Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh viết bài tập làm văn hay ở trường thcs...

Tài liệu Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh viết bài tập làm văn hay ở trường thcs

.DOC
22
8
63

Mô tả:

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH YÊN =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh viết bài Tập làm văn hay ở Trừng THS Tác giả sáng kiến: Lê Thị Kim Dung Môn: Ngữ văn Trừng THS Tô Hiệu Vĩnh Yên, năm 2018 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh viết bài Tập làm văn hay ở Trừng THS Vĩnh Yên, Năm 2018 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giơi hiêụ 1.1.Về mă ̣t li luâ ̣n Qua thực tế giảng dạy và học tập, chúng ta ai cũng nhận thức được rằng: dạy văn, học văn không phải là chuyện đơn giản mà nó đòi hỏi ở chúng ta sự nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp thu bằng cả tri óc và tâm hồn. Só khi ta cảm thụ được nhưng lại trình bày sự hiểu biết của mình thì không đạt yêu cầu. Một bà tập làm văn là kết quả của sự tổng hợp các kiến thức đã học về lí thuyết tập làm văn- kiến thức văn học- kiến thức xã hội- kĩ năng dùng từ diễn đạt. Để biến những kiến thức đó trở thành của mình thì phải có một th̀i gian dài miệt mài rèn luyện, đặc biệt là phải có sự ham thích nữa. Shính vì thế mà học sinh bậc THS viết được bài văn hay hoặc trở thành ngừi học sinh giỏi văn là một điều rất khó. 1.2. Về mă ̣t thự tiên Là một giáo viên đã từng giảng dạy nhiều năm về bộ môn này, nhiều năm liền làm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi suy nghĩ rất nhiều khi kết quả học văn của học sinh chưa cao. Nhiều em tỏ ra không thích môn học, cứ nghĩ đến học văn, viết văn là các em ngại; các tiết học của môn văn ít có sự hào hứng, sôi nổi. Thực tế trên thực ra cũng do nhiều nguyên nhân, nhưng một nguyên nhân cơ bản mà chúng ta ít chú ý đến rèn luyện, hướng dẫn, sửa chữa cách diễn đạt bài văn cho các em, nhưng hay đã chú ý nhưng chưa biết hướng dẫn như thế nào cho thành hệ thống, thói quen trong cách diễn đạt để nâng cao chất lượng học văn. Tôi thấy rằng với các em học sinh THS khi vốn văn học còn nhiều hạn chế, để viết được bài tập làm văn hay, ngoài sự chuẩn bị về mặt nội dung, ý tứ sâu sắc, các em học sinh cần phải được trang bị thêm một số kiến thức cơ bản về cách diễn đạt để bài viết giàu sức thuyết phục. Nhưng hướng dẫn như thế nào? Bắt đầu từ đâu? thì lại là một việc rất khó, không phải ngừi giáo viên nào cũng dễ dàng làm ngay được. các em đã viết được những bài văn hay dần dần sẽ tạo thói quen khi viết, sẽ thận trọng hơn trong cách diễn đạt. Như vậy tôi tin rằng kết quả học văn của các em sẽ khá lên. Sác em sẽ say mê, thích thú môn học. Từ những suy nghĩ trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số cách giúp các em diễn đạt hay trong bài tập làm văn để bản thân và đồng nghiệp tham khảo áp dụng. 2. Tên sáng kiến kinh nghiêm: ̣ Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh viết bài tập làm văn hay ở trừng THS . 3. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Lê Thị Kim Dung - Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trừng THS Tô Hiệu- phừng Đống Đa- thành phố Vĩnh Yên- tỉnh Vĩnh Phúc - ố điện thoại: 0984.298.346 - Email: [email protected] 4. Chủ đầu ư ạo ra sáng kiến Giáo viên: Lê Thị Kim Dung 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: áng kiến được áp dụng trong lĩnh vực dạy học Ngữ văn THS , đặc biệt phần tập làm văn. 6. Ngay sáng kiến đươc áp dụng lần đầu hoặc dùng hử: Tháng 11/2017 7. Mô ả bản chấ của sáng kiến 7.1. Nội dung sáng kiến 7.1.1. Điều tra thự trạng trượ́ khi nghiên ̣ứu 7.1.1.1. Tình hình xã hội Văn học là môn học chính trong các cấp phổ thông nhưng chưa