BM 01-Bia SKKN
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT Sông Ray
Mã số: ................................
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT VÀI KINH NGHIỆM NHỎ TRONG VIỆC PHỤ
ĐẠO HỌC SINH YẾU MÔN VĂN LỚP 12
Người thực hiện: Phan Thị Hường
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục
1
Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... 1
Phương pháp giáo dục
1
Lĩnh vực khác: ......................................................... 1
Có đính kèm:
1 Mô hình
1 Phần mềm
khác
1 Phim ảnh
NămHỌC
học: 2011-2012
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA
1 Hiện vật
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1.Họ và tên: : Phan Thị Hường
2. Ngày tháng năm sinh: 22 / 09 / 1978
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: Ấp 5 – Sông Ray – Cẩm Mỹ - Đồng Nai
5. Điện thoại: (CQ)/ 0613713267
6. Fax:
(NR)/0613712395; ĐTDĐ: 0909004885
E-mail:
[email protected]
7. Chức vụ: Thư kí hội đồng giáo dục.
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Sông Ray
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 2001
- Chuyên ngành đào tạo: Cử nhân Ngữ văn.
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Ngữ văn
- Số năm có kinh nghiệm: 11
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+ Vận dụng kiến thức lịch sử trong tiết dạy ngữ văn lớp 12
+ Vài kinh nghiệm nhỏ về qui trình ra đề, chấm bài, trả bài tập làm văn phần tự
luận.
+ Phương pháp quản lí lớp bằng các biện pháp kỷ luật tích cực - 2011.
+ Một vài kinh nghiệm nhỏ trong việc phụ đạo học sinh yếu môn Văn lớp 12.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Sự phát triển của Giáo Dục- Đào Tạo quyết định sự tiến bộ, phồn vinh của xã
hội đúng như Nghị quyết TW 2 khóa VIII đã chỉ rõ: “Giáo dục- Đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là nhân tố phát triển kinh tế xã hội, là cơ sở để thực hiện công nghiệp hóahiện đại hóa đất nước”. Vì thế, trách nhiệm của người quản lý là sự tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý làm cho các trường học nhà
trường vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được mục
tiêu kế hoạch đào tạo của nhà trường, mà tiêu điểm là quá trình dạy học- giáo dục thế
hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
Chính vì thế, trong những năm qua bộ GD và ĐT đã quán triệt chặt chẽ về việc
thực hiện “quy chế 40 và quyết định 51 sửa đổi trong việc đánh giá học lực của học
sinh và quá trình thực hiện cuộc vận động hai không với 4 nội dung: Nói không với
bệnh thành tích trong giáo dục và tiêu cực trong thi cử, nói không với vi phạm đạo
đức nhà giáo và học sinh không đạt chuẩn lên lớp do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo chỉ
đạo đã đem lại sự đánh giá thực chất về chất lượng của học sinh. Theo đó, số lượng
học sinh yếu kém có chiều hướng tăng cao so với nhiều năm trước đây. Đây là thực
trạng chung mà chúng ta phải chấp nhận và cần tìm ra những giải pháp phù hợp để cải
thiện nó trên tinh thần không chạy theo thành tích nhưng phải nâng cao chất lượng
thực của hoạt động dạy học và giáo dục.
Với trường THPT Sông Ray, một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu là
nâng cao kết quả học tập của học sinh, giảm tỷ lệ học sinh yếu kém trên tinh thần đánh
giá đúng thực chất năng lực của các em. Trên thực tế, những khó khăn khách quan và
chủ quan của trường đã góp phần làm cho số lượng học sinh yếu kém cao hơn hẳn so
với nhiều trường THPT của Tỉnh. Đặc biệt với môn Ngữ văn – môn học được học
sinh coi là không “ưa thích”, “không thịnh hành” với những ngành nghề hiện đại nên
học sinh lại càng chây lười, coi nhẹ, xem thường, học có tính chất đối phó với thầy cô
trên lớp. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tỉ lệ yếu kém của trường, cũng như
tỉ lệ phần trăm học sinh đạt điểm trên trung bình trong các kì thi tốt nghiệp.
Như vậy, trách nhiệm của người quản lý nói chung và giáo viên nói riêng là
bám sát vào tình hình thực tế của trường mình để vạch ra những biện pháp cụ thể, phù
hợp nhằm không ngừng nâng cao chất lượng các mặt giáo dục, khắc phục những hạn
chế, yếu kém trong công tác giáo dục, thực hiện cho được mục tiêu đề ra.
Với suy nghĩ đó, tôi đã thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
học tập của học sinh, đặc biệt là học sinh khối 12. Sau hai năm thực hiện, tôi thấy cơ
bản là đã đạt được mục tiêu đề ra ban đầu. Chính vì thế, tôi mạnh dạn trình bày “Một
vài kinh nghiệm nhỏ trong việc phụ đạo học sinh yếu môn văn lớp 12”
- Đây không phải là một đề tài mới vì vấn đề phụ đạo học sinh yếu nói chung thì
đã có nhiều trường, nhiều giáo viên đề cập đến. Nhưng với tôi mỗi phương pháp đều
có những ưu điểm riêng, phù hợp với từng đối tượng cụ thể nên nó sẽ tạo được hiệu
quả tốt. Tôi mạnh dạn trình bày ý kiến của mình, mong được sự chia sẻ của đồng
nghiệp để có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, bổ sung vào đề tài nhằm nâng cao tính
ứng dụng hơn.
I. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận.
- Là một nhà giáo, ai cũng muốn học sinh của mình, trường mình đạt kết quả học
tập cao. Nhưng không nên vì thế mà chạy theo thành tích. Cần chấp nhận kết quả thực
chất dù nó không như mong muốn. Nhưng chấp nhận không có nghĩa là khoanh tay
đứng nhìn và than thở. Trái lại cần bình tĩnh, tích cực tìm ra các nguyên nhân của thực
trạng đồng thời bám sát thực tế trường mình, lớp mình để tìm ra giải pháp thích hợp
nhất.
Khi đã có giải pháp cần có kế hoạch thực hiện giải pháp đó một cách cụ thể.
Trong quá trình thực hiện cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các đối tượng
liên quan từ cá nhân học sinh, giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiêm, phụ huynh học
sinh đến các tổ chức đoàn thể như hội phụ huynh học sinh, Đoàn thanh niên, Ban
Giám Hiệu…
Niềm vui của mọi nhà giáo là sự trưởng thành của học trò, phương châm giáo dục
của Đảng và nhà nước ta là bình đẳng. Vì thế trong công tác giảng dạy chúng ta cần
có sự quan tâm đúng mức đến các đối tượng học sinh khác nhau, đặc biệt là những
học sinh yếu kém nhằm tạo ra cơ hội cho các em.
Sự trưởng thành của mỗi học trò luôn luôn phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản là sự
nỗ lực của bản thân các em và sự tận tâm của quý thầy cô giáo. Các em có năng lực thì
công việc giảng dạy của chúng ta bớt phần khó nhọc, các em học yếu thì việc giảng
dạy của quý thầy cô vất vả hơn. Nhưng nếu những em học lực yếu tiến bộ thì niềm
hạnh phúc của người làm thầy cũng sẽ được nhân lên rất nhiều lần. Xuất phát từ suy
nghĩ đó, tôi đã mạnh dạn vận dụng giải pháp dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém ngay
trong lớp dạy của mình và lớp phụ đạo do nhà trường phân công để hạn chế tỷ lệ học
sinh phải yếu kém và bước đầu đã đạt được kết quả khả quan.
- Tai sao cần phụ đạo? Phụ đạo nghĩa là ngoài con đường chính thì chúng ta có
thêm con đường khác để tới đích đó. Con đường phụ này hỗ trợ, góp phần tạo thuận
lợi cho chủ thể dễ dàng đạt mục đích hơn. Từ đó ta có thể hiểu phụ đạo trong môn
Văn là ngoài việc chúng ta thực hiện con đường chính theo mục đích yêu cầu về nội
dung, phương pháp bài học cũng như thực hiện thời gian theo đúng phân phối trên lớp
học chính khóa thì còn con đường khác để hỗ trợ các em nắm vững vàng những kiến
thức còn thiếu hụt hoặc mở rộng đi sâu vào vào một phương diện nào đó của vấn đề.
Rèn luyện thêm kĩ năng làm văn nghị luận văn học hoặc nghị luận xã hội.
Nay, tôi trân trọng trình bày kinh nghiệm này cùng quý đồng nghiệp. Bản thân
tôi cũng luôn nghĩ rằng để đạt mục đích hạ thấp tỷ lệ học sinh yếu kém thì đây không
phải là giải pháp duy nhất. Vì vậy trong thời gian tới tôi sẽ học hỏi thêm kinh nghiệm,
tìm tòi thêm giải pháp để tiếp tục nâng cao chất lượng dạy học của chính mình.
- Khi thực hiện đề tài này, tôi cũng gặp những thuận lợi và khó khăn nhất định.
Trường nhận được sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo như Sở
GD-ĐT Đồng Nai, của Huyện uỷ – UBND Huyện Cẩm Mỹ, của các cấp chính quyền
địa phương xung quanh trường .Học sinh của trường nhìn chung ngoan, chịu khó học
tập. Tổ có nền nếp chuyên môn tốt, các hoạt động chuyên môn có chiều sâu. Đặc biệt
chú ý đến giáo án cho từng đối tượng.
Riêng bản thân tôi đã có ý thức quan tâm tới vấn đề từ lâu. Mặt khác, tôi luôn ý
thức sưu tầm tài liệu, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để bổ sung cho kiến thức
và kĩ năng của mình. Đến nay, tôi cũng có 10 năm kinh nghiệm trong công tác giảng
dạy bộ môn Ngữ văn nên mạnh dạn trao đổi kinh nghiệm này với các đồng nghiệp.
Tuy nhiên tôi gặp không ít khó khăn:
Những năm trở lại đây, học sinh đuợc tuyển vào lớp 10 của trường có chất lượng
thấp, đa số học sinh có học lực trung bình. Trong 03 năm vừa qua chúng tôi hầu như
phải tuyển hết số học sinh đăng ký dự tuyển, do trên địa bàn chưa có trường dân lập
nên áp lực và nhu cầu đi học của con em địa phương là rất lớn.
Trường THPT Sông Ray nằm thuộc vùng sâu vùng xa, địa bàn rộng, học sinh đi
lại khó khăn đặc biệt là vào mùa mưa. Phần lớn các em có hoàn cảnh khó khăn, thiếu
thốn. Nhiều gia đình bộn bề với công việc mưu sinh chưa dành thời gian thõa đáng
cho việc giáo dục, theo dõi quá trình học tập của con cái. Thậm chí có phụ huynh
không biết con mình học lớp nào, giáo viên chủ nhiệm là ai, kết quả học tập, rèn luyện
của con như thế nào. Đây là một yếu tố gây khó khăn cho công tác giảng dạy của giáo
viên.
Khả năng tự học của đa số các em kém, tính ỷ lại vào thầy cô và các giờ học trên
lớp của nhiều học sinh còn nặng nề. Một số học sinh còn chưa có ý thức trong học tập,
có tâm lí coi nhẹ môn Văn khiến cho công việc giảng dạy khó khăn hơn nhiều.
Mặc dù tâm huyết với công việc song kinh nghiệm của tôi cũng chưa nhiều.
Nhìn vào thực tế giáo dục của Nhà trường hiện nay, chúng tôi nhận thấy: Chương
trình sách giáo khoa mới của môn Văn hiện nay hay nhưng rất khó với phần đông học
sinh. Trong chương trình Ngữ văn ở nhà trường phổ thông nói chung, lớp 12 nói
riêng, lượng kiến thức khá nặng so với tiết phân phối chương trình. Điều này cũng gây
ức chế tâm lí về thời gian của giáo viên và học sinh. Mặt khác, các em phải học quá
nhiều môn, ngoài ra còn phải đi học nhiều buổi.
Tất cả những nguyên nhân đó làm cho việc tiếp thu kiến thức của học sinh không
hiệu quả, chất lượng học tập không cao đặc biệt với những môn KHXH, yêu cầu vừa
phải học thuộc bài, vừa phải có tư duy tổng hợp cao như môn văn.
II. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2.1/ Xác định đối tượng.
Bất cứ con người làm việc gì cũng hướng tới đối tượng cụ thể với những mục đích
nhất định. Và đối tượng của giáo viên thì không ai ngoài khác chính là học sinh.
Nhưng tôi đang hướng tới một đối tượng đặc biệt hơn. Đó là những học sinh mà tiếp
thu bài học chậm, ý thức học tập kém, chây lười, ham chơi…Nên nội dung công việc
của tôi cũng có phần khó khăn hơn.
2.2/ Xây dựng đề cương - giáo án dạy phụ đạo.
- Xây dựng kế hoạch – đề cương dạy học cho một bài học cụ thể là thể hiện mối
tương tác giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh giúp học sinh đạt được
những mục tiêu bài học. Vì vậy, để tiến hành một tiết dạy trên lớp nói chung, tất cả
giáo viên cần chuẩn bị giáo án đầy đủ, kĩ lưỡng (cả về nội dung và phương pháp) để
hướng dẫn học sinh tiếp cận một đơn vị kiến thức cần đạt theo mục đích yêu cầu của
từng bài học. Đặc biệt, đối với đối tượng học sinh yếu kém thì việc xây dựng một đề
cương ôn tập như thế nào cho phù hợp với lực học các em là một vấn đề rất cần được
quan tâm.
- Theo tôi, để tiến hành dạy phụ đạo đạt được kết quả tốt thì trước hết mình phải
xây dựng một đề cương dựa trên chuẩn kiến thức đưa ra, nghĩa là phải xác định trọng
tâm. Sau đó lựa chọn phương pháp phù hợp. Cơ sở để lựa chọn PPDH phù hợp thì cần
chú ý vào mục tiêu bài học, đặc trưng của từng phân môn, trình độ, kinh nghiệm, tâm
lý của người học, điều kiện phương tiện của nhà trường…Tôi nghĩ một đề cương hay,
một giáo án tốt là điều kiện đầu tiên để tiến hành dạy phụ đạo đạt hiệu quả.
2.3/ Tiến hành dạy phụ đạo trên đề cương - giáo án đã xây dựng.
Ở trường THPT Sông Ray, hình thức tiến hành phụ đạo được tổ chức dưới hai hình
thức: tăng thêm tiết trong buổi học chính khóa và thực hiện việc rà soát số lượng học
sinh yếu kém của các lớp rồi tổ chức thành một lớp phụ đạo trái buổi. Như vậy, để tiến
hành phụ đạo, tôi thực hiện dưới hai hình thức:
µ Phân môn đọc văn:
a/ Tiến hành dạy phụ đạo trong tiết tăng của nhà trường.
- Do đặc thù của môn Văn lớp 12 là dung lượng dài, kiến thức khá nặng mà phần
kĩ năng làm văn lại hạn chế nên nhà trường thống nhất tăng thêm một tiết trên một
tuần. Để sử dụng hiệu quả thời gian tiết tăng, tổ chuyên môn đã lên kế hoạch dạy tiết
tăng và được ban giám hiệu kí duyệt. (xem phụ lục)
- Đối tượng của tiết dạy là 100% học sinh của một lớp. Nghĩa là trong đó có những
học sinh trung bình, khá giỏi và cả học sinh yếu kém. Ngoài việc đáp ứng yêu cầu nội
dung cơ bản thì với đối tượng này cần mở rộng và đi sâu vào vấn đề để đáp ứng cho
những học sinh khá giỏi.
- Không chỉ đáp ứng về lượng kiến thức mà chúng ta cần chú ý đến phương pháp
làm bài để học sinh đạt kĩ năng trong quá trình làm văn. Hướng dẫn các em phương
pháp tích hợp lượng kiến thức trong một bài làm văn.
þ Tôi lấy một ví dụ cụ thể với bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng
Phủ Ngọc Tường.
I/ Mức độ cần đạt.
- Nắm được những nét cơ bản về tác giả.
- Tóm tắt được văn bản. Hiểu chủ đề - ý nghĩa của tác phẩm.
- Những đặc điểm cơ bản về hình tượng Sông Hương trong tác phẩm.
- Vận dụng kiến thức vào làm bài văn nghị luận.
II/ Trọng tâm kiến thức, kĩ năng.
1. Kiến thức
- Chủ đề - ý nghĩa của tác phẩm.
- Những đặc điểm cơ bản về hình tượng Sông Hương
2. Kĩ năng.
- Rèn luyện kĩ năng diễn đạt.
- Biết tích hợp giữa các nội dung bài học để làm một bài văn NLVH.
(Huy động những kiến thức và cảm xúc, trải nghiệm của bản thân để viết bài
nghị luận về một hình tượng, một đoạn văn xuôi).
III/ Chuẩn bị:
- Yêu cầu học sinh chuẩn bị phần ôn tập của từng bài theo hệ thống luận
điểm, luận cứ (đầy đủ, ngắn gọn).
- GV chuẩn bị nội dung ôn tập.
- PP: Đặt vấn đề, gợi mở, đưa giả thiết từng dạng đề và yêu cầu học sinh
vạch ra ý chính cần có trong bài…
& Lượng kiến thức tôi yêu cầu cần nắm được như sau:
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
(Trích)
– Hoàng Phủ Ngọc TườngI/Tác giả.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, nhà văn gắn bó mật thiết với xứ
Huế, có vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực; là một trong những nhà văn chuyên viết bút
kí.
- Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ
và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn
kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…thể hiện qua lối hành văn
hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
-Tác phẩm chính: Ngôi sao trên đỉnh Văn Lâu(1971), Rất nhiều ánh lửa(1979), Ai
đã đặt tên cho dòng sông?(1986), Hoa trái quanh tôi(1995), Ngọn núi ảo
ảnh(1999),…
II.Nội dung – ý nghĩa: Ai đã đặt tên cho dòng sông?(1986) là bài kí xuất sắc nhất
của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Vẻ đẹp của sông Hương được cảm nhận ở nhiều góc độ
khác nhau. Qua đó, thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông
Hương; bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với
dòng sông quê hương, với xứ Huế thân thương.
1. Thủy trình của hương giang.
a/ Sông Hương ở vùng thượng nguồn.
- Có quan hệ sâu sắc với dãy trường sơn. Mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh
liệt, hoang dại bí ẩn, sâu thẳm được so sánh “một bản trường ca của rừng già” với
nhiều tiết tấu hùng tráng và dự dội: .“rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn… mãnh liệt
vượt qua ghềnh thác…Cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực sâu…Dịu dàng, say đắm
…như hoa đỗ quyên rừng…à Thủ pháp điệp cấu trúc + động từ mạnh tạo nên âm
hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa rừng già.
- Sông Hương có sức sống mãnh liệt, mang vẻ đẹp hoang dại và đầy cá tính,
được nhân hoá thành “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” – với bản lĩnh gan dạ,
một tâm hồn tự do và phóng khoáng…à liên tưởng thú vị độc đáo.
- Sông Hương - “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” à một cái nhìn
sâu sắc của HPNT cho thấy chiều sâu vẻ đẹp và nhân cách của dòng sông
Ä Nghệ thuật: thể hiện sự tài hoa của ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường: liên
tưởng kì thú, xác đáng, ngôn từ gợi cảm.
b/ Đến ngoại vi thành phố
- Sông Hương là “người gái đẹp nằm mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy
hoa dại” được người tình mong đợi đến đánh thức. Thủy trình của sông Hương khi
bắt đầu về xuôi tựa “một cuộc kiếm tìm có ý thức” người tình nhân đích thực… .
“Chuyển dòng liên tục”,“Vòng những khúc quanh đột ngột”,“Vẽ những hình cung
thật tròn ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế”…à Sông Hương thể hiện một
vóc dáng mới, đầy khao khát và lãng mạn
- Đó là “vẻ đẹp trầm mặc”, “như triết lí, như cổ thi”. Sông Hương có lúc “Mềm
như lụa”, có lúc ánh lên những phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím…” Có lúc lại như “triết lí, cổ thi” “giữa đám quần sơn lô xô là giấc ngủ
nghìn thu của vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm
kiêu hãnh âm u của những lăng tầm đồ sộ toả lan”
Ä Hai bút pháp kể - tả kết hợp nhuần nhuyễn, lối hành văn lịch lãm, tài hoa đã làm
nỗi bật một Sông Hương sinh động và hấp dẫn.
c/ Đến giữa thành phố Huế, sông Hương như tìm được chính mình “vui tươi
hẳn lên…uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến…dòng sông mềm hẳn đi như
tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Nó đã chuyển dòng liên tục- như phô diễn tất
cả vẻ đẹp vốn có:
+ Hình dáng: “dòng sông mềm như tấm lụa”
+ Màu sắc: “ Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
+ Dòng chảy: “Trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh”
+ Mang “ Vẻ đẹp trầm mặc” như triết lí, như cổ thi”.
Sông Hương như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, So sánh Sông Hương với
sông Xen và sông Đa Nuýp, tác giả đã nâng dòng sông quê hương ngang hàng với
những dòng sông đẹp nhất thế gian. Ba con sông này có điểm tương đồng là cùng
chảy vào thành phố yêu quí của nó, được thành phố ôm vào lòng, nhưng sông Hương
có điểm đặc biệt, đó là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”à Thể hiện niềm tự
hào sâu sắc của tác giả. Và như vậy, đó là tình cảm của Sông Hương dành riêng cho
Huế hay chính là tình cảm của nhà văn đối cới sông Hương, với xứ Huế mộng mơ.
- Sông Hương “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”…là “Tứ đại cảnh”
Ä Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn
tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đẽ đến bất ngờ, lý thú,
thể hiện tình yêu say đắm với con sông. Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ,
đắm đuối”.
d/ Trước khi từ biệt Huế: SH như “người tình dịu dàng và chung thủy”. Con
sông “như nàng Kiều trong đêm tình tự, trở lại tìm Kim Trọng” để nói một lời thề
trước lúc đi xa- “Đang chếch hướng Bắc…bỗng … đột ngột đổi dòng, rẻ ngoặt sang
hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối…” nhà văn gọi đó là “một chút lảng lơ
kín đáo của tình yêu”
¯ Sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường tiếp cận và miêu tả từ nhiều không gian
và thời gian khác nhau. Mối góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc và
mới mẻ. Ngòi bút tài hoa của tác giả đã vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, tinh tế,
những liên tưởng, so sánh đẹp đẽ đến bất ngờ, lí thú thể hiện tình yêu say đắm với con
sông quê hương. Đó là những nét bút “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối, tài hoa“ của
HPNT
2. Sông Hương là dòng sông lịch sử.
- Là dòng sông biên thùy trong sách địa dư của Nguyễn Trãi.
- Dòng sông soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ.
- Sống hết mình với lịch sử bi tráng của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX.
- Chứng kiến Cách Mạng tháng tám, mùa xuân Mậu Thân 1968.
=> Khi đất nước có chiến tranh, sông Hương biết cách “tự hiến đời mình làm một
chiến công”. Sau những biến cố lịch sử, “nó trở về với cuộc sống bình thường, làm
một người con gái dịu dàng” với chiếc áo dài tím rất Huế.
3. Sông Hương là dòng sông văn hóa, thi ca.
- Gắn bó với kinh thành Huế, cái nôi của nền âm nhạc dân gian và cổ điển Huế,
gắn bó với Nguyễn Du, danh nhân văn hóa thế giới.
- Là cảm hứng sáng tác của nhiều thi nhân, nghệ sĩ: Nguyễn Du, bà Huyện Thanh
Quan, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu,…
III. Ý nghĩa văn bản:
Tác phẩm thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương; bộc
lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dòng sông
quê hương, với xứ Huế thân thương.
IV. Nghệ thuật.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp về địa lí, văn
hóa, lịch sử,…trong và ngoài nước để miêu tả và cảm nhận những vẻ đẹp khác
nhau của dòng sông.
- Kết hợp, đan xen điểm nhìn không gian và thời gian,…
- Giọng điệu của nhân vật là giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, say đắm mà tỉnh táo,
tự tin nhưng không áp đặt, sắc sảo mà giàu cảm xúc,…
- Ngôn ngữ tài hoa, giàu hình ảnh, giàu sức gợi.
------------------------š{{{š-----------------------µ Với đối tượng học sinh trên lớp này, hầu hết là các em đã nắm được nội dung bài
học nên tôi chủ yếu hướng dẫn các em cách tích hợp các đơn vị kiến thức để làm bài
văn nghị luận văn học.
¸ Giả sử có một yêu cầu như sau: Phân tích hình tượng con Sông Hương qua bút
kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
¸ Vận dụng
Phần mở bài: (Giới thiệu về tác giả, nội dung tác phẩm và vấn đề nghị luận). Để
đáp ứng yêu cầu này tôi yêu cầu các em vận dụng linh hoạt hai đơn vị kiến thức cơ
bản ở mục I,II.
Phần thân bài: (Phân tích vấn đề nghị luận).
Đảm bảo các ý chính tức là phải nêu và phân tích được các luận điểm, luận cứ kết hợp thao tác tổng hợp để đánh giá về nội dung và nghệ thuật. Để đáp ứng yêu cầu
này tôi hướng dẫn các em vận dụng ngay phần kiến thức của mục III.
Phần kết bài: (đáng giá và nâng cao vấn đề) Vận dụng phần IV,V.
¸ Hướng dẫn học sinh rèn luyện kĩ năng thì giáo viên cần có ý thức kiểm tra, đánh
giá. Hoạt động này diễn ra thường xuyên đặc biệt là trong những bài viết theo hình
thức kiểm tra tự luận giúp các em có được một cách hành văn lưu loát và đảm bảo nội
dung trọng tâm. Đánh giá là khâu quan trọng không thể thiếu. Nó nằm ở giai đoạn
cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và là khởi điểm cho một giai đoạn tiếp theo với
yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn.
Với phương pháp này, tôi thu được kết quả khả quan.
b/ Tiến hành dạy phụ đạo ở lớp tổ chức trái buổi.
- Phụ đạo ở đối tượng này, tôi thấy đã thực hiện ở một số trường với hình thức:
Giáo viên soạn đề cương khá đầy đủ (về nội dung, hành văn), yêu cầu học sinh học
thuộc lòng rồi lên lớp khảo bài chừng nào thuộc mới cho về. Nhìn chung thì họ cũng
đã đạt được kết quả nhất định nhưng không cao. Bản thân tôi thấy, nếu áp dụng
phương pháp này vào đối tượng tôi đang trực tiếp phụ đạo sẽ không ổn. Bởi như đã
nói ở trên, đây là đối tượng đặc biệt. Tư duy chậm, ý thức học tập kém, học trước
quên sau, hôm nay yêu cầu học thuộc nhưng ngày mai khảo lại không biết gì.
Vấn đề đặt ra ở đây là gì? Các em không hiểu, không nắm bắt được nội dung cơ
bản mà chỉ học một cách máy móc, thụ động “học vẹt”. Điều đó khiến tôi trăn trở!
Làm thế nào để học sinh hiểu bài, nhớ lâu?
- Với tôi, tôi chỉ yêu cầu các em nắm được những đơn vị kiến thức cơ bản và đơn
giản nhất. Song đó là tôi còn các em thì rất khó đạt điều mình mong. Các em không
chỉ là tư duy chậm, ý thức học tập không cao mà còn bị áp lực rất nhiều từ các môn
học khác. Nếu ta cứ “trang bị” cho các em một đề cương quá ư đầy đủ thì tôi thiết
nghĩ sẽ không tài nào đối tượng “nạp” được.
Vì vậy, tôi đã thực hiện một dạng đề cương kiểu hệ thống hóa kiến thức theo sơ
đồ. Trước khi phát đề cương cho các em học, GV đứng lớp sơ đồ hóa lên bảng, chỉ
cách hình dung nội dung bài học, tạo hứng thú bằng những câu gợi mở đơn giản.
Khi thực hiện giải pháp này tôi thấy học sinh nắm bắt kiến thức nhanh hơn, nhớ
bài lâu hơn, cũng có nghĩa các em hiểu bài.
Vấn đề là chúng ta phải thực hiện thường xuyên và kiên trì để hình thành cho các
em một nếp quen tốt, điều đó tạo được hiệu quả tốt hơn trong quá trình học tập.