PHẦN I – NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG
TRẦN VĂN THẠCH
Đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong các chính sách xã
hội ở nước ta hiện nay
ĐỖ PHÚ HẢI
Mối quan hệ giữa chính sách
công với chính trị ở nước ta
3
15
NGUYỄN HOÀNG QUY - LÊ ÁNH TUYẾT
Định hướng phát triển chính sách
công nghiệp xanh ở Việt Nam
28
BAN CHỈ ĐẠO
PGS,TS Phạm Minh Sơn
PGS,TS Nguyễn Thị Trường Giang
BAN BIÊN TẬP
TS Nguyễn Thanh Thảo
ThS Lê Thị Phương Hảo
ThS Vũ Thị Hồng Luyến
ThS Phạm Thị Thúy Hằng
ThS Nguyễn Thị Hải Yến
ThS Trương Thị Mỹ Linh
CN Nguyễn Thị Lay Dơn
Địa chỉ: 36 Xuân Thủy - Cầu Giấy - Hà Nội
Điện thoại: 024 38340041
Ảnh bìa: Nguồn internet
NGUYỄN HỮU ĐỔNG
39
ĐẶNG XUÂN HOAN
53
HÀ HUY PHƯỢNG
67
Xây dựng chính sách quốc gia kiến
tạo phát triển bền vững ở Việt Nam
Hoạch định chính sách công
trong nền kinh tế thị trường
Những nguyên nhân thường
thấy của khủng hoảng chính sách
NGUYỄN THỊ MINH HIỀN
Khai thác truyền thông xã hội
trong quy trình hoạch định
chính sách ở cơ quan nhà nước
Việt Nam trong kỷ nguyên 4.0
81
BẠCH TÂN SINH
Từ chính sách nghiên cứu
đến chính sách đổi mới tại
Việt Nam
100
VŨ CÔNG GIAO
Phương pháp tiếp cận dựa trên
quyền con người và khả năng
áp dụng vào hoạt động xây
dựng chính sách, pháp luật ở
Việt Nam hiện nay
124
LÊ VĂN HÒA
NGUYỄNVŨHOÀNG-NGUYỄNVĂNCHUNG
Giám sát xã hội ngăn ngừa hành
vi trục lợi trong hoạch định và
thực thi chính sách công
190
TRẦN THỊ THANH THỦY
Một số giải pháp cải thiện chất
lượng hoạch định chính sách
204
THÀO XUÂN SÙNG
Thực hiện tốt phương pháp
dân vận Hồ Chí Minh để hoạch
định chủ trương, chính sách
hợp lòng dân
217
Sự tham gia của các bên liên
quan trong hoạch định chính
BÙI HUY KHIÊN
sách công
144
Phòng, chống tham nhũng trong
PHẦN II – NÂNG CAO NĂNG LỰC
hoạch định chính sách công
227
HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU
HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
NGUYỄN THỊ THU VÂN
Công chúng thông minh - một
phương thức sử dụng công nghệ
NGUYỄN THỊ HÀ
mạng để thu hút sự tham gia của
người dân vào quá trình xây
Truyền thông trong chu trình
238
chính sách công
155 dựng chính sách
NGUYỄN TRỌNG BÌNH
NGUYỄNHOÀNGHIỂN-BÙITHỊTHÙYNHI
Quy trình hoạch định chính
Tư duy chiến lược trong hoạch
định chính sách quốc gia
166 sách và kiến nghị nhằm nâng
cao năng lực chính sách của
NGUYỄN VĂN TẠO
đại biểu Quốc hội
247
Một số giải pháp nâng cao
VĂN TẤT THU
chất lượng hoạch định chính
Bảo đảm sự tham gia của
sách của các cơ quan hành
người dân trong xây dựng
chính nhà nước cấp Trung
260
ương hiện nay
178 chính sách công ở Việt Nam
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
LỜI GIỚI THIỆU
Hoạch định chính sách công là khâu khởi đầu của chu trình
chính sách, được xây dựng thành quy trình, bao gồm trình tự các công
đoạn để hình thành, tạo nên từng chính sách công. Hoạch định chính
sách công khoa học, phù hợp, dựa trên cơ sở lý luận, thực tiễn, phản
ánh và đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của xã hội là tiền đề để chính
sách đó đi vào cuộc sống, phát huy giá trị và mang lại hiệu quả cao.
Sau hơn 35 năm Đổi Mới, công tác hoạch định chính sách công
đã không ngừng được hoàn thiện, nâng cao cả về số lượng và chất
lượng. Trong quá trình thực hiện vai trò, chức năng quản lý, điều hành
xã hội, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng, hoạch định và ban hành
nhiều chính sách công. Các chính sách công này cùng hệ thống chính
sách, giải pháp toàn diện, đồng bộ khác đã phát huy giá trị, hiệu quả
góp phần vào những thành tựu tăng trưởng, phát triển kinh tế và tiến
bộ, công bằng xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đã đạt được trong hoạch định chính sách công vẫn còn nhiều bất
cập, hạn chế dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Để góp phần làm rõ các yếu tố tác động đến quá trình hoạch
định chính sách công, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng
lực hoạch định chính sách công, chúng tôi sưu tầm, tuyển chọn một số
bài viết của các học giả, nhà nghiên cứu uy tín đăng trên các tạp chí
khoa học chuyên ngành, biên soạn ấn phẩm Thông tin chuyên đề số
04/2022 với chủ đề “Nâng cao năng lực hoạch định chính sách
công ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
1
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
Kết cấu thông tin chuyên đề gồm hai phần:
Phần I: Những yếu tố tác động đến hoạch định chính sách công
Phần II: Nâng cao năng lực hoạch định chính sách công trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Trong quá trình biên soạn ấn phẩm, chúng tôi có sử dụng một số
tài liệu từ các tạp chí và internet mà chưa có điều kiện xin phép trực
tiếp tác giả. Ấn phẩm chỉ sử dụng với mục đích làm tài liệu tham khảo
nội bộ, không vì mục đích kinh doanh. Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến các tác giả. Mặc dù Ban Biên tập đã hết sức cố gắng,
song trong quá trình biên tập, không tránh khỏi khiếm khuyết. Rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc.
Trân trọng cảm ơn!
BAN BIÊN TẬP
2
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
PHẦN I
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG
ĐẢM BẢO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
TS TRẦN VĂN THẠCH
Học viện Chính trị khu vực III
Thứ Sáu, 8/4/2022
(TG) - Xuyên suốt các kỳ đại hội, nghị quyết của Đảng đều
nhất quán quan điểm chỉ đạo: “Gắn kết chặt chẽ chính sách
kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân
được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc
đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước”.
Đ
ảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(1).
3
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
NHẬN THỨC VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Về nền kinh tế thị trường, đã được hình thành và phát triển từ lâu
trong lịch sử nhân loại. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác, kinh tế thị
trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ nền
kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con
đường phát triển; và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế
thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nấc thang
cao hơn chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa(2).
Như vậy, kinh tế thị trường là một nấc thang tất yếu, mang tính
phổ biến cho mọi quốc gia trong tiến trình phát triển, là thành quả của
văn minh nhân loại chứ không phải là sản phẩm riêng có của tư bản
4
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
chủ nghĩa như một số ý kiến ngộ nhận. Kinh tế thị trường đã phát triển
không duy nhất một mô hình mà đã phát triển theo các mô hình như:
(1) Mô hình kinh tế thị trường tự do, phổ biến ở các nước Tây Âu và
Bắc Mỹ; (2) Mô hình kinh tế thị trường - xã hội, phổ biến ở một số
nước ở Tây - Bắc Âu như Đức, Thụy Điển, Na uy, phần Lan…; (3)
Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Dù phát triển theo mô hình nào thì nền kinh tế thị trường đều
gắn với những quy luật mang tính đặc trưng sau đây:
Quy luật giá trị quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải
căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết; trao đổi theo nguyên tắc
ngang giá. Giá trị của sản phẩm/dịch vụ đều do thị trường định đoạt.
Người sản xuất kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một
đơn vị sản phẩm thấp hơn trung bình thì người đó có lợi nhất.
Quy luật cung - cầu là sự điều chỉnh của thị trường với một mức
giá cân bằng và một lượng giao dịch cân bằng sẽ được xác định.
Ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt
động một cách khách quan. Cầu xác định cung, những hàng hóa nào
được tiêu thụ thì mới được tái sản xuất. Cung cũng tạo ra cầu, kích
thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng, chủng loại
hàng hóa, hình thức, quy cách và giá cả của nó.
Quy luật cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể, các tổ chức
kinh tế trong việc giành giật thị trường và khách hàng và các điều kiện
thuận lợi trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực chất của cạnh
5
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị
trường. Kết quả cạnh tranh sẽ loại bỏ được các các cơ sở sản xuất, kinh
doanh yếu kém và giúp phát triển các cơ sở làm ăn có hiệu quả hơn.
Những quy luật nói trên của nền kinh tế thị trường vừa tạo ra
động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, vừa làm cho xã hội phân hóa
thành những tầng/lớp giàu nghèo khác nhau. Tầng lớp giàu có nắm
giữ lợi thế tiếp cận mọi nhu cầu, lợi ích của xã hội; tầng lớp nghèo
khó chịu nhiều thua thiệt trong việc thụ hưởng các nhu cầu cuộc sống.
Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam là phát triển
nền kinh tế thị trường để phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải
phóng sức sản xuất nhằm tạo tăng trưởng kinh tế không ngừng, bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu
xây dựng, được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định là một xã
hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới. Đây là hệ giá trị có tính bản chất của xã
6
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
hội xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội
chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Chẳng hạn, xã hội tư bản
có thể có điều kiện sống vật chất, tiện nghi rất cao; dân có thể giàu,
nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất của chế độ xã hội tư bản, ở
đó không thể có công bằng và dân chủ: nhà nước là nhà nước tư sản;
giàu có là cho nhà tư bản; sự giàu mạnh có được bằng quan hệ bóc lột.
Trong xã hội như vậy, người dân không thể là chủ và làm chủ xã hội(3).
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG CÁC
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng
và Nhà nước Việt Nam hướng đến là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội
nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển
của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy
luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối
bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba
mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)(4).
Như vậy, đã phát triển kinh tế thị trường thì phải tuân theo sự
vận động của các quy luật thị trường. Những người tham gia vào quá
7
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
trình sản xuất, kinh doanh cùng đón nhận những cơ hội lẫn thách thức
phải đương đầu; có cơ may thành công lẫn nguy cơ thất bại; giàu lên
hay nghèo đi có thể xảy ra. Phát triển kinh tế thị trường vừa tạo ra
động lực, phát huy mọi nguồn lực để phát triển nền kinh tế nhanh,
mạnh; vừa làm cho xã hội phân hóa, phân tầng theo các tầng/lớp khác
nhau về tài sản, mức sống, điều kiện sống, lối sống, văn hóa… Nếu để
cho quá trình này diễn ra tự nhiên thì xã hội ngày càng bị phân hóa,
phân cực giàu - nghèo gay gắt; các tầng lớp yếu thế trong xã hội càng
gặp khó khăn, cùng quẫn; nguy cơ bất ổn xã hội ngày càng cao.
Các đại biểu biểu quyết tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo, quản lý của
Đảng và Nhà nước có ý nghĩa quyết định. Một trong những công cụ cơ
bản nhất, đó là thực thi các chính sách xã hội. Với việc thực hiện đồng
bộ, hiệu quả các chính sách xã hội theo phương châm: khuyến khích làm
8
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
giàu hợp pháp đi đôi với nhiệm vụ giúp đỡ, tạo điều kiện cho người
nghèo cùng vươn lên trong cuộc sống bằng việc thực thi hàng loạt các
chính sách hỗ trợ về giáo dục - đào tạo, y tế, lao động, việc làm,vv... là
cách làm giúp cho các giai tầng xã hội xích lại gần nhau, góp phần giảm
thiểu khoảng cách chênh lệch giữa các tầng/lớp người trong xã hội;
hướng đến mục tiêu bình đẳng, tiến bộ, phát triển toàn diện…
Ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới toàn diện, Đảng đã rất chú
trọng đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã
hội để hướng đến mục tiêu công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội;
đặc biệt, đến Đại hội XIII, lần đầu tiên trong Văn kiện, Đảng đã xác
định rõ, chính sách xã hội là phương tiện/công cụ định hướng xã hội
chủ nghĩa, với quan điểm: “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội”(5).
Trong bài viết luận bàn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Việt Nam, đã luận giải rằng:“Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính
quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường
ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh
tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và
trong suốt quá trình phát triển”(6).
Vậy là, trong hoạch định và thực thi các chính sách thì phải đặc
biệt chú ý đến đặc điểm cơ bản của mối quan hệ giữa chính sách xã
hội với chính sách kinh tế là sự thống nhất biện chứng của chúng.
Chính sách xã hội và chính sách kinh tế tuy có mục tiêu riêng - mục
9
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
tiêu tự thân của nó, song lại có chung mục tiêu là nhằm phát triển xã
hội. Vì vậy, mọi chính sách xã hội và chính sách kinh tế đều hướng
vào mục tiêu trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con
người, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho con người. Mỗi chính sách kinh
tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội
phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Đây là một yêu
cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, hợp lý sẽ tạo ra điều
kiện, tiền đề vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội. Chính sách xã
hội được xây dựng mà không tính đến khả năng của nền kinh tế, hoặc
không quan tâm đến lợi ích kinh tế thì sẽ cản trở kinh tế phát triển,
triệt tiêu yếu tố kinh tế. Nhưng nếu lấy tăng trưởng kinh tế làm mục
tiêu tối thượng thì dẫn đến chỗ khoét sâu những ngăn cách xã hội.
Tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết được tất cả các vấn đề
xã hội và dẫn tới tiến bộ xã hội. Để đạt đến mục tiêu tiến bộ xã hội thì
phải thông qua chính sách xã hội, phải kết hợp chính sách kinh tế với
chính sách xã hội.
Vì vậy, phải xác lập mối quan hệ hợp lý giữa chính sách xã hội
với chính sách kinh tế làm sao để hai mặt đó trở thành tiền đề của
nhau. Văn kiện qua các kỳ Đại hội của Đảng đều khẳng định: Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Không phát triển
kinh tế với bất cứ giá nào, bất chấp hậu quả xã hội ra sao. Thông
thường, sai lầm về kinh tế có thể khắc phục được sau một thời gian
10
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
ngắn, có thể sau một vài chu kỳ sản xuất; nhưng những hậu quả về
mặt xã hội có thể đánh đổi hàng trăm năm chưa chắc khắc phục được.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (Nguồn: vtv.vn)
Xuyên suốt các kỳ đại hội, nghị quyết của Đảng đều nhất quán
quan điểm chỉ đạo: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính
sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn
thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước”(7).
Như vậy, chủ trương “phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa” của Đảng và Nhà nước Việt Nam không phải là một
giải pháp mang tính tình thế, một ý tưởng nhất thời mà là đường lối
phát triển đất nước được hoạch định và trù liệu công phu, kỹ lưỡng,
được dựa trên cơ sở lý luận vững chắc và phù hợp với tình hình thực
tiễn. Là một mô hình phát triển mới lạ nhưng qua tổng kết thực tiễn và
11
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
nghiên cứu lý luận, Đảng và Chính phủ đã ngày càng nhận thức đúng
đắn hơn, sâu sắc hơn và đề ra quyết sách chính xác hơn.
Là một nước đi ra từ các cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài vô
cùng tàn khốc, với xuất phát điểm nghèo nàn, lạc hậu (thuộc nhóm
nước chậm phát triển), nhờ thực hiện đường lối: Phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đã ra khỏi nhóm
nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Trong 35 năm đổi mới vừa qua,
kinh tế tăng trưởng liên tục, trung bình khoảng 7% mỗi năm; tỉ lệ hộ
nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn dưới 3% năm 2020 theo
tiêu chuẩn nghèo đa chiều. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết
đọc, biết viết; người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi đều
được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng
từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Hiện Việt Nam có
khoảng 70% dân số sử dụng Internet, thuộc nhóm nước có tốc độ phát
triển công nghệ tin học cao nhất thế giới; chỉ số phát triển con người
(HDI) năm 2019 của Việt Nam đạt mức 0,704 (so với các nước có
cùng trình độ phát triển thì nước ta thuộc nhóm nước có HDI cao của
thế giới), lần đầu tiên vào nhóm các nước phát triển con người cao và
xếp thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo Báo cáo phát triển
bền vững 2020, Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á duy nhất đạt được
năm mục tiêu hành động của Liên hiệp quốc (trong đó có các biện
pháp giảm khí thải CO2, thúc đẩy năng lượng tái tạo và nâng cao khả
năng chống chịu với biến đổi khí hậu). Đời sống nhân dân được cải
thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; các mặt chính trị, xã hội ổn
định; quốc phòng, an ninh được bảo đảm…
12
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
“Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với
tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(8).
Khi đại dịch Covid -19 diễn biến phức tạp, nhất là biến chủng
Delta lây lan với tốc độ nhanh trên nhiều tỉnh/thành của cả nước thì
Đảng và Chính phủ đã đưa ra các quyết sách trên tinh thần nhân văn
cao cả, đó là hi sinh tăng trưởng kinh tế để cứu người. Nếu không
thẩm thấu tinh thần, lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội thì không
có những chủ trương, quyết sách thấm đẫm tinh thần nhân văn, nhân
bản vì con người như vậy.
Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội nói trên vừa khẳng
định đường lối đúng đắn cùng sự lãnh đạo, quản lý tài tình của Đảng
13
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
và Nhà nước; vừa là minh chứng để đập tan mọi loại quan điểm sai
trái, thù địch.
Đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thực sự là một đột phá tư duy rất cơ bản và sáng tạo của Ðảng,
là thành quả phát triển lý luận và thực tiễn của Việt Nam qua quá trình
đổi mới toàn diện đất nước
——————————
(1). Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20112020, tr.86
(2) Bộ Nội vụ: Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch lên chuyên viên cao cấp
khối Đảng, Đoàn thể năm 2015 (Chuyên đề 7)
(3) Nguyễn Văn Huyên (2015), Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội XI của
Đảng; https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioithieu-van-kien-dang/dac-trung-co-ban-cua-xa-hoi-xa-hoi-chu-nghia-o-vietnam-theo-tinh-than-dai-hoi-xi-cua-dang-gs-ts-nguyen-864
(4) (6) (8) Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-vathuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-oviet-nam-646305/
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2021, t1, tr.147
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2016, tr.134-135.
Nguồn: https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/
dam-bao-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-trong-cac-chinh-sach-xa-hoi-onuoc-ta-hien-nay-138415
14
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH SÁCH CÔNG VỚI
CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA
PGS, TS ĐỖ PHÚ HẢI
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Tóm tắt: Mối quan hệ giữa chính sách công với chính trị là
mối quan hệ phức tạp giữa những vấn đề chính sách cụ thể
trong phát triển kinh tế - xã hội về hệ thống chính trị với thể
chế chính trị và các tổ chức chính trị. Chính sách công tốt sẽ
mang lại kết quả và tác động tích cực đến lợi ích quốc gia và
người dân, do đó đặt ra yêu cầu nâng cao năng lực chính sách
công. Bài viết nghiên cứu phân tích mối quan hệ giữa chính
sách công với chính trị từ thực tiễn Việt Nam.
Từ khóa: chính trị; chính sách công; chính trị chính sách công
Abstract: Public policy relations with politics are the complex
relationship between specific policy issues in socio-economic
development and political systems with political institutions and
political organizations. The concept of public policy is that the
product of the political process is not quite right and that policy is
the problem and the product itself. Good public policy will bring
positive results and benefits to national interests and the interests
of the people, thus posing a requirement for enhancing public
policy capacity. The paper analyzes the relationship between
public policy and politics from the systematization of theoretical
issues and analyzes this relationship in Vietnamese realities.
15
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
Keywords: politics; public policy; public policy politics
Ngày nhận bài: 02/11/2018 Ngày sửa bài: 06/11/2018 Ngày duyệt đăng: 03/12/2018
1.
Đặt vấn đề
Chu trình chính sách công luôn nằm trong môi trường
chính trị. Theo các nhà khoa học chính trị, “chính sách công là
sản phẩm của chính trị” [1], trong đó chứa đựng những tư tưởng và tri
thức, sức ép của chính trị, cấu trúc xã hội, đặc điểm văn hóa, dư luận
xã hội, mối quan hệ xã hội...
Mối quan hệ giữa chính sách công với chính trị thực sự là mối
quan hệ phức tạp, có thể xem xét những luận điểm khoa học dưới đây:
Cốt lõi của chính trị là giành, giữ và phân chia quyền lực; cốt lõi của
chính sách công là phân chia lợi ích. Vậy, để phân tích mối quan hệ giữa
chính sách công với chính trị có quan hệ với nhau như thế nào, đó chính
là việc phân tích mối quan hệ giữa phân chia quyền lực và lợi ích [3].
Đây có lẽ là cách tiếp cận phù hợp nhất trong nghiên cứu chính sách
công trong chính trị học. Mối quan hệ giữa quyền lực và lợi ích được các
nhà nghiên cứu chính sách công phân tích tương đối chặt chẽ. Bầu cử,
đảng chính trị, nhóm lợi ích, mối quan hệ “tam giác thép” giữa nhà chính
trị trong các cơ quan dân cử, công chức nhà nước trong các cơ quan chức
năng, nhóm lợi ích bên trong và bên ngoài được phân tích đầy đủ.
Dẫu vậy, trong bối cảnh chính trị nước ta, cần thiết có những
nghiên cứu về mối quan hệ giữa chính sách công với chính trị (hệ thể
chế chính trị và chính sách công, tổ chức bộ máy và chính sách công,
hiến pháp và chính sách công, vị trí và vai trò các tổ chức chính trị và
16
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 4/2022
chính sách công), chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
chính sách công, đặc biệt tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách công,
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và chính sách công, kinh tế thị
trường - định hướng xã hội chủ nghĩa và chính sách công, vai trò nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chính sách công, sự tham gia
của nhân dân và tổ chức nhân dân (xã hội) trong chính sách công [2].
Có hai quan điểm khác nhau, như trên đã bàn: một là, của nhà
chính trị, coi chính sách công là sản phẩm của chính trị; hai là, của nhà
khoa học chính sách công coi chính sách công là sản phẩm của chính nó.
Trong cách tiếp cận thứ nhất, sản phẩm của bầu cử là sự lựa chọn chính
sách, tuy nhiên không phải lúc nào cũng như vậy, có quá nhiều yếu tố
ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách hậu bầu cử mà nhà chính trị
không thể thực hiện lời hứa trước bầu cử, mặc dù có nỗ lực hết sức.
Chẳng hạn, chương trình Obamacare của cựu Tổng thống Mỹ Obama
hoặc chương trình an sinh xã hội của Tổng thống Nga Putin. Trong cách
tiếp cận thứ hai, chính sách công là vấn đề mà nhà nước, người dân và
doanh nghiệp phải hướng đến thực hiện, vấn đề khó khăn, trở ngại của
xã hội cần phải giải quyết. Trong cách tiếp cận này, trong mối quan hệ
giữa chính sách công với chính trị học cũng phù hợp trong bối cảnh này.
Từ hoạch định, xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công đều
liên quan đến đảng chính trị, hệ thống chính trị và thể chế chính trị...
2. Lý luận về mối quan hệ chính sách công với chính trị
Từ khi xuất hiện nhà nước đến nay, các hoạt động hay động thái
chính trị đều có liên quan và gắn bó mật thiết với chính sách và ngược
lại các chính sách do nhà nước đề ra là phục vụ mục tiêu chính trị,
17
- Xem thêm -