được các em học sinh và phụ huynh chú ý. Một trong những nguyên nhân là do sự tác động của xã hội. Mặt khác đất nước ta đang phát triển theo con đừng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước nên nhiều ngừi hiểu biết khoa học tự nhiên hơn khoa học xã hội. Shính vì thế mà học sinh thích đi sâu khám phá các môn như: Tin học, Toán học, Vật lí, Hóa học, Ngoại ngữ…hơn những môn Văn học, Lịch sử, Địa lí…đó là một trong những nguyên nhân khiến các em không thích học văn, ngại viết văn. 7.1.1.2. Thực trạng của giáo viên dạy văn Nhìn chung giáo viên ít có sự tìm tòi đổi mối trong cách dạy văn. Giáo án lên lớp còn sơ sài, copy trên mạng, giáo án chung chung chưa phát hiện được những cái hay, cái mới mẻ trong bài dạy. Nhiều giáo viên chưa nắm chắc được đặc trưng bộ môn, chưa tìm cách thu hút học sinh say mê môn học. Đặc biệt là phân môn Tập làm văn phần lớn giáo viên mới chỉ cung cấp khái niệm về thể loại, cách tìm ý, dựng đoạn, lập dàn ý, chưa chỉ ra cách hành văn, diễn đạt riêng từng thể loại như thế nào. Việc chấm và sửa chữa bài cho học sinh cũng còn những hạn chế như giáo viên chỉ phê lỗi chính tả, chữ viết, dùng từ một cách chung chung với bài văn nào cũng được mà chưa đi sâu sửa lỗi diễn đạt hành văn, câu văn, giọng văn cho đúng, cho hay. Shính vì thế kết quả dạy văn trong các trừng cũng như qua các kì thi Thành phố, tỉnh chưa cao so với các môn khác. 7.1.1.3. Thực trạng của học sinh học Ngữ văn Thực tế cho thấy kết quả học văn của nhiều học sinh hiện nay so với các môn học khác nhất là các môn khoa học tự nhiên có một sự chênh lệch rất lớn, các em rất lừi học văn. Nhiều em viết đi viết lại một bài văn mà ngừi đọc vẫn không sao chấp nhận được về hành văn, lối diễn đạt, sử dụng từ ngữ, câu cú…hầu hết các em đều chưa có tủ sách văn học riêng, thậm chí các tác phẩm được học đoạn trích các em cũng không đọc tác phẩm, có một vài em kể cả tác phẩm hay đoạn trích trong sách giáo khoa các em cũng không đọc hết. Sác em chưa có thói quen ghi chép tư liệu văn học, sổ tay văn học, vì thế vốn văn học rất nghèo nàn ít ỏi. Khi viết các bài Tập làm văn nhiều học sinh còn lơ mơ khi nắm bắt thể loại của đề bài, chứ cha nói đến việc rèn rũa rũa hành văn, lối viết riêng cho thể loại. Shính vì thế mà học sinh thừng bị bế tắc trong cách diễn đạt, vốn ngôn ngữ hạn chế lại không được bổ sung bồi dưỡng nên thành thử các em rất lúng túng, vụng về trong khi viết. Nhiều bài viết nội dung khá đầy đủ nhưng lập luận không chặc chẽ, dùng từ đặt câu bừa bãi, sắp đặt không theo trật tự nào cả, kết quả học văn của các em không cao, dẫn đến các em chán viết văn, học văn. au đây là một số số liệu điều tra trong năm 2016- 2017 ở hai lớp 9 ở trừng chúng tôi: H/S bình hường vơi môn Văn 35% H/S hích môn Văn H/S chán học môn Văn 25% 40% - Kếết quả học văn của học sinh đại trà Giỏi Khá Trung bình Yếu 10% 25% 40% 25 % - Kết quả học sinh giỏi văn thành phố của trừng chúng tôi năm học 2016- 2017 như sau: Đồng đội xếp thứ 7/10 trừng. cá nhân có 15 học sinh dự thi cấp thành phố. Kết quả như sau: Điểm 1, 2 Điểm 3,4 Điểm rên 5 0=0 10=66,7% 5=33,3% Từ kết quả trên khiến bản thân tôi luôn trăn trở với những tìm tòi đổi mới. Tôi nghĩ rằng mình cần đổi mới cách dạy văn, nhất là rèn cách viết văn cho các em. Từ đó ngoài việc tìm hiểu thể loại, trang bị về nội dung kiến thức, tôi chú ý rèn luyện cách diễn đạt cho các em. 7.1.2. Phương pháp nghiên ̣ứu Tôi đã đi sâu vào nghiên cứu tham khảo nhiều sách có liên quan đến môn văn học của trừng THcs. Để đi nghiên cứu kinh nghiệm giảng dạy này tôi đã phải tiến hành nhiều phương pháp. au đây là một số phương pháp chính: 7.1.2.1. Điều tra 7.1.2.1.1. Về phía học sinh Tôi thu lượm một số bài viết của các em học sinh đã làm và được phê chấm, chú ý đến cả học sinh trung bình, khá, giỏi ở các thể loại, ở đủ các khối lớp. Qua đó giáo viên phải nắm chắc điểm mạnh, điểm yếu của từng bài, tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục. Nhìn chung, bài làm của các em dừng ở mức độ hoàn thành yêu cầu. mức độ chất lượng chưa cao bởi vì các em chưa biết chọn lọc từ ngữ, hình ảnh để diễn đạt ý. Lập luận đơn điệu, chưa có sự đối chiếu so sánh với các tác giả, tác phẩm đương th̀i. các em chưa chú ý thể hiện thái độ của ngừi viết trước một vấn đề văn học. cảm xúc không đích thực, còn gò bó, gượng ép. Thành thử bài viết rất khô khan, đơn điệu, không có sức thuyết phục ngừi đọc. 7.1.2.1.2. Về phía giáo viên Thực hiện gì dạy trên lớp: Tôi đã đi dự gì tập làm văn của một giáo viên trong trừng tiết: “ Dựng đoạn văn trong bài phân tích tác phẩm” Tiết dạy này của giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh trả l̀i các bài tập trong sách giáo khoa rồi cuối cùng đi đến kết luận cho học sinh đọc phần ghi nhớ trong sách giáo khoa. Trong khi gợi ý làm bài tập, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh cách dùng từ, câu, hình ảnh, giọng văn trong từng bài mà chỉ đi sâu khai thác ý. Sho nên các em chưa nhận rõ được cách diễn đạt hay trong từng đoạn mà các em được đọc. nên tiết dạy đi rất nhanh mà kiến thức và kĩ năng em nhận được ít, các em chưa say sưa, hào hứng với bài học. Thực hiện chấm, chữa bài Tập làm văn: Giáo viên chấm bài chưa cặn kẽ, mới dừng lại ở việc chấm ý theo nội dung đề bài, bố cục bài văn hoàn chỉnh hay chưa. Điều này được thể hiện ở l̀i phê: bài làm đủ ý, bố cục hoàn chỉnh, trình bày sạch sẽ… Tương ứng với l̀i phê là điểm 8. Vấn đề ở đây là: Giáo viên chưa chú trọng đến cách dùng từ, đặt câu, diễn đạt, lập luận trong quá trình phân tích- giảng giải- tổng hợp- chuyển tiếp. Trên cơ sở đó học sinh phải biết “gói” vấn đề, nâng cao để rút ra ý nghĩa tư tưởng. từ đó bộc lộ cảm xúc của mình về vấn đè phân tích. Khi nắm được những lỗi sai của học sinh, giáo viên phải chữa lỗi cụ thể theo trình tự: lỗi sai- chưa đúng- viết hay đẻ học sinnh có thói sửa lỗi khi viết văn. 7.1.2.2. Nghiên cứu Tôi đã đọc và nghiên cứu thêm một số tài liệu có thể nói rất hay như: “ Những bài thi chọn lọc học sinh giỏi quốc gia” của Nguyễn ỹ Bá, “ Văn bồi dưỡng học sinh năng khiếu THS ”của Nguyễn Đăng Mạnh…Nghiên cứu những sách đó, tôi thấy tác giả của từng bài viết tỏ ra rất xuất sắc trong cách diễn đạt, những bài viết tự nhiên dễ gây cảm tình cho ngừi đọc, đặc biệt đó là cách dùng từ, dùng hình ảnh, dùng hình ảnh trong cuốn: “ Văn bồi dưỡng học sinh năng khiếu” của Nguyễn Đăng mạnh chỉ ra nhiều cách tạo hứng thú, chất lượng trong một gì văn đặc biệt hướng dẫn học sinh tạo ra những bài văn có chất lượng cao. 7.1.2.3. Đối chứng Tôi đi đối chứng giữa gì dạy của giáo viên trên lớp với sự hướng dẫn qua nhiều tài liệu, đối chứng giữa bài viết của học sinh mình dạy, của trừng mình với những bài viết của các em trong văn chọn lọc rồi tìm ra những hạn chế của ngừi giáo viên khi lên lớp. 7.1.2.4. Rút ra kinh nghiệm và áp dụng vào thực tế Tôi tìm tòi phát hiện những cái mới mẻ, những cái hay, cái khó đúc rút thành kinh nghiệm truyền thụ cho các em về môn học, vừa dạy tôi vừa đối chiếu so sánh kết quả với trước đó và các giáo viên khác, luôn kết hợp dạy văn, dạy Tiếng Việt để bổ sung cho môn Tập làm văn. Khi học về mỗi thể loại, tôi phải đi sâu hơn vào việc rèn luyện hành văn, giọng văn, từ ngữ riêng cho từng thể loại. Shuẩn bị kĩ kiến thức, kĩ năng viết bài, lấy kết quả của bài này so với kết quả của những bài trước đó, đồng th̀i uốn nắn ngay những mặt còn hạn chế trong cách viết, cố gắng gây sự thoải mái, nhẹ nhàng khi dạy. 7.1.3. Những ̣ông việ̣ đã làm Trên một số bài viết, học sinh luôn phải chú ý đến hai mặt nội dung và hình thức của bài văn. Khi giảng dạy cho các em, ngừi giáo viên phải chú ý đến cả hai mặt này, nhưng về hình thức một số bài văn, giáo viên cũng như học sinh còn hạn chế nhiều. nên tôi xin được trình bày một số kinh nghiệm giúp các em diễn đạt hay hơn trong khi viết văn, để từ đó các em yêu thích hứng thú với môn văn, nâng cao chất lượng bộ môn. 7.1.3.1. Cách lựa chọn và sử dụng từ ngữ khi viết Biết lựa chọn và sử dụng từ ngữ một cách chính xác là một trong những yếu tố quyết định để có cách diễn đạt hay. Dù là loại văn sáng tác hay nghị luận, nếu đó là một bài văn hay, đọc lên chúng ta đều thấy ngừi viết có vốn từ ngữ phong phú và đặc biệt họ sử dụng rất chính xác và linh hoạt. từ ngữ đúng lúc, đúng chỗ sẽ lột tả được thần thái của sự vật, sự việc, làm cho bài viết giàu sức thuyết phục. Tùy từng loại văn mà có cách sử dụng sao cho phù hợp; trong văn sáng tác thừng dùng từ tượng hình, tượng thanh; nhưng văn nghị luận lại không thừng xuyên dùng những loại từ đó. Ví dụ: Khi miêu tả tâm trạng của mình trên con đừng tới dự buổi lễ khai giảng của năm học, học sinh thừng tả tâm trạng: “ trong lòng em cảm thấy vui thích vô cùng” nhưng nếu thay từ “ vui thích” bằng từ “ xôn xao, rạo rực” khi mới diễn tả được đầy đủ tâm trạng của em học sinh ngày đầu tiên đến trừng. Giáo viên có thể đưa ra một đoạn thơ sau để các em tìm hiểu tại sao lại dùng từ đó. “ Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa Một buổi trưa nắng dài bãi cát Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát” ( “ Mẹ Tơm”- Tố Hữu) Trong khổ thơ trên tại sao tác giả lại không dùng từ “ lao xao”, “ rì rào” mà lại viết là “ gió lộng xôn xao”? Bởi vì khổ thơ không chỉ là cảnh sóng, gió một buổi trưa miền biển mà còn nổi lên một tâm trạng bồi hồi, xôn xao, náo nức, sung sướng của ngừi con đi xa, nay trở lại thăm quê hương thứ hai, nơi đã nơi mình th̀i hoạt động cách mạng bí mật. Trong văn nghị luận nhiều học sinh phân tích nhân vật từ đầu đến cuối chỉ có một cách gọi tên như: anh ta, chị ấy hoặc nhà thơ. Nếu giáo viên hướng dẫn cho các em nhiều cách gọi tên khác đi thì bài viết sẽ sinh động hơn, tránh nặng nề, nhàm chán. Ví dụ: Khi phân tích nhân vật lão Hạc ( Ngữ văn 8- tập 2) ta có thể gọi tên các nahu tùy từng đoạn như: Ngừi cha giàu lòng yêu thương con, ngừi nông dân nghèo khổ, con ngừi giàu lòng tự trọng… ử dụng từ ngữ đúng lúc, đúng chỗ tức là hợp văn cảnh ta có đoạn văn hay, câu văn hay. Ngược lại để rơi vào sáo rỗng, khoe chữ như vậy, ta phải hướng dẫn kĩ hơn trong cách dùng từ trong từng văn cảnh. Với cách lựa chọn từ ngữ, hình ảnh vừa gợi tả, gợi cảm xúc, nhà phê bình văn học Lê Bảo đã từng nhận xét về bài thơ: “ Bạch Đằng hải khẩu”: “ Sửa biển Bạch Đằng là mảnh đất đó “ cây đ̀i” Nguyễn Trãi mãi mãi xanh tươi. Và đến lượt mình, thứ cây “ một mình lạt thuở ba đông” ấy tạo ra một thứ hổ phách, phục linh nuôi lớn thế hệ sau ông, tiếp nối dòng sữa ngọt ngào là lòng tự hào, tự tôn dân tộc. 7.1.3.2. Sử dụng linh hoạt các kiểu câu của Tiếng Việt Biết vận dụng tất cả các loại câu một cách linh hoạt và tùy vào từng lúc, từng nơi, đúng lúc, đúng chỗ, tùy vào giọng văn của từng đoạn mà có những loại câu cho phù hợp. Ví dụ: Khi diễn tả tình cảm của mình trước một hình ảnh nào đó ta có thể dùng những kiểu câu dài. Nhưng khi lên án tố cáo nhân vật nào đó ta có thể dùng câu văn ngắn, hay để diễn tả trực tiếp thái độ tình cảm của mình, ngừi ta thừng dùng câu cảm thán. Xuân Diệu viết: “ Tr̀i đất ơi! Tú Bà nói không đầy nửa phút mà nước bọt của mụ văng ra mãi tới ngàn năm”. Khi muốn gây sự chú ý cho ngừi đọc, ta có thể dùng câu nghi vấn, loại câu có hai mệnh đề ( hô ứng) cũng có nhiều tác dụng làm thay đổi giọng văn, làm cho bài viết phong phú. Ví dụ: Khi viết về Ngô Tất Tố qua tác phẩm: “ Tắt đèn”: “ Sàng gần gũi ngừi nông dân bao nhiêu Ngô Tất Tố càng thấu hiểu nỗi khổ tâm dày vò trong lòng họ bấy nhiêu. Ông không những lên án bọn cừng hào ở làng Đông Xá mà ông còn lên án tất cả bọn quan lại đương th̀i trong xã hội”. Khi dùng loại câu khẳng định hoặc phủ định cần chú ý tránh cách diễn đạt tuyệt đối tức là phải uyển chuyển có mức độ trong nhận xét đánh giá. Ví dụ nhiều học sinh viết: “ Shỉ có văn học mới đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con ngừi”, lẽ ra chỉ viết: “ Văn học đã thực sự góp phần đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con ngừi”. Trong nhiều trừng hợp câu khẳng định được diễn đạt bằng câu phủ định của phủ định nhằm nhấn manhj vào sự khẳng định. Ví dụ: “ Nhà văn nhất định phản ánh trong sáng tác của mình những sự kiện…” được viết lại là: “ Nhà văn không thể không phản ánh trong sáng tác của mình những sự kiện…” thì sự khẳng định được nhấn mạnh hơn nhiều, cũng trong từng thể loại mà có từng loại câu cho phù hợp. Ví dụ: Như văn miêu tả thừng sử dụng câu trần, nhưng trong văn kể chuyện lại dùng câu hỏi, câu cảm, câu đối thoại. Điều quan trọng là giáo viên phải chỉ ra được tại sao lại dùng những kiểu câu khác nhau đó trong mỗi thể loại. 7.1.3.3. Sử dụng đa dạng, linh hoạt các biện pháp tu từ để tạo hình ảnh khi viết văn Đối với các loại văn sáng tác, đặc biệt là văn miêu tả, từng thuật, kể chuyện, ai cũng thấy là cần phải giàu hình ảnh. Bởi vì, chỉ có dùng hình ảnh mới dựng lên được bức tranh cụ thể sinh động về cuộc sống, con ngừi và sự vật, nói bằng hình ảnh phản ánh và thể hiện cuộc sống thông qua hình ảnh chính là đặc trưng của tư duy hình tượng. Đó cũng là sức hấp dẫn của cái hay cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật nói chung và trong văn sáng tác nói riêng. Ví dụ: Khi tả về đêm trăng ta có thể viết: “ Ánh trăng xõng xoài, lả lướt trên mái nhà, ánh trăng nhảy nhót tinh nghịch trên các tàu lá rồi len lỏi nhỏ giọt xuống khu vừn, những cây hoa ướt đẫm sương đêm được trăng chiếu vào long lanh như dát bạc…” Hay một đoạn văn khác tả hoàng hôn trên biển: “ Ông mặt tr̀i đỏ rực từ từ hạ thấp xuống biển. Lúc này trông ông mới đẹp làm sao, ông ngồi đó uy nghi trên làn nước êm ả, lăn tăn vài gợn sóng, tựa như đang say sưa ngắm nhìn tr̀i biển…”. Shính những hình ảnh ấy đã gợi lên trong ta một bức tranh rất cụ thể sinh động và gợi cảm chứ không trần trụi, khô khan và đơn điệu như những phán đoán, những nhận xét hàng ngày. Ngôn ngữ trong văn nghị luận cũng hấp dẫn, lôi cuốn bằng những từ ngữ có hình tượng và có sức gợi cảm cao. Học đoạn trích: “ Shị em Thúy Kiều” trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du trong chương trình Ngữ văn 9- tập 1, chúng ta thấy bút pháp điêu luyện của một nghệ sĩ thiên tài trong việc sử dụng đa dạng các biện pháp nghệ thuật để xây dựng bức chân dung của Thúy Kiều. Vì thế, khi bình về đoạn trích: “ Shị em Thúy Kiều”, nhà phê bình Đặng Thanh Lê đã nhận xét: Đoạn thơ khắc họa một chân dung nhân vật có nhan sắc tài hoa, phẩm cách đẹp đẽ, phong phú, toàn vẹn nhưng đằng sau đó là một số mệnh diễn tả những ý niệm triết học và thể hiện một cảm hứng nhân văn sâu sắc của Nhà thơ họ Nguyễn”. Khi miêu tả nhân vật chính diện là Thúy Kiều, Thúy Vân… Nguyễn Du đã rất trân trọng và yêu thương nên ông đã dùng nghệ thuật ước lệ tượng trưng lấy những cái đẹp nhất của thiên nhiên để tả vẻ đẹp của hai nàng như: “ làn thu thủy”, “nét xuân sơn”, “ nghiêng nước, nghiêng thành”, “ hoa ghen”, “ liễu h̀n”…Sái tài của Nguyễn Du là đã khắc họa chân dung để dự báo tính cách số phận của nhân vật như: “ Shữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” hay “ Tr̀i xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Khi miêu tả nhân vật phản diện, Nguyễn Du cũng rất thành công trong bút pháp nghệ thuật: “ Nguyễn Du không sử dụng ngòi bút trực diện miêu tả mà qua sự phác thảo mối quan hệ mập m̀, vẻ ngoài chải chuốt, cử chỉ vô học và đặc biệt là cái “ cò kè” rất con buôn của Mã Giám inh khi mua Kiều đã được Nguyễn Du đưa lên sân khấu với một bộ mặt tàn ác, nhơ bẩn nhất trong truyện Kiều”. Văn nghị luận cũng cần sự mềm mại, tươi mát theo cách riêng của mình. Bài văn nghị luận hay là bài văn vừa giàu sức thuyết phục luận lý, vừa giàu hình ảnh. Hình ảnh làm tăng sức thuyết phục, làm cho chân lí vừa sáng tỏ vừa thấm thía. Bieenjphaps cơ bản nhất để bài văn viết có hình ảnh là ngừi viết dùng phép so sánh, liên hệ, đối chiếu. Ở đây tư tưởng trìu tượng, khái quát khô khan được minh họa, diễn đạt bằng cách so sánh với hàng loạt hình ảnh cụ thể sinh động tạo nên khoái cảm cho ngừi đọc không kém gì văn sáng tác. Những so sánh hay là những so sánh vừa chính xác đích đáng, vừa bất ng̀ thú vị. o sánh hay bao gì cũng gợi cảm, gơi trí tưởng tượng và những liên tưởng phong phú trong lòng ngừi đọc. Đánh giá vị trí và ý nghĩa độc đáo của thơ Hàn Mạc Tử, Shế Lan Viên viết: “ Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mạc Tử như ngôi sao chổi xoẹt trên bầu tr̀i Việt Nam với cái đuôi lòa chói rực rỡ của mình” ( Tuyển tập Hàn Mạc Tử). 7.1.3.4. So sánh văn học o sánh ở đây được trình bày như là một cách thức là một bài văn nhằm làm nổi rõ chỗ giống nhau và khác nhau, soi sáng mặt kế thừa, hoặc đánh giá những chuyển biến hay tài năng biến hóa phong phú của một cây bút trong những tác phẩm viết chung về một đề tài một đối tượng ở nhiều th̀i điểm khác nhau. Vận dụng phép so sánh văn học, một mặt làm sáng tỏ được vấn đề, mặt khác nó chứng tỏ ngừi viết có kiến thức phong phú, rộng rãi. Ví dụ: Khi phân tích bài thơ “ Ngắm trăng” của Hồ Shí Minh ta có thể liên hệ đến nhiều bài thơ khác về trăng của Ngừi để thấy được tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu thích cái đẹp và khát vọng tự do của Ngừi. Sũng cần phải chú ý cho học sinh so sánh để làm nổi bật cái hay cái đẹp của tác phẩm được phân tích chứ không phải để phô trương kiến thức rơi vào lan man, mất trọng tâm, trọng điểm khiến bài viết tản mạn. Những so sánh hay là những so sánh làm cho ngừi đọc thấy tự nhiên, không gượng ép mà vấn đề lại được nổi bật. Ví dụ: Khi cho học sinh tìm hiểu giá trị nghệ thuật của biện pháp tu từ ẩn dụ, giáo viên có thể đưa ra những dẫn chứng trong hai câu thơ: “ Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” Sâu ca trên đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ, đó là hình ảnh ẩn dụ truyền thống: thuyền và bến được ngầm với chàng trai và cô gái th̀i phong kiến, giáo viên có thể đưa thêm hình ảnh thuyền và bến của Xuân Quỳnh vào để minh họa thêm, giúp học sinh khắc sâu thêm biện pháp tu từ ẩn dụ, đồng th̀i giúp các em được tiếp xúc với một ý thơ hay, một tâm hồn đẹp. Hay giáo viên có thể đọc minh họa cho học sinh mấy câu ca dao sau: “ Em tưởng giếng nước sâu Em nối sợi dây dài Ai ng̀ nước giếng cạn Em cứ tiếc hoài sợi dây” ( Sa dao) Và: “ Ngừi lắng nghe úng lắng nghe Tiếng chim nhuộm nắng Vàng hoa núi đồi” ( Đặng Vương Hưng) Để giúp các em thấy được cái ý nhị kín đáo, cái xót xa được thể hiện trong ca dao qua ẩn dụ so sánh ngầm; thấy được cái cảm xúc độc đáo của Đặng Vương Hưng qua ẩn dụ chuyển đổi cảm giác khi nhà thơ miêu tả tiếng chim. Hình ảnh tiếng chim làm bừng sáng không gian, tiếng chim đẩy bầu tr̀i lên cao để nó xanh v̀i vợi, tiếng chim làm nắng tr̀i thêm rực rỡ trải khắp núi đồi, đồng quê, cả không gian dừng như tràn ngập tiếng chim kì diệu đó. 7.1.3.5. Lập luận như một cuộc thoại ngầm Văn viết nói chung và làm văn trong nhà trừng nói riêng thực chất đều là những cuộc đối thoại ngầm. Đối thoại giữa ngừi viết và ngừi đọc ( một đối tượng giả định nào đó). Trong văn nghị luận, lập luận là sự tổ chức các lí lẽ và dẫn chứng nhằm làm sáng tỏ vấn đề, để ngừi đọc hiểu tin và đồng tình với mình. Muốn lập luận chặt chẽ, kín cạnh khi viết, ngừi viết nên đặt mình vào địa vị ngừi đọc và giả định nếu ngừi đọc không cùng một ý nghĩ với mình để lập luận cho hết nhẽ. Vì thế lập luận trong văn nghị luận thừng như một cuộc đối thoại ngầm về một vấn đề nào đó, với một ngừi nào đấy. Ví dụ: Khi viết về nhân vật Thúy Kiều trong “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du, giáo viên có thể cho học sinh tham khảo đoạn văn: “ Đ̀i Kiều là một tấm gương oan khổ, một câu chuyện thê thảm về vận mệnh con ngừi trong xã hội cũ. Dựng lên một ngừi và một cuộc đ̀i như vậy là một cách Nguyễn Du phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề của th̀i đại. L̀i phát biểu ấy trước hết là một tiếng kêu thương, một tiếng kêu não nùng, đau đớn, suốt trong quyển truyện không chút nào văng vẳng bên tai”. Sũng do nhu cầu lập luận ngừi viết thừng dùng đến những từ ngữ như: Tại sao, vì thế, cho nên, thật vậy, mặt này, mặt khác, giả sử, trước hết…có thể gọi chung là hệ thống từ lập luận. Trong quá trình lập luận cần tránh một số looic như: lập luận thiếu lôgích, luận điểm không rõ ràng, luận cứ thiếu chính xác, dẫn chứng không đáng tin cậy. 7.1.3.6. Chọn lọc và sử dụng dẫn chứng khi viết Nếu văn sáng tác, khi mô tả cuộc sống, khi dựng ngừi dựng cảnh phải lựa chọn chi tiết tiêu biểu điển hình thì trong văn nghị luận cũng phải lựa chọn dẫn chứng sao cho thích đáng. Trước hết học sinh cần phải lựa chọn dẫn chứng bắt buộc và dẫn chứng mở rộng. Dẫn chứng bắt buộc là dẫn chứng nằm trong phạm vi yêu cầu của đề về tư liệu, còn dẫn chứng mở rộng là loại dẫn chứng ngoài phạm vi trên do ngừi viết tự viện ra để liên hệ, đối chiếu so sánh nhằm làm sáng tỏ thêm ý bàn bạc. Học sinh cần phân biệt hai loại dẫn chứng và tuân thủ theo quy tắc: Phải coi trọng và tập trung chính vào dẫn chứng bắt buộc tránh tình trạng dẫn chứng mở rộng nhiều hơn, coi trọng hơn, làm át cả dẫn chứng bắt buộc. Dẫn chứng bắt buộc cho ngừi đọc thấy bề sâu của ngừi phân tích còn dẫn chứng mở rộng thấy được bề rộng của tầm kiến thức của họ. Trong quá trình viết bài học sinh cần chú ý đến tỉ lệ giữa dẫn chứng và lí lẽ. Bài viết nếu chỉ có lí lẽ sẽ trở nên khô khan tạo cảm giác nặng nề cho ngừi đọc. Trái lại bài viết chỉ toàn dẫn chứng, ít lí lẽ bài văn sẽ h̀i hợt nhạt nhẽo gây cho ngừi đọc cảm giác nhàm chán. Tất nhiên phải đúng vào từng vấn đề cụ thể mà xác định tỉ lệ này cho phù hợp. Như vậy phải thật linh hoạt trong việc xác định dẫn chứng, cũng như cách đưa dẫn chứng, khi thì trích nguyên văn, khi chỉ cần tóm tắt, khi trích một vài từ, một vài chi tiết tiêu biểu nhưng có chỗ phải dẫn ra cả đoạn dài. Sũng cần phải nói thêm rằng dẫn chứng phải được phân tích cho hay và gắn bó với lí lẽ mà nó cần làm sáng tỏ. Một bài văn có nhiều dẫn chứng la liệt mới chỉ tỏ ra ngừi viết chăm học nhớ nhiều chứ chưa nói được gì về trình độ nhận thức, năng khiếu thẩm mĩ và tài hoa. Ngừi đọc bài, chấm bài văn sẽ nhận ra được trình độ năng lực này nh̀ những l̀i phân tích, bình giá, bình luận các dẫn chứng của ngừi viết. Muốn làm tốt bài văn xét ở góc độ dẫn chứng, ngừi học sinh cần phải tích lũy cho mình một gia tài dẫn chứng phong phú đa dạng trên nhiều phương diện. Nhưng điều quan trọng hơn là cần suy nghĩ cách phân tích, bình giá sử dụng các dẫn chứng ấy sao có hệ thống và đạt được hiệu quả cao. Ví dụ: Khi đề bài yêu cầu chứng minh: “ Truyện Kiều được coi là đỉnh cao nghệ thuật của Nguyễn Du”. Muốn chứng minh được điều này giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh đưa ra được những dẫn chứng để chứng minh như: Thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ gồm 3254 câu thơ lục bát. ự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Khắc họa nhân vật qua phương thức tự sự, miêu tả chỉ bằng vài nét chấm phá nhưng mỗi nhân vật trong “ Truyện Kiều” hiện lên như một chân dung sống động. Sách xây dựng nhân vật chính diện thừng được xây dựng theo lối lí tưởng hóa, bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất sinh động. Với nhân vật phản diện của Nguyễn Du chủ yếu khắc họa theo lối hiện thực hóa, bằng bút pháp hiện thực như miêu tả qua ngoại hình, cử chỉ, l̀i nói, hành động…của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, bên cạnh bức tranh thiên nhiên chân thực sinh động như trong đoạn trích “ Sảnh ngày xuân” hay như bức tranh tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc “ Kiều ở lầu Ngưng Bích”. 7.1.3.7. Giọng văn trong bài văn Trong một bài văn nói chung ngừi viết bao gì cũng thể hiện thái độ và tình cảm, tư tưởng của mình trước một vấn đề mà mình đang quan tâm miêu tả hoặc bàn luận. Giọng văn là sự thể hiện màu sắc tình cảm đó. Qua bai văn ngừi đọc nhận ra ngừi viết tán thành hay phản đối, ngợi ca hay châm biếm, kính cẩn hay xuồng xã, buồn rầu hay vui sướng thất vọng hay hi vọng tin tưởng… Đối với loại văn sáng tác, thái độ và tình cảm, tư tưởng của ngừi viết thể hiện rất rõ trong cách mô tả, từng thuật, cách lựa chọn các chi tiết tiêu biểu điển hình cách dùng đại từ nhân xưng. Ví dụ: Khi tả buổi tan trừng, có những buổi vui vẻ thoải mái thích thú vì có thể học sinh đạt được kết quả cao trong buổi học, nhưng cũng có nhưng buổi tan trừng tâm trạng không vui vì có thể có kết quả thấp trong học tập hoặc mắc khuyết điểm gì đó. Nên khi tả cảnh vật cần có những từ ngữ giọng điệu cho phù hợp với tâm trạng. Trong văn nghị luận tư duy suy lí lôgich, nhưng vẫn cần màu sắc biểu cảm để bộc lộ thái độ tình cảm của ngừi viết đối với vấn đề được bàn luận. Giọng văn của bài văn nghị luận cũng cần phải thay đổi linh hoạt tránh kiểu viết một giọng, đều đều từ đầu đến cuối tạo cảm giác đơn điệu. Muốn thế trước hết phải sử dụng linh hoạt hệ thống từ nhân xưng. Shúng ta đã biết từ xưng hô trong Tiếng Việt rất giàu màu sắc biểu cảm và hết sức phong phú. Để diễn đạt ấn tượng chủ quan của riêng mình với ngừi viết ngừi xưng tôi. Ví dụ: “ Đọc những câu thơ trên, không hiểu sao tôi lại hình dung đén một dòng sông đang lặng lẽ chảy…” Khi biểu thị ý kiến riêng của mình ngừi ta thừng viết: Tôi cho rằng, tôi nghĩ rằng, theo chỗ tôi được biết…nhưng để lôi cuốn sự đồng tình, đồng cảm về vấn đề đang bàn bạc trở nên khách quan hơn, ngừi viết thừng xưng: chúng tôi, chúng ta, như mọi ngừi đều biết… Nhiều học sinh suốt từ đầu đến cuối bài văn, chỗ nào cũng chỉ thấy xưng nhà thơ hoặc tác giả mà không biết thay đổi tên gọi. Ví dụ: Khi viết về Bác Hồ chẳng hạn có rất nhiều cách gọi:Vị cha già dân tộc, Shủ tịch Hồ Shí Minh, ngôi sao sáng chói trên bầu tr̀i Việt Nam… Trong quá trình viết bài văn nghị luận không nên chỉ dùng một loại thao tác tư duy, khi dùng quy nạp, khi dùng diễn dịch, khi thì phân tích lí lẽ rồi đưa ra dẫn chứng, khi thì đưa dẫn chứng ra mới phân tích, bình chú sau, khi thì liên hệ khi thì so sánh đối chiếu…cũng là để bài viết có giọng văn sinh động phong phú không một chiều đơn điệu. L̀i văn trong văn nghị luận, nhất là nghