thanh điệu tiếng Việt, tất cả những khả năng phong phú ấy của ngôn ngữ dân gian được Nguyễn Trãi khai thác một cách tài tình để cho hình tượng thơ có nhiều màu sắc dân tộc và lời thơ có âm điệu phong phú. Nguyễn Trãi đã sớm coi trọng việc làm giàu ngôn ngữ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt [12, tr. 912 – 913]. Tác giả Hoàng Tuệ với bài viết Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt đã khẳng định: Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt, đó là một cống hiến hết sức lớn lao [12, tr. 826]. Nguyễn Trãi trên cơ sở của thái độ quý trọng và đề cao chất liệu của tiếng Nôm, tức tiếng Việt, văn học dân gian truyền miệng đã sử dụng một cách thành công bộ phận từ vựng Việt, ngữ pháp Việt, đặc biệt là tục ngữ rõ ràng là vật được quý chuộng [12, tr. 819]. Bên cạnh đó, đọc Quốc âm thi tập, tác giả bài viết còn phát hiện ra một vấn đề khác: vấn đề chất liệu trong tiếng Hán mà Nguyễn Trãi đã dùng nhiều [12, tr. 820]. Song dùng nhiều tiếng Hán không có nghĩa là Nguyễn Trãi nghiêng về nền Hán văn của Trung Hoa, không có nghĩa là Nguyễn Trãi đã đồng hoá kho từ vựng và văn liệu Hán học. Trái lại, với ý thức dân tộc sâu sắc, với tấm lòng yêu nước nồng nàn, Nguyễn Trãi đã cố gắng xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc trên cơ sở ngôn ngữ của nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian [5, tr. 257]. Đây là thành tựu lớn nhất mà trong bài viết Nguyễn Trãi và tấm lòng ưu ái “đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”, tác giả Đinh Gia Khánh đã nhận xét. Nếu như tác giả trên chú ý khai thác đặc sắc nghệ thuật của quốc âm ở phương diện ngôn ngữ thì tác giả Phạm Luận lại tiếp cận tập thơ ở phương diện thể loại. Trong bài Nguyễn Trãi và thể thơ Việt Nam trong Quốc âm thi 6 tập, tác giả bài viết đã đối chiếu, so sánh khá tỉ mỉ những vần thơ quốc âm với thơ Đường, từ đó khẳng định Nguyễn Trãi đã vận dụng thi pháp thơ Đường một cách thành thạo. Nguyễn Trãi đã có sự sáng tạo khéo léo, tài tình: số lớn các bài thơ đều ít nhiều có chỗ viết khác niêm luật thơ Đường. Điều này thể hiện ở những câu 7 tiếng có cách ngắt nhịp (3/4) khác lối ngắt nhịp của thể thơ Đường (4/3) [12, tr. 840], ở việc dùng câu 6 tiếng xen với câu 7 tiếng trong bài thơ bát cú cũng như tứ tuyệt [12, tr. 841]. Cũng là tác giả Phạm Luận trong bài viết Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và thi pháp Việt Nam, sau khi căn cứ vào hình thức loại biệt trong tổ chức chất liệu ngôn ngữ, tác giả đã chỉ ra ba thể thơ mà Nguyễn Trãi sử dụng là thể luật Đường, thể thất ngôn, thể câu 6 chữ xen với câu 7 chữ. Ngoài ra, tác giả còn khẳng định trong quá trình sáng tác thơ bằng tiếng Việt Nguyễn Trãi đã tiếp thu sâu sắc thi pháp luật Đường… [12, tr.856]. Và từ những tiềm năng quý báu của thể thơ Trung Quốc này, Nguyễn Trãi đã có một cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam, một thi pháp Việt Nam ở giai đoạn văn học chữ Nôm mới bắt đầu được hình thành và phát triển [12, tr. 856]. Điều này được tác giả chứng minh qua lối kiến tạo tiết tấu, lối gieo vần lưng mà Nguyễn Trãi sử dụng trong tập thơ của mình. Trong bài viết Một vài nhận xét về mối quan hệ giữa thể thơ Nôm của Nguyễn Trãi với thể thất ngôn luật ở Trung Quốc cùng với tác giả Nguyễn Phạm Hùng, tác giả Phạm Luận cũng có những phát hiện thật xác đáng. Tác giả bài viết cho rằng: Trong Quốc âm thi tập vừa có nhân tố hợp luật Đường, lại vừa có nhân tố phi luật Đường [12, tr. 861]. Cụ thể ở cách hiệp vần trong thơ chủ yếu là vần bằng, ở cấu tạo nhịp câu thơ thất ngôn rất đa dạng nhưng phổ biến vẫn là cách ngắt nhịp 3/4, ở thể thất ngôn xen lục ngôn. Qua khảo sát của tác giả trong 254 bài thơ quốc âm thì đã có tới 156 bài có câu thất 7 ngôn xen lục ngôn, chiếm 2/3 số bài trong tập. Điều này làm cho tiết điệu bài thơ phong phú hơn rất nhiều. Tác giả Ngô Văn Phú trong bài viết Mấy suy nghĩ về thể thơ sáu lời (lục ngôn) xen bảy lời trong Quốc âm thi tập đã đánh giá Quốc âm thi tập là một tập thơ quý. Quý ở ngôn ngữ thơ và từ vựng. Ngoài ra, cái quý ấy cón thể hiện ở việc vận dụng thành công thể thơ sáu lời. Cuối cùng, bài viết đi tới nhận định thật chính xác: Nguyễn Trãi không để lại những quan niệm của ông về thơ ca, về ngôn ngữ. Nhưng qua Quốc âm thi tập của ông, ta thấy được sự đóng góp rất lớn của ông trong lĩnh vực này, nhất là thơ tiếng Việt, trong giai đoạn tiếng Nôm, chữ Nôm mới hình thành, phải vượt lên biết bao khó khăn về công luận, về quan niệm, về quy luật khách quan của bản thân ngôn ngữ để tồn tại, để đấu tranh với thứ ngôn ngữ phải mượn từ nước ngoài [12, tr. 838]. Như vậy, vấn đề Nét đặc sắc về nghệ thuật trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi từ trước cho tới nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và đánh giá. Trên đây là một số ý kiến trong các bài viết của các tác giả nổi tiếng là những nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình văn học… mà trong điều kiện cho phép chúng tôi đã thu thập được. Các bài viết trên đều tiếp cận, lý giải vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau nhưng vì một vài lý do nào đó phần lớn mỗi bài viết chỉ mới dừng lại ở những nhận định chung hoặc đi vào tìm hiểu một vài đặc sắc nghệ thuật như một hiện tượng riêng lẻ. Chính vì vây, với công trình khoá luận này, trên cơ sở kế thừa và phát triển thành quả của những người đi trước, chúng tôi muốn đưa ra một cái nhìn hệ thống và tương đối toàn diện hơn. Từ đó khẳng định tài năng, vai trò, vị trí cũng như những đóng góp của Nguyễn Trãi cho nền văn học dân tộc. 8 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu của đề tài là đặc sắc thơ Nôm Nguyễn Trãi được làm rõ trên phương diện nghệ thuật. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là Thơ Quốc âm Nguyễn Trãi, sách do Bùi Văn Nguyên (biên khảo, chú giải và giới thiệu), của Nxb Giáo dục, năm 2003. 4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích và thực hiện nhiệm vụ mà đề tài đã đặt ra, trong luận văn này chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp thông dụng trong nghiên cứu văn học như: - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp đối chiếu, so sánh. - Phương pháp phân tích, chứng minh. - Phương pháp tổng hợp. 5. Bố cục khoá luận Ngoài phần Mục lục, phần Mở đầu, phần Kết luận và phần Tài liệu tham khảo, luận văn của chúng tôi gồm có hai chương chính: Chương I. NGUYỄN TRÃI – “KHÍ PHÁCH”, “TINH HOA” CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM Chương II. QUỐC ÂM THI TẬP – SỰ KẾT TINH NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI 9 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I. NGUYỄN TRÃI - “KHÍ PHÁCH”, “TINH HOA” CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM 1.1. Vài nét về thời đại và con người Nguyễn Trãi 1.1.1. Thời đại Nguyễn Trãi - những biến động lớn lao Mỗi cá nhân sinh ra đều gắn với một thời đại nhất định. Chính thời đại đó đã ảnh hưởng đến phẩm chất, tài năng cũng như hệ tư tưởng, ý thức của cá nhân. Nguyễn Trãi cũng như vậy. Nét chủ yếu về thời đại Nguyễn Trãi mà chúng ta có thể nhận ra đó là một giai đoạn lịch sử sôi động với những biến cố có tầm vóc lớn. Ngược dòng thời gian, quay trở về với lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Uy thế vương triều nhà Trần (1225 – 1400) đang đi vào giai đoạn suy vong. Tất cả danh thời “nhị đế” của nhà Trần giờ này chỉ còn là những kí ức xa xăm, những luyến tiếc sâu sắc trong trí nhớ của nhân dân. Từ thời Trần Dụ Tông (1341 – 1369), người ta đã thấy kế tiếp nhau leo lên ngôi là một loạt các vị vua bất kể tuổi tác: già, trẻ, bé con con; bất kể họ có hay không có năng lực trị vì đất nước. Chính trị rối ren, đời sống nhân dân khổ cực. Người ta thấy một cảnh tượng hoàn toàn trái ngược trong xã hội bấy giờ là bên cạnh sự ăn chơi trác tán; sự xa hoa hưởng thụ; sự tham ô, siểm nịnh, lộng quyền của vua chúa trong triều là cảnh sống cơ cực: phu phen, tạp dịch, thuế nặng, tô cao cứ đè nặng lên tầng lớp nhân dân. Mâu thuẫn nội tại đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước láng giềng thực hiện ý đồ xâm lược. Mối hiểm hoạ cứ thế tràn xuống từ hai miền Nam - Bắc. Ở phía Nam, với sự suy yếu của nhà Trần; quan hệ bang giao với vương quốc Chiêm Thành ngày một xấu đi rõ rệt. Vua Chiêm Thành đã có cơ hội tổ 10 chức những cuộc cướp phá miền biên cương. Cuộc đấu tranh giữ nước của nhân dân hết sức gay go và quyết liệt. Dù cuối cùng thắng lợi thuộc về nhà Trần nhưng từ trong cuộc chiến đấu này, với các cuộc hành quân phòng ngự liên miên, nó cũng đủ làm cho nhà Trần hao người, tốn của. Ở phía Bắc, chỉ mấy năm sau khi biết rõ nội tình nhà Trần, nhà Minh đã tiến hành bành trướng nước ta. Chúng yêu cầu nhà Trần phải nộp thóc làm lương quân, phải cống voi, ngựa, vàng bạc châu báu ngày một tăng về số lượng lẫn chất lượng. Trong lúc giặc Minh đang ráo riết để thực hiện ý đồ của mình, Hồ Quý Ly đã ép Trần Thiếu Đế nhường ngôi cho mình, nhanh chóng lật đổ nhà Trần (1400). Hồ Quý Ly lên ngôi vua với mong muốn chấn chỉnh lại kỷ cương triều đình, bảo vệ đất nước. Nhưng ngay từ đầu, họ Hồ đã phải đối mặt với một tình thế quá gay go – phải kế thừa một “gia tài phá sản” nặng nề. Năm 1407, không thể chống chèo được nữa, “gia tài phá sản” ấy đã hoàn toạn sụp đổ. Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt, nhà Minh sát nhập nước ta vào lãnh thổ của chúng và đổi nước ta thành quận Giao Chỉ. Từ khi đất nước rơi vào tay giặc Minh, đế chế này đã thi hành một bộ máy hành chính, một chế độ quan liêu hà khắc vô cùng. Những tưởng chính sách tàn bạo của chúng sẽ thiêu chết tinh thần yêu nước, ý thức tự cường của nhân dân ta nhưng nhà Minh đã lầm. Người trước ngã, người sau đứng lên, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam vẫn được ấp ủ trong một nhóm người lâu nay đang họat động bí mật ở vùng thượng du Thanh Hoá mà nổi bật nhất là thiên tài Nguyễn Trãi. Sau mười năm (1418 – 1428) kháng chiến gian khổ “máu trộn bùn tươi”, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã toàn thắng. Cuộc khởi đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, giang sơn thu về một mối, cả dân tộc bước vào cuộc trung hưng lần thứ hai. Không chỉ tổ quốc dựng “đài xuân dân tộc” mà chế độ phong kiến cũng đạt đến độ hoàng kim nhất ở nửa cuối thế kỷ XV. 11 Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi không thể tách rời với hai tên chữ Nguyễn Trãi. Sau khi lên ngôi hoàng đế (1428), Lê Lợi đã phong cho Nguyễn Trãi làm Quan phục hầu, được ban quốc tính (họ Lê). Nhưng giữa lúc “trăm họ” đang chờ đợi một cuộc sống thái bình với vua hiền, tướng giỏi thì bản chất của chế độ đã bộc lộ. Triều đình nhà Lê đầy rẫy những mâu thuẫn gay gắt giữa các phe phái hòng thôn tính, thanh trừ, lật đổ lẫn nhau. Bản thân Lê Lợi vốn là một vị tướng tài ba trên chiến trường – nay lại nghe lời ton hót của bọn nịnh thần, sát hại một số công thần như: Trần Nguyên Hãn (1429), Phạm văn Xảo (1430). Riêng Nguyễn Trãi cũng bị nghi ngờ và đã từng bị giam cầm (1430). Đến đời Lê Thái Tông, tình hình chia rẽ lại càng kịch liệt. Sống trong môi trường chật hẹp, giẫm đạp lên nhau, Nguyễn Trãi không thể có một cơ hội nào để thi thố tài năng nữa. Cuộc đời của một con người vì dân, vì nước này bị thời đại khép lại bằng “vụ án trại vải” mà lịch sử gọi là án “thiên cổ kỳ oan”. Tìm hiểu Nguyễn Trãi, chúng tôi không tìm hiểu ông như một cá nhân – nhà trí thức yêu nước nào đó – mà tìm hiểu ông với tư cách là một nhân vật lịch sử, một nhà văn hoá lớn với những tác phẩm đã phản ánh cả một thời đại lịch sử, với những tư tưởng ở nhiều điểm như là phát ngôn cho cả một dân tộc thời Nguyễn Trãi. Chính thời đại cuối Trần, đầu Lê đã tạo ra người anh hùng – bậc vĩ nhân, làm “rạng rỡ non sông đất nước ta” như Nguyễn Trãi. Việc tìm hiểu kĩ thời đại Nguyễn Trãi, chúng tôi nghĩ đó là một việc làm cần thiết để từ đó có thể hiểu rõ hơn về con người, tài năng, phẩm chất của Nguyễn Trãi sau này. 1.1.2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ văn của Nguyễn Trãi * “Một đời sống lộng lẫy và một kết cục quá tàn nhẫn” Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu là Ức Trai. Cha là Nguyễn Ứng Long (tức Nguyễn Phi Khanh), tên hiệu là Nhị Khê; vốn gốc ở làng Chi Ngại, 12 huyện Phượng Nhỡn (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương), sau này di cư sang làng Ngọc Ổi (sau đổi tên thành Nhị Khê), huyện Thượng Khê (nay là huyện Thường Tín, Hà Tây). Mẹ là Trần Thị Thái, con gái quan tư đồ Trần Nguyên Đán. Sinh ra trong một gia đình có nhiều thuận lợi cả về điều kiện vật chất và môi trường giáo dục; song ngay từ nhỏ Nguyễn Trãi đã phải chịu nhiều mất mát đau thương về mặt tình cảm. Lên 5 tuổi mẹ mất, lên 10 tuổi người ông ngoại vốn gắn bó với Nguyễn Trãi ngay từ khi Nguyễn Trãi mới lọt lòng lại qua đời. Những vui buồn của thuở thiếu thời đã in sâu vào tâm hồn Ức Trai. Lớn lên, Nguyễn Trãi lại chứng kiến những sự đổi thay của triều đình phong kiến mà cụ thể là nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, xác lập địa vị thống trị của mình (1400). Có thể nói, thời đại và gia đình trở thành hai nhân tố quan trọng ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành, phát triển nhân cách cũng như tài năng của Nguyễn Trãi. Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh, không đi theo quý tộc nhà Trần mà ra làm quan cho nhà Hồ, vừa thể hiện nhiệt huyết một lòng vì dân, vì nước, vừa thể hiện tư tưởng tiến bộ: Một thân lẫn khuất đường khoa mục Hai chữ mơ màng việc quốc gia. Tuy nhiên, không bao lâu sau khi lên ngôi với những cải cách táo bạo, năm 1407, nhà Hồ bị thất sủng. Giặc Minh chiếm lĩnh và thống trị nước ta. Nguyễn Trãi đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan, ông khắc sâu lời cha dặn: Con trở về lâp chí, rửa thẹn cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại hiếu. Nguyễn Trãi trở về xuôi nhưng vừa về đến Đông Quan, ông đã bị giặc Minh bắt giam. Suốt thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan, mặc dù kẻ thù ra sức mua chuộc, Nguyễn Trãi vẫn luôn giữ được tấm lòng trong sạch của mình và ấp ủ tấm ân tình giúp vua, giúp nước: 13 Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược Có nhân, có chí, có anh hùng. Năm 1417, Nguyễn Trãi bỏ trốn khỏi Đông Quan, đến Lỗi Giang (Thanh Hoá), gặp Lê Lợi và dâng Bình Ngô sách. Đó là cuốn sách bàn về chiến lược đánh giặc Minh, với phương châm cơ bản “không nói đánh thành giỏi mà bàn về cách đánh vào lòng người”. Đường lối chiến lược của Nguyễn Trãi được Lê lợi và Bộ tổng tham mưu nghĩa quân chấp nhận và tiến hành thắng lợi. Nhìn lại hành trình lịch sử gian nan mười năm đấu tranh của Nguyễn Trãi, Đặng Thai Mai đã đánh giá cao vai trò của ông: Nguyễn Trãi không chỉ xuất hiện như một nhà chiến lược đại tài mà còn là một nhà tổ chức cỡ lớn và cũng là một nhà ngoại giao khôn khéo, khi cứng rắn, khi mềm dẻo nhưng không bao giờ khoan nhượng về nguyên tắc. Vừa tham gia trù hoạch quân mưu, giúp Lê Lợi dự thảo các văn kiện chính trị, ngoại giao, Nguyễn Trãi đồng thời cũng phấn đấu để trở thành “nhà thơ – chiến sĩ”. Trong khoảng thời gian tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã cho ra đời tập thư binh vận - luận chiến Quân Trung từ mệnh tập nổi tiếng, sử dụng “đao bút” như một thứ vũ khí lợi hại, góp phần làm suy yếu tinh thần quân địch. Cuối năm 1427, đầu 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm được đánh giá là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, một “áng thiên cổ hùng văn của đất nước”. Sau khi hoàn thành chiến lược “tâm công”, đánh quân địch từ “đáy lòng” của chúng, Nguyễn Trãi được Lê Lợi giao cho những chức vụ trọng trách trong triều đình. Ông hăng hái thi thố tài năng để phục vụ đất nước và phục vụ nhân dân. Song vị anh hùng – nhà thơ tài hoa ấy đã bị bọn phản thần trù dập, ghen ghét. Chúng tìm mọi cách khép Nguyễn Trãi vào tội gian thần, bị Lê Thái Tổ bắt giam (1430). Năm 1435, sau khi được thả ra, Nguyễn Trãi cáo 14 quan, xin về ở ẩn ở Côn Sơn. Lê Thái Tổ chết, Lê Thái Tông lên ngôi, Nguyễn Trãi tuy có được khôi phục chức cũ nhưng vẫn là cảnh “danh suông vạ thực”. Năm 1437, bất đồng với Lương Đăng trong soạn nhạc, Nguyễn Trãi lại xin về ở ẩn ở Côn Sơn lần hai. Giai đoạn này Nguyễn Trãi sáng tác tập thơ Nôm Quốc âm thi tập thể hiện tấm lòng “tùng bách kiên trinh” và “âu việc nước”. Khi Lê Thái Tông lớn lên, hiểu được tài năng, tâm huyết của con người đại trung, đại hiếu này, ông lại vời Nguyễn Trãi về làm quan. Nguyễn Trãi đang hi vọng một thời cơ mới thì thật không may chỉ sau ba năm thảm hoạ giáng xuống. Vụ án Lệ Chi Viên đã cướp đi sinh mệnh của Nguyễn Trãi, khiến ông không còn cơ hội thực hiện hoài bảo của mình. Đây là bi kịch lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi và cũng là bi kịch của cả lịch sử dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Nói như nhà nghiên cứu, phê bình văn học Đặng Thai Mai: Một thanh thiếu niên đã được bồi dưỡng kỹ càng trong một gia đình yêu nước, đã chia sẻ nỗi đau khổ của đất nước cùng với nhân dân; Một chí sĩ đã cống hiến tất cả trí tuệ, nghị lực mình cho sự nghiệp giải phóng nước nhà; Một nhà chính trị, một nhà chiến lược thiên tài, một nhà ngoại giao lão luyện, và đồng thời cũng là một học giả uyên bác, một nhà văn, một nhà thơ lỗi lạc; Một đời sống lộng lẫy và… một kết cục quá tàn nhẫn; Đó là vận mệnh của Nguyễn Trãi [13, tr.20]. Nguyễn Trãi là “khí phách”, là “tinh hoa” của dân tộc, một biểu tượng rất đẹp của thiên tài Việt Nam. Ông là một bậc toàn tài hiếm có trong lịch sử, một bậc đại công thần khai quốc nhưng trái lại là người chịu nhiều oan khiên. Mặc dù con người Nguyễn Trãi không còn nữa, hoạt động của ông đã thuộc về quá khứ nhưng tấm gương về tâm hồn, đạo đức, tài năng, lý tưởng Nguyễn Trãi sẽ còn sống mãi với non sông Việt Nam. * Một cây bút sáng tác dồi dào 15 Nguyễn Trãi là một tài năng lỗi lạc hiếm có. Ông đã hướng ngòi bút của mình theo hai hướng chữ Hán và chữ Nôm. Ở phương diện nào ông cũng có những thành công nhất định. Tác phẩm của Nguyễn Trãi sau khi ông qua đời cũng chịu nhiều số phận long đong. Những tác phẩm của Nguyễn Trãi bị lệnh tiêu huỷ. Hai mươi hai năm sau, 1464 Lê Thánh Tông truyền lệnh sưu tầm tác phẩm của Nguyễn Trãi nhưng rồi bị thất tán. Do đó, mãi đầu thế kỷ XIX, tác phẩm của ông mới được tìm lại và nửa cuối thế kỷ XIX mới được khắc in. Nhờ vào tình yêu thơ văn Nguyễn Trãi của biết bao thế hệ, những tác phẩm ấy được bảo tồn. Về chữ Hán có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Ở lĩnh vực chính trị, quân sự có tác phẩm Quân trung từ mệnh tập, bao gồm một số thư từ văn bia, biểu chiếu mà Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết để đối nội và đối ngoại. Bình Ngô đại cáo vừa là “áng thiên cổ hùng văn” trong lịch sử, tổng kết đầy đủ và xúc động về cuộc kháng chiến anh dũng chống giặc Minh xâm lược vừa là bản tuyên ngôn về lòng yêu hoà bình của dân ta. Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn soạn 28 bài gồm: phú, chiếu, biểu, tấu, bi kí, lục…Trong đó đáng chú ý là bài Phú núi Chí Linh, Chuyện cũ về cụ Băng Hồ. Ở lĩnh vực lịch sử, có tác phẩm Lam Sơn thực lục và Văn bia Vĩnh Lăng: Nguyễn Trãi ghi lại quá trình khởi nghĩa Sơn, khẳng định tư tưởng gắn bó với dân là điều kiện tiên quyết của mọi thắng lợi. Dư địa chí là tác phẩm địa lí duy nhất còn lại ở nước ta. Ngoài giá trị địa lí, cuốn sách còn có giá trị lịch sử và dân tộc học. Và Ức Trai thi tập là tác phẩm văn học lớn nhất bằng chữ Hán (105 bài) thể hiện tâm sự cá nhân của Nguyễn Trãi. Về chữ Nôm, Nguyễn Trãi có tập đại thành Quốc âm thi tập, đánh dấu sự trưởng thành của nền thơ ca tiếng Việt. Tác phẩm bao gồm 254 bài, nhìn một cách tổng quát thì những bài thơ đó trước hết là để miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong Quốc âm thi tập vừa mang vẻ đẹp thanh tao, cao nhã, vừa mang 16 vẻ đẹp chân chất, đơn sơ, bình dị của làng quê Việt Nam. Nguyễn Trãi ca ngợi cảnh vật đất nước với tấm lòng tin yêu, rộng mở và gợi nhiều thi hứng dạt dào. Song không chỉ đơn thuần miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Trãi còn gửi gắm tấm ân tình của mình ở đằng sau nó. Những bài thơ ấy đều ẩn chứa một dấu hỏi về trách nhiệm, bổn phận của con người trước cuộc đời. Đó chính là tâm huyết của một bậc anh hùng cứu quốc, một bậc triết nhân suốt đời “âu việc nước”: Bui có một niềm chăng nỡ trễ Đạo làm con lẫn đạo làm tôi. (Ngôn chí, bài 1) Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: Từ bài Bình Ngô đại cáo qua các bức thư gửi các tướng tá xâm lược đến thơ chữ Hán và chữ Nôm… ngòi bút thần của Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta những tác phẩm gồm nhiều thể văn và tất cả đều hay và đẹp lạ thường [13, tr. 15]. Nhìn chung, các tác phẩm của Nguyễn Trãi dù là chữ Hán hay chữ Nôm thì chúng đều có sự thống nhất về mặt nội dung. Điều đó thể hiện ở hai điểm nổi bật là tinh thần yêu nước nồng nàn và lí tưởng đấu tranh vì chính nghĩa. Về nghệ thuật thì các tác phẩm thể hiện sự phong phú về thể loại và có nhiều đóng góp cho nghệ thuật thơ ca nước nhà. Những tác phẩm của Nguyễn Trãi còn lại đến ngày nay là tài sản vô giá của văn học dân tộc, là niềm tự hào chính đáng của các thế hệ người Việt Nam xưa nay. 1.2. Nguyễn Trãi trong lịch sử phát triển văn hoá, văn học Việt Nam 1.2.1. Nguyễn Trãi – người chiến sĩ xuất sắc trên mặt trận văn hoá Như trên đã viết, Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ lịch sử đầy thăng trầm và biến động. Thời kỳ này đất nước đang mang trong mình những sự suy vi về kinh tế - chính trị, sự quá độ về văn hoá. Cuộc đấu tranh giữa mô hình văn hoá truyền thống và đổi mới diễn ra một cách gay gắt đã tác 17 động sâu sắc vào trái tim, tâm hồn của người con yêu nước, suốt đời “thân nhàn nhưng tâm không nhàn” – Nguyễn Trãi. Hãy hình dung lại cái tiến trình văn hoá trước đấy cho đến thời Nguyễn Trãi, chúng ta sẽ thấy được vai trò to lớn mà vị anh hùng này đảm nhận. Hàng ngàn năm trước Công Nguyên, trước khi bị phong kiến phương Bắc đô hộ, người Việt đã có một lối sống riêng gắn liền với một nền văn minh độc đáo – văn minh Đông Sơn. Nền văn minh mà cha ông đã dày công xây dựng này đã ăn sâu vào đời sống tư tưởng của nhân dân trở thành chuẩn mực của văn hoá đương thời. Chiến tranh ập đến, các triều đại bành trướng phương Bắc đã ráo riết những âm mưu và hoạt động nhằm thủ tiêu nền văn hoá mà chúng ta vừa mới tạo dựng. Khác với những dòng giao lưu văn hoá hoặc thâm nhập văn hoá thông thường, cuộc xâm lăng và bành trướng văn hoá này thực sự là một cuộc chiến tranh văn hoá tàn khốc nhất trong lịch sử văn hoá Việt Nam. Bởi lẽ những chính sách văn hoá của phong kiến phương Bắc nấp sau những tên gọi “cải cách”, “giáo hoá” là một “trò phù thuỷ” nhằm nô dịch và đồng hoá dân tộc ta. Thực tiễn lịch sử đặt ra cho chúng ta một sự cố gắng, nỗ lực, một câu hỏi làm sao để bảo vệ nền văn hoá nước nhà. Và trong cuộc xâm lăng đó, phong kiến phương Bắc đã không thực hiện được nguyên vẹn ý đồ của chúng. Chúng đã vấp phải làn sóng đấu tranh kiên cường, ý chí đấu tranh quật khởi bảo vệ thành tựu văn hoá buổi đầu của cha ông. Tất nhiên cũng từ trong cuộc xâm lăng đó, văn hoá đất Việt đã bị giải thể ít nhiều. Song điều đáng ghi nhận là với bản chất thông minh, khôn khéo của những người con dân tộc, nền văn hoá Việt Nam không dẫm chân tại chỗ mà có sự giao lưu, tiếp biến những nét đẹp của văn hoá phương Bắc. Chính khuynh hướng tiến bộ bảo lưu tinh hoa truyền thống, giải Hán hoá, thâu tóm những đóng góp của yếu tố ngoại sinh đã tạo thành một dòng tạo mới, một cấu trúc văn hoá mới với tên gọi Văn hoá Đại Việt – Thăng Long: 18 Duy ngã Đại Việt chi quốc Thực thi văn hiến chi bang. (Bình Ngô đại cáo) Nền văn hoá Đại Việt được hình thành từ thế kỷ X và phát triển rực rỡ ở thế kỷ XV. Khi nước ta giành lại được độc lập dân tộc thì Phật giáo và Thiền là hai hệ phật giáo hưng thịnh nhất bấy giờ. Đến thời Đinh, Phật giáo trở thành nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho vua. Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Nho giáo đã bắt đầu du nhập, nho sĩ xuất hiện nhưng chưa nhiều. Đến thời Hậu Lê, triều đình Đại Việt đã biết dung hợp cả ba ý thức hệ Phật – Đạo – Nho. Đến thời Lý – Trần, ba ý thức hệ đó đã phục vụ một cách đắc lực cho đời sống tâm linh và cả đời sống thực tiễn. Cuối thế kỷ XIV, nhà Trần suy đồi. Hồ Quý Ly cướp ngôi, chưa trị vì được bao lâu thì lại bị giặc Minh quay trở lại chiếm đóng. Chúng biến nước ta thành quận Giao Chỉ cùng với đó là những chính sách văn hoá tàn bạo, man rợ không kém gì cuộc xâm lăng lần trước. Giữa thời buổi hoạn nạn bấy giờ xuất hiện thiên tài Nguyễn Trãi mà sau này trở thành người chiến sĩ xuất sắc trên nhiều mặt trận, trong đó có văn hoá. Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã kế tục và phát huy truyền thống “dân tộc và thân dân” thời Lý – Trần, cố gắng để khôi phục và phát triển nền văn hoá Đại Việt lên một bước mới. Đó là nền văn hoá yêu nước, tiến bộ, có tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, có giá trị hiện thực lớn, có tính chiến đấu rất cao, thể hiện một cách đầy đủ nhất, mạnh mẽ nhất chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thế kỷ XV [20, tr. 43]. Vậy Nguyễn Trãi đã làm gì để phục hưng nền văn hoá ấy? Đối với phong kiến phương Bắc, Nguyễn Trãi đã thi hành một chính sách ngoại giao hết sức cứng rắn nhưng cũng không kém phần mềm dẻo. Một mặt ông bác bỏ những chính sách đồng hoá của chúng (như chính sách không cho hát chèo ở cung đình, cấm múa hát lý liên trước xa giá…). Trong Bình Ngô 19 đại cáo, Nguyễn Trãi nhấn mạnh sự “dị thù” về cương vực lãnh thổ, về văn hoá giữa hai nước Việt – Hoa: Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc – Nam cũng khác. Nhưng mặt khác, Nguyễn Trãi cũng đánh giá cao nhiều biểu hiện của văn hoá Trung Hoa. Trên cơ sở của những hiểu biết về nền văn hoá đó, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều yếu tố tích cực trong hoạt động xây dựng văn hoá Đại Việt. Giữa một khuôn khổ của những chủ trương, chính sách mà Trung Hoa đưa ra chúng ta thấy: Ông dựa theo thể thức của thiên Vũ cống nổi tiếng của Trung Hoa thời xưa để viết nên Dư địa chí của nước nhà, sử dụng thể cáo và văn tự, điển cố Trung Quốc để xây dựng nên thiên Bình Ngô đại cáo, tranh cãi xem nên lựa chọn hoặc là thể chế nhà Chu ở phương Bắc để định ra chế độ âm nhạc và triều nghi của cung đình nước Việt, thậm chí dùng cả những chi tiết biểu đạt như “vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu thuấn” của văn hoá Trung Hoa để trình bày suy tư và ước vọng của mình [12, tr. 1011]. Đối với toàn thể dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi lại thi hành một chính sách đối nội tế nhị, khéo léo. Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi khuyên “Người nước ta không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm để làm loạn phong tục trong nước”. Ông coi trọng việc giáo dục, luôn giành thời gian và tâm huyết của mình vào việc răn dạy con cháu, các bậc tướng tá trong triều và ngay cả việc góp ý cho vua chúa. Ông đã từng tranh luận với Lương Đăng trong việc soạn nhạc. Ông cũng luôn có ý thức sử dụng nguồn thi liệu dân tộc vào việc sáng tác văn chương. Nguyễn Trãi tắm mình vào luồng văn hoá dân gian, gắn bó mật thiết với những sinh hoạt và truyền thống đó một cách thắm thiết nhất. 20 Nếu hoạt động chối từ sự đô hộ của nước ngoài, không chối từ phần đóng góp rất có thể là quan trọng về nhiều mặt của các yếu tố ngoại sinh trở thành đặc sắc hằng xuyên của đất Việt, văn hoá Việt, người Việt thì Nguyễn Trãi là một nhân vật hoạt động sôi nổi nhất, xuất sắc nhất. Giữa lúc nền văn hoá đang có sự phân luồng, giữa lúc cả dân tộc Việt Nam đang rơi vào tình trạng “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước” thì người chiến sỹ văn hoá đã xuất hiện. Ông trở thành “chiếc cầu, bắc nối giữa hai luồng văn hoá cung đình và dân gian” [12, tr. 1012]. Nguyễn Trãi đã sử dụng những thành tựu của văn hoá phương Bắc để bồi đắp cho nền văn hoá nước nhà thêm rực rỡ. Vượt ra ngoài phạm vi dân tộc, đóng góp của Nguyễn Trãi với thế giới cũng hết sức lớn lao. Nguyễn Trãi đã tạo điều kiện và thúc đẩy tư tưởng văn hoá nghệ thuật Nho giáo thời đại đạt đến độ thịnh trị, ảnh hưởng rộng rãi tới nhiều nước trên thế giới. Đánh giá cao vai trò đó, nhân dịp kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi (năm 1980), tổ chức Văn hoá – khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) đã ghi nhận Nguyễn Trãi là Danh nhân văn hoá thế giới. Đó là danh hiệu hoàn toàn xứng đáng, một vinh quang rực rỡ mà Nguyễn Trãi đã xây dựng cho nền văn hoá nước nhà. 1.2.2. Quốc âm thi tập – nhịp cầu nối thơ ca dân gian và thơ ca bác học Theo các tài liệu ghi chép để lại, Quốc âm thi tập không phải là tập thơ đầu tiên viết bằng chữ Nôm. Trước Nguyễn Trãi, vào thế kỷ XIII đã có Nguyễn Thuyên, Nguyên Sĩ Cố làm phú bằng thơ Nôm. Tuy nhiên những tác phẩm ấy vẫn còn ngượng nghịu, gượng ép, lúng túng trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh làm phương thức biểu đạt. Hơn nữa, những tác phẩm ấy hiện nay đều không còn. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc được giữ lại tới tận ngày nay. Xem xét vai trò của Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy đây là một tập thơ giữ vị trí quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan