SKH. LÊ DOÃN DIÊN
DB.00 674
me
A
CAO
cm L u ọ m
LÚA CẠO
PHIIC n T û t M H VA XIÁT KHÁI
GS.TSKH. LÊ DOÃN DIÊN
NÂNGCAOCHẤI LƯỢNG
LÚ A GẠO
PHỤG VỤ TIÊU DÙNG
VÀ XUẤT KHẨU
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI - 2003
Lời cảm ơn
Tác giả của cuốn sách này xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc của mình đối với các nhà khoa học và các
cán bộ của Trung tâm Tư vấn Đầu tư nghiên cứu Phát
triển nông thôn Việt Nam (INCEDA) đã giúp đỡ tác
giả rất nhiều trong tiến trình soạn thảo cuốn sách này.
Đặc biệt, tác giả xin chân thành cảm ơn KS. Lê
Thị Bích Nga đã tận tình giúp đỡ tác giả trong việc
đánh máy bản thảo của cuốn sách trên m áy vi tính.
Tác giả
GS.TSKH. LÊ DOÃN DIÊN
3
THAY CHO LỜI TỰA
Như chúng ta đã biết, trên thế giới lúa gạo được xếp hàng thứ hai
sau lúa mì về diện tích gieo trồng, nhưng đứng trên quan điểm dinh
dưỡng mã xét thì lúa gạo đã cung cấp số calo tính trên đơn vị ha nhiều
hơn so với bất kỳ một loại ngũ cốc nào, kể cả lúa mì. Trong các khẩu
phần dinh dưỡng của các nước châu Á, kể cả Việt Nam, gạo đã cung
cấp 40 - 80% lượng calo và đã cung cấp ít nhất là 40% lượng protein.
So với protein của các loại hạt ngũ cốc khác, protein của lúa gạo có giá
trị dinh dưỡng cao vì tính cân bằng của các aminoacid không thể thay
thế (essential aminoacids) và vì độ tiêu hóa của protein này rất cao (có
thể lên tới 100%).
Ngoài ra, đứng về mặt xã hội mà xét thì nghề trồng lúa và công
nghệ sản xuất lúa gạo, trong đó kể cả công nghệ sau thu hoạch lúa
gạo, đã tạo công ản việc làm cho cộng đổng lớn nhất của nhân dân
trong vùng nông thôn trên hành tinh của chúng ta.
Khoảng 80 - 100 triệu người tăng thêm hàng năm yêu cầu được
cung cấp lương thực, phân bón lại ở những nước kém phát triển và
nghèo. Theo tiến sĩ Lampe, nguyên Tổng giám đốc Viện lúa quốc tế
IRRI, trong ba mươi năm tới dự đoán mỗi năm sẽ cẩn khoảng 870
triệu tấn thóc chưa xay, tăng hơn hiện nay 70%.
Tuy nhiên, việc sản xuất thêm lượng thóc gạo này phải thực hiện
trên diện tích như cũ hoặc thậm chí trên diện tích nhỏ hơn trong tổng
số đất đai do việc giảm diện tích trồng lúa. Đất đai trồng lúa ban đầu
đang bị mất đi do việc công nghiệp hóa và thành thị hóa ở những nước
châu Á phát triển nhanh. Nếu sự lo ngại về môi trường dẫn đến những
chính sách loại bỏ những vùng đất đai ở rìa không sản xuất lúa và thúc
đẩy nhanh việc chuyển đổi từ hệ thống trồng trọt thâm canh sang hệ
thống trồng trọt ít thâm canh hơn thì diện tích trồng lúa sẽ còn tụt
xuống nhanh hơn nữa.
Trong những điều kiện hạn chế đó, có hai đường hướng để làm
tàng tổng sản lượng lúa gạo, chúng phải thực hiện đổng thời để đảm
bảo việc tăng sản lượng lúa ở châu Á, nhằm đáp ứng kịp thời với việc
5
tăng dân số. Thứ nhất, tăng năng suất bằng cách tạo giống, tuyển chọn
và sử dụng nhũng giống lúa mới được kiến tạo nên bằng kỹ thuật di
truyền hay còn gọi là công nghệ gen (genetic engineering) có năng
suất cao, chất lượng tốt và có khả năng chống chịu cao đối với sâu
bệnh và đối với các điều kiện bất lợi của môi trường. Thứ hai, giảm
mức độ hao hụt trong sản xuất và trong các hoạt động sau thu hoạch,
đặc biệt là khâu bảo quản, xay .xát, chế biến lúa gạo.
Một số nhà khoa học đã dự báo rằng 50 năm sắp tới nhân loại sẽ
tiẽu thụ lương thực, thực phẩm với một số lượng giống như nhân loại
đã tiêu thụ trong 10.000'năm qua.
Người ta cũng đã dự báo rằng Thái Lan sẽ ữở lại lập kỷ lục xuất
khẩu 7,5 triệu tấn gạo vào cuối năm 2003 sau khi tụt xuống mức 7
triệu tấn vào năm 2002 và Việt Nam cũng sẽ tăng lượng gạo xuất khẩu
vào cuối năm 2003 lên 3,9 triệu tấn.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thiết lập chi tiêu sản
xuất 33 triệu tấn lúa gạo trên tổng số 4 triệu ha gieo trồng đồng thời
Bộ cũng đã nhấn mạnh năm 2003, một số lượng lớn diện tích trồng lúa
sẽ được gieo trồng các giống có chất lượng cao và chú trọng đến việc
tăng năng suất bình quân trên đơn vị ha trong phạm vi cả nước. Đó là
những chủ trương hoàn toàn đúng đắn và hoàn toàn khả thi.
Cần nhấn mạnh rằng gạo "cao cấp" có nguồn gốc từ Nhật Bản vốn
được sản xuất tại Việt Nam đang được nhiều người tiêu dùng trong và
ngoài nước ưa chuông và hiện nay được bán ra với số lượng trung bình
là 7000 tấn/năm.
.
Tại thị trường Việt Nam, loại gạo này có giá trung bình là
13.000đ/kg (gấp gần 2 lần so với gạo Tám thơm của Việt Nam).
Theo số liệu điều tra ban đầu, hiện nay loại gạo này chủ yếu được
bán tại các siêu thị với sức tiêu thụ nội địa bình quân 15 tấn/tháng.
Cộng đồng người Nhật ở Việt Nam với con số 3000 người - chiếm
phần không nhỏ trong số những người tiêu thụ loại gạo này ở Việt
Nam. ớ nước ngoài, loại gạo cao cấp này đang được tiêu thụ tại Nhật
6-
Bản, Singapore, Hồng Kông, v.v... với mức giá ưung bình là 5 - 6
USD/kg.
Tất cả nhũng điểu vừa nêu ở trên đã khẳng định vị trí và vai trò của
vấn đề chất lượng các sản phẩm nông nghiệp nói chung và của lúa gạo
nội riêng trong chiến lược dinh dưỡng và chiến lược an ninh lưcmg
thực, thực phẩm (food security) và an toàn lương thực, thực phẩm
(food safety) trên phạm vi toàn thế giới cũng như đối với nước ta.
Chất lượng lúa gạo trước kia cũng như hiện tại và trong tương lai
đã, đang và sẽ đóng một vai trò càng ngày càng quan trọng trong sản
xuất, thương mại và tiêu dùng, đặc biệt là trong công tác xuất khẩu.
Để góp phần khiêm tốn của mình trong việc cải thiện và nâng cao
chất lượng lúa gạo Việt Nam phục vụ kịp thời những đòi hỏi hết sức
bức xúc của sản xuất và đời sống, tác giả mạnh dạn soạn thảo cuốn
sách này vói tiêu dề: "Nâng cao c h ứ lượng lúa gạo phục vụ tiêu
đùng và xuất khẩu".
Vì trình độ chuyên môn có hạn, cho nên về hình thức và nội dung
của cuốn sách chắc còn có thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của các độc giả
Hà nội - 2003
GSTSKH. LÊ DOÃN DIÊN
7
CHƯƠNGI
MÔT s ớ KHÁI NIỆM c ơ BẢN
VỀ CHẤT LƯỢNG LÚA GAO
1.1. HÌNH THÁI CỦA HẠT THÓC (GRAIN MORPHOLOGY)
Tên khoa học của cây lúa là Oryzae sativa L. thuộc họ hòa thảo
Graminae.
Hạt thóc hay còn gọi là hạt lúa (paddy, rough rice) bao gồm gạo
lật (brown rice - caryopsis) và trấu vốn bao bọc quanh gạo lật (hình 1).
Trấu chiếm khoảng 20% trọng lượng hạt thóc. Thành phần của ưấu
bao gồm cellulose (25%), lignin (30%), pentosan (15%) và tro (21%).
Tro của trấu chứa khoang 95% silic. Do trong trấu có lượng lignin và
silic cao cho nên trấu có giá trị dinh dưỡng và giá trị thương phẩm
thấp.
Gạo lật chủ yếu bao gồm phôi (embryo) và nội nhũ (endosperm).
Vỏ quả (pericarp) chứa một sô' lớp mỏng của các mô đã biệt hóa vốn
bao bọc xung quanh phôi và nội nhũ (hình 2). Mày hoa (palea), mày
dưới, mày ngoài (lemmas) và trục (rachilla) đã tạo nên vỏ trấu của các
giống lúa dòng Indica. Tuy nhiên, trong các giống lúa dòng japónica,
vỏ trấu thường bao gồm các mày phôi thai không hoàn thiện và có thể
có một phần cuống hoa (pedicel). Trọng lượng khô của một hạt thóc
thường nặng trong khoảng 10 và 45 mg. Chiều dài, chiều rộng và độ
mảnh (thickness) của hạt thóc thay đổi trong một giới hạn rất rộng tuỳ
theo giống lúa (bảng 1).
Theo ý kiến của Juliano B.o và cộng sự (1964) khối lượng các
phần khác nhau cíia hạt thóc được phân chia như sau: vỏ: 1 - 2%; tầng
alơron: 4 - 5%; phôi: 2 - 3% và nội nhũ: 89 - 94%.
8
Hình 1. Cấu trúc của hạt thóc
1. Gạo lật 2. Mày hoa 3. Mày ngoài 4. Trục 5. Mày ngoài vô sinh
6. Mày phôi thai và một phần cuống hoa
Mày và mày hoa
Nội nhũ chứa tinh bột
Lớp alơron
Vỏ hạt
|4Lớp lai
Vỏ quả 4 Vỏ quả giữa
cVỎ quả ngoài
Vỏ trấu (mày và mày hoa)
'Lả chắn
Epiblast
Phôi , Chồi mầm
''Rễ mầm
Mày không hoa
Hình 2. Cấu trúc bên trong của hạt gạo
9
Kích thước và hình dạng hạt thóc cũng như hạt gạo là chỉ tiêu chất
lượng bề ngoài quan trọng của gạo và trong việc buôn bán và thương
mại, thường thường gạo được phân loại dựa trên kích thước (size) và
hình dạng (shape)hạt gạo và độ đồng đều (uniformity) của gạo.
1.2. THÀNH PHẨN HÓA HỌC CỦA THÓC GẠO
Căn cứ theo thành phần hóa học thì thóc gạo thuộc vào nhóm các
loại hạt có hàm lượng tinh bột cao. Thành phần hóa học của thóc gạo
bị thay đổi tuỳ theo các điều kiện đất đai, khí hậu, địa điểm gieo trồng,
tuỳ theo các đặc tính về giống cũng như tùy theo chế độ nước. Hàm
lượng protein trong những điều kiện đó thay đổi trong giới hạn từ
6,96% đến 10,43%; hàm lượng tinh bột thay đổi từ 72,11% đến
80,44%; hàm lượng tro thay đổi từ 4,68% đến 6,93%, hàm lượng
cellulose thay đổi từ 8,74% đến 12,23% so vói chất khô.
Trên bảng 1 đã trình bày thành phần hóa học của gạo lật, gạo xát
và cám nhằm làm ví dụ minh họa.
Bảng 1. Thành phần hóa học (tính theo trọng lượng khô) của
gạo lật, gạo xát và cám
Cấù tử
(1)
Tinh bột (%
anhydroglucose)
Amylose (%)
Đường tổng sô' (%
glucose)
Xơ thô (%)
Xơ tiêu hóa được (%)
Chất béo thô (%)
Protein thô (%)
Tro thô (%)
10
Gao lât
(0-100%)a
(2)
75.9
30.8
1.3
0.8
1.9
3.3
8.4
1.5
Gao xát
(90-100%)<3
(3)
89.8
-
Cám
(0-6% )ữ
(4)
9.7
32,7
0.4
6.7
6.4
0.Ị
0.7
9.7
28.4
22.8
15.7
0.6
7.7
0.56
10.6
(1)
Phospho (%)
Phospho phytin (%)
Sắt (mg/100g)
Kẽm (mg/100g)
Lysine (g/16g N)
Threonine (g/16g N)
Methionine + cystine
(ß/16g N)
Tryptophan (g/16g N)
(2)
0.27
0.14
2.0
2.1
4.1
3.7
(3)
0.09
0.03
0.67
1.3
3.8
3.7
(4)
1.7
1.1
15.7
10.9
5.6
4.1
4.7
4.9
4.7
1.2
1.2
1.2
a: Tiểu phần xát lớp sần sùi của gạo lật (% trọng lượng).
Nguồn: Eggum B-O. 'The nutritional value of rice in comparaison with
other cereals". In "Proceedings ofthe workshop on Chemical aspects of rice
grain quaỉity", 1RRI, 1979, 91-111.
Người ta biết rằng phần lớn protein, lipid, chất khoáng và vitamin
đều tập trung ở các lớp ngoại vi của hạt gạo, chủ yếu tập trung ở các tế
bào của lớp alơron và của phôi. Phần trung tâm cùa hạt gạo chủ yếu
được tạo thành từ các hạt tinh bột với một lượng ít ỏi lipid, protein và
các chất khoáng. Các hạt tinh bột của hạt gạo rất phức tạp vể cấu tạo,
đa diện vê hình dạng, kích thước của chúng giao động từ 2 đến 10
micron. Cấc hạt tinh bột đều được sắp xếp bên trong các khuôn protein
của nội nhũ.
Tinh bột gạo chiết xuất được, ngoài polysaccharide, còn bao gồm
một số ít protein và lipid.
Phần glucide của tinh bột được tạo thành từ hai polysaccharide vốn
khác nhau về cảc tính chất vật lý và các tính chất hóa học: amylose có
cấu tạo mạch thẳng vốn được tạo thành từ các gốc a-D-glucose liên
kết với nhau bằng liên kết glycoside a-1,4 và amylopectin có cấu tạo
phân nhánh vốn được tậo thành từ các gốc a-D-glucose liên kết với
nbaịĩ bầtìgliên kết glycoside a-1,4 và liên kết glycoside a-1,6.
Trên hình 3 và hình 4 đã trình bày cấu tạo cùa amylose và
amylopectin.
11
5A
io,6A
Hình 3. Cấu tạo của phân tử amylose
Hình 4. Cấu tạo của phán tủ amylopectin
Vì tinh bột là cấu từ chính của gạo, cho nên sự thay đổi các tính
chít lý - hóa học và thành phần của tinh bột đều được phản ánh ở ngay
các tính chất công nghệ và tính chất nấu nướng của gạo.
Saccharose là cấu tử chính của các glucidẹ hòa tan. Saccharose tập
trung chủ yếu ở phôi. Glucose và đặc biệt là fructose đều »có mặt trong
hạt gạo ở nhũng lượng tương đối ít. Hàm lượng glucose trong hạt gạo
giao động trong giới hạn từ 0,03 đến 0,14%, còn saccharose thì giao
động trong giới hạn từ 0,50 đến 1,36% tính theo chất khô.
12
Hàm lượng và thành phần của protein hạt gạo là chỉ tiêu chất lượng
quan trọng của gạo. Người ta đã xác nhận rằng trong gạo có 4 nhóm
protein căn cứ theo sự phân loại của Osbome dựa trên tính hòa tan của
chúng trong các dung môi khác nhau. Bốn nhóm protein đó là
albumin, globulin, prolamin và glutelin.
Albumin Ịà những loại protein hòa tan trong nước. Albumin bị
đông vón bởi nhiệt.
Globulin là những loại protein không hòa tan trong nước cất, trong
nước tinh sạch (pure water) nhưng hòa tan trong các dung dịch muối
loãng và không hòa tan trong các dung dịch muối ở các nồng độ cao.
Prolamin là những protein hòa tan trong dung dịch rượu ethanol
70%.
Glutelin là những protein hòa tan trong dung dịch acid loãng hoặc
trong dung dịch kiềm loãng.
Tuy nhiên, sự phân loại dựa theo tính hòa tan trong các dung môi
khác nhau này chỉ mang tính tương đối, chứ không hoàn toàn chính
xác vì người ta đã phát hiện thấy rằng prolamin có thể hòa tan trong
nước ở một mức độ có giới hạn, đặc biệt là trong nước có lực ion thấp
hoặc trong gạo cũng có loại protein không hòa tan trong các dung dịch
kiềm loãng hoặc trong dung dịch acid loãng. Vậy loại protein này là
một phân nhóm đặc biệt (special subgroup) của glutelin hay là một
nhóm protein riêng biệt nào khác? Rõ ràng là cần phải có những
phương pháp phân loại khác tốt hơn, chính xác hơn. Tuy nhiên, tất cả
các đề xuất dùng cảc dung môi khác, kể cả các dung môi chứa sulfite
hoặc mercaptoethanol, để chiết xuất protein gạo cho đến nay đều
không có kết quả.
Do đó, hiện nay người ta vẫn sử dụng tính hòa tan của bốn nhóm
protein trong các dung môi tương ứng với tư cách là sự phân loại sơ bộ
và sau đó sẽ nhận dạng các loại protein một cách chính xác và tỉ mỉ
dựa vào phương pháp điện di (electrophoresis), phương pháp tiêu cự
đẳng điện (isoelectric focusing), phương pháp lọc gel (gel filtration) và
dựa vào những kỹ thuật phân tích khác nhằm tách và phân lập các loại
protein.
13
Nhìn chung, mỗi một nhóm protein (albumin, globulin, prolamin
và glutelin) đểu có các phân nhóm (subgroups).
Hàm lượng protein của lúa gạo nói chung thấp hơn các loại hạt cốc
khác. Hàm lượng protein được tính toán bằng cách nhân hàm lượng
nitơ với hệ số 5,95 (N X 5,95). Hệ số này thấp hơn so với các hệ sô' của
các loại hạt cốc khác (ví dụ hệ số của ngô là 6,25) nhưng lại cao hơn
hệ số của lúa mỳ (hệ số của lúa mỳ là 5,7).
Việc chiết xuất protein của gạo theo phương pháp của Osbome
như vừa nêu ở trên đã chứng tỏ rằng glutelin (hay còn gọi là oryzenin)
là tiểu phần chủ yếu của protein gạo chiếm khoảng 80% của protein
tổng số trong gạo. Oryzenin được hình thành từ ba tiểu đơn vị
(subunits)vốn được liên kết với nhau bằng các liên kết disulfide (-S-S-).
Hàm lượng prolamin trong gạo tương đối thấp (~ 3 - 5%).
Người ta thường dùng NaOH 0,1% để hòa tan và chiết xuất
glutelin. Như trên đã nói, hàm lượng protein trong hạt gạo không lớn
và chịu những giao động rất lớn tùy theo giống, địa điểm gieo trồng,
năm gieo trồng, tùy theo kỹ thuật canh tác và chăm sóc (phân bón,
nước tưới...) cũng như tuỳ theo các điều kiện trong quá trình lúa chín.
Protein phân bố không đều trong hạt gạo. Hàm lượng álbumin và
globulin bị giảm dần từ ngoại vi vào trung tâm cùa hạt, còn hàm lượng
glutelin thì tăng dần từ ngoại vi vào ữung tâm của hạt. Prolamin được
phân bô' đồng đều nhất.
Mặc dù hàm lượng protein trong gạo tương đối khôhg cao nhưng
chúng có giá trị sinh học cao nhất so với các hạt cốc khác. Protein của
gạo có đủ 19 aminoacid thường gặp và 2 amide của glutamic acid vấ
aspartic acid tức là glutamine và asparagine. Trong thành phần
aminoacid của protein gạo cũng có mặt 8 aminoacid không thể thay
thế (essential aminoacid).
14
Tám aminoacid không thể thay thế có tên gọi như sau: ỉysine,
threonine, methionine, valine, leucine, isoleucine, phenylalanine và
trytophan.
Các aminoacid của protein gạo đều được phân nhóm bởi đặc tính
của gốc R của chúng:
R -C H -C O O H
G&R I
nh2
Công thức tổng quát của am inoacid
Căn cứ vào đặc tính của gốc R, người ta đã chia các aminoacid
thành 4 nhóm như sau:
• Nhóm acid (acidic group). Nhóm này gồm có glutamic acid và
aspartic acid.
• Nhóm kiềm (basic group). Nhóm này gồm có lysine, histidine,
arginine và tryptophan.
• Nhóm trung tính (neutral group) có tính ưa nước (hydrophilic).
Nhóm này gồm có glutamine (amide của glutamic acid), asparagine
(amide của aspartic acid), serine và threonine.
• Nhóm trung tính (neutral group) có tính ghét nước
(hydrophobic). Nhóm này bao gồm valine, leucine, isoleucine, alanine,
phenylalanine, tyrosine, cysteine, cystine, proline, methionine,
glycine.
Trên bảng 2 đã trình bày các nhóm aminoacid dựa trên diện tích và
dộ ghét nước (hydrophobility) của chúng.
Thành phần am inoacid của gạo tương đối cân bằng
(relatively well-balanced) với hàm lượng lysine vào khoảng
3,5% so với protein tổng số. Lysine là aminoacid hạn chế trước
tiên (first lim iting am inoacid) của protein gạo, sau đó là
15
threonine. N guyên nhân vì sao threonine là am inoacid hạn chế
thì vẫn chưa rõ. Có thể là nhóm OH trong, gốc R của threonine
tham gia vào m ột số liên kết nào đó hoặc threonine trong protein
của gạo tham gia vào những liên kết peptid khó phân giải.
Bảng 2. Phân nhổm aminoacid dựa trên điện tích và độ ghét
nước của chúng.
Nhóm acid
(acidic
group)
Nhóm kiềm
(basic
group)
Lysine
Nhóm trung
tính ưa nước
(hydrophilic
group)
Glutamine
Glutamic
acid
Aspartic
acid
Nhóm trung
tính ghét nước
(hydrophobic
group)
Valine
Histidine
Asparagine
Leucine
Arginine
Serine
Isoleucine
Tryptophan
Threonine
Alanine
Phenylalanine
Tyrosine
Cysteine
Cystine
Proline
Methionine
Glycine
Trên bảng 3 đã trình bày hàm lượng các aminoacid không thể thay
thế, số điểm của aminoacid và tỷ lệ của các tiểu phần protein cửa nội
nhũ giống lúa IR 480-5-9 vốn có hàm lượng protein cao của Viện lúa
quốc tế IRRI.
16
Bảng 3. Hàm lượng các aminoacid không thể thay thế,a số điểm
của aminoacid,b và tỷ lệ của các tiểu phần protein của nội nhũ
giống lúa IR480-5-V có hàm lượng protein cao, IRRI, 1976-1977
Đặc tính
Các tiểu phần protein
Protein
gạo xát
Albumin
Globulin
Prolamin
Glutelin
Isoleucine
4,2
2,5
5,3
4,2
4,3
Leucine
6,8
6,8
14,6
8,3
Lysine
3,5
1,9
0,3
3,3
^l
3,7
Methionine
1,6
3,4
0,6
2,2
2,6
Methionine +
cystine
3,4
6,6
0,6
4,0
4,8
Phenylalanine
5,7
3,3
6,7
5,6
5,9
Phenylalanine
+ tyrosine
10,7
9,6
16,6
10,8
10,9
Threonine
3,9
2,5
2,5
3,5
3,9
Tiyptophan
1,2
1,5
0,5
0,7
1,4
Valine
6,1
5,6
7,2
6,3
6,2
Số điểm cùa
aminoaciè
Tỳ lệ của các •
tiểu phần
61
5
„
33
5
57
64
10
<5
80
100
“g!16,8g N h Dựa trên 5,78g lysine! lố,8g N như là 100%.
Nguồn: J.S.Nanda, W.R.Coffman "IRRI’S efforts to improve the
protein content o f rice. In "Proceedings o f the workshop on Chemical
aspects o f rice grain quality, IRRI, 1979, 33-47.
Một trong nhũng tĩnh chất quan trọng nhất cua protein là khả năng của
chúng bị biến chất do kết hu» t-ỉja.«ár+ưrr»p4ántctwÃhhaii
17
Sự biến chất (denaturation) của protein do nhiệt có một ý nghĩa
quan ữọng, khi biến chất, protein bị mất tính hòa tan, do đó khả năng
hấp thu nước của chúng bị thay đổi và một số tính chất sinh học của
protein cũng bị mất,
Cùng với protein và glucide, lipid cũng tạo nên phần chủ yếu của
chất hữu cơ trong hạt gạo. Lipid chủ yếu có trong phôi của hạt. Hàm
lượng của lipid trong hạt gạo giao động từ 1,6 đến 3,3%. Khối lượng
chủ yếu của lĩpid được khu trú ỏ phôi của hạt (17,6 - 23,8%) và ỏ lớp
alơrốn (2 - 3%).
Trong thành phần của lipid gạo có các acid béo no (21,1%) mà
palmitic acid là cấu tử chính của các acid béo no và các acid béo chưa
no tức là oleic acid (37,8%), linoleic acid (40,7%) và linolenic acid
(0,3%).
Trong thành phần của các chất không thể xà phòng hóa của lipid ở
hạt gạo cũng co mặt các chất có hoạt tính sinh học tức là các
carotenoid, chlorophyll, tocopherol và stérin. Hàm lượng tổng số của
tiểu phần không xà phòng hóa của lipid của gạo là 4,67 - 5,55%.
Trong hạt gạo cũng rất giàu các loại vitamin. Tròng gạo thực tế
người ta đã phát hiện thấy tất cả các loại vitamin nhóm B hòa tan trong
nước. Trong hạt gạo các loại vvitamin này phân bố không đồng đều.
Gần 47% lượng thiamin tổng số (vitamin Bị) đều tập trung ở trong
phôi của gạo, 34,5% ở màng ngoài và ở lớp aíơron, cm có 8% ở trong
nội nhũ. Riboflavin (vitamin Bj) khác với thiamin được phân bố đồng
đều hơn ở trong hạt. Trong các loại hạt cốc, hạt gạô giàu pyridoxin
nhất (vitamin B j. Hàm lượng của vitamin B6 trong gạo đạt đến 6,6%.
Niacin (nicotinic acid, vitamin PP) chủ yếu có ở trong mang ngoài và
trong lớp alơron (82%) và chỉ có 15% ở trong nội nhũ. Trong dầu cám
gạo người ta cũng phat hiện thấy tocopherol tức là vitamin E hòa tan
trong chất beó.
Trên bảng 4 đã trình bày hàm lượng các loại vitamin có trong gạo
và trong các phụ phẩm xay xát.
Dựa trên nhũng điều vừa trình bày ta có thể kết luận rằng thành
phần hóa học của hạt lúa gạo đã được nghiên cứu khá kỹ. Hạt gạo
chứa protein vốn có giá trị dinh dưỡng tương đối hoàn hảo, đồng thời
chứa nhiều tinh bột và các loại glucide khác.
18
Bảng 4. Hàm lượng các loại vitamin trong hạt gạo và trong các phụ
phẩm xay xát (mgìlOOg) (Houston và Kohler, 1970)
Gạo
lậit
Gạo
xat
Thiamin
0,34
0,07
Riboflavin
Niacin
0,05
Pyridoxine
Vitamin
Pantothenic acid
Folic acid
Inositol
Choline
Biotin
Cám
gạo
2,26
G ạo đánh
bóng
0,25
0,18
4,7
0,03
1,6
29,8
1,03
0,45
1,5
0,75
2,5
2,8
0,15
28.2
2,0
0,02
119
112
0,01
0,02
10
59
0,01
463
170
0,06
1,84
3,3
0,19
454
102
0,06
Phôi
gạo
6,5
0,5
3,3
1,6
3,0
0,43
373
300
0,06
Trong hạt gạo cũng chứa tất cả các vitamin của nhóm B, nicotinic
acid và các vitamin khác như đã trình bày ở bảng 4 cũng như các chất
có hoạt tính sinh học như tocopherol và các loại sắc tố. Vê mặt đồng
hóa, gạo được xếp hàng thứ nhất trong các hạt cốc. Tất cả những điều
dó đều nói lên rằng lúa gạo là một cây có hạt có giá trị. Vì thế việc
dảm bảo tính ổn định về mặt chất lượng của lúa gạo trong quá trình sử
dụng và việc cải thiện nhằm nâng cao chất lượng lúa gạo phục vụ cho
sự tiêu dùng và xuất khẩu là một trong nhũng nhiệm vụ quan trọng
nhất cùa ngành sản xuất lúa gạo ở nước ta'trong những năm tới.
1.3. CHẤT LƯỢNG HẠT GẠO
Tại cuộc hội thảo của các nhà di truyền chọn giống cũng như của
các nhà hóa sinh và hóa học hạt của các nước trồng lúa ở trên hành
tinh chúng ta đã được tổ chức vào tháng 10 nãm 1978 ở Viện lứa quốc
tế IRRI, người ta đã phân chia chất lượng lúa gạo thành bốn nhóm:
Chất lượng xay xát (milling quality), chất lượng thương phẩm (market
quality), chất lượng nấu nướng và ăn uống (cooking and eating
quality), chất lượng dinh dưỡng (nutritive quality).
19
Ngày nay» bốn nhóm chất lượng này đã được áp dụng rộng rãi ở
hầu hết các nước trồng lúa trên thế giới. Tất cả các nhà khoa học
nghiên cứu ở công đoạn trước thu hoạch ưong ngành nông nghiệp (đặc
biệt là các nhà di truyền và chọn giống lúa) cũng như các nhà khoa
học nghiên cứu ở công đoạn sau thu hoạch (xay xát, chế biến, hóa sinh
dinh dưỡng, các chuyên gia bảo quản, lưu thông, phân phối, v.v...) đều
đã căn cứ vào các khái niệm cơ bản này cũng như căn cứ vào các chỉ
tiêu đánh giá chất lượng này trong quá ưình ưiển khai các hoạt động
của mình.
1.3.1. Độ trắng trong của hạt gạo (grain appearance)
Chất lượng của các mẫu gạo thương phẩm thường được đánh giá
căn cứ theo ham lượng ẩm, độ sạch (cleanliness), không có trấu, rơm
rạ và các loại hạt khác, cũng nhữ căn cứ vào màu sắc và độ đồng đểu
(uniformity). Klii các nhà san xuất lúa gạo đem thóc đi bán, tất ca cád
chỉ tiêu nấy đều phải được xem xét và đanh giá. Các mẫu thóc sau đó
có thể phải chịu các thử nghiệm về xay xát và về nấu nướng.
Khác với các loại hạt cốc khác, ví dụ lúa mì đều được xay thành
bột, gạo được tiêu thụ ở dạng hạt.
Do đó, kích thước hạt, hình dạng hạt, màu sắc hạt, độ láng bóng,
độ trong và độ đồng đều của hạt đều rất quan trọng và cần xem xét khi
đẳnh gia độ ữắng trong của hạt gạo.
'\
Các phép đo độ trắng trong của hạt cũng đựợc thực hiện đối vói ca
hai loại gạo: Gạo lật (brown rice) và gạo xát trắng (white rice). Thông
thường theo truyền thống độ trắng trông của hạt gạo được đánh gia
bằng mắt thường, hoặc được đánh giá nhờ kính hiển vi để đo kĩch
thước hạt gạo (Ikehashi và Khush, 1979). Các phương pháp mang tính
khách quan nhằm đánh giá màu sắc của hạt gạo do Blakeney và cộng
sự đề xuất (1994) bằng cách sử dụng may quang phổ phản xạ
(refletance spectro-photometer) và độ trong mờ (translucencỳ) cũng
như kích thước và hình dạng hạt được đánh giá bằng cách sử dụng
phép phân tích hình ảnh (image analysis), các phương pháp này ngày
nay đa được ứng dụng rộng rãi và cho kết quả rất tốt.
Gạo xát trắng (milled rice) đựợc phân loại dựa trên kích thước
(size) và hình dạng (shape) của hạt.
Trên bảng 5 đã trinh bày việc phân loại dựa trên kích thước và hình
dạng của gạo xát.
20
i)
If
t/ì
tT
l i
g
Q
11
Ed
g
a,
■'s
00
Short Ngắn
1^
p
00
'"38 S
.2 S
Nhỏ
DC
. , —V•«81 . •
Giant
«
Lớn
Viết tắt
.o
-c
óg;
víin , .
g
«2)
Nhỏ
hơn2
Loại gạo
Trọng iuợng(mg)
ặt
Tiny
£
Nhỏ
hơn5 Round Tròn
«5)
_ :___ Ịi
2,02,39
(N
Dày
cọ
Bold
ó ro.
-*
Việt
Gần
Quasi- như
slender thon
mảnh
Trên
3,0
Đặc
điểm
s
Slen Thon
der mành
TẠ g
Viết tắt
(= >
Đặc
điểm
Loại gạo
o
Trên
7,0
Viết tắt
HinhdạngịUB)
Ú
3
Medi Trung
um ' bình
'
- Xem thêm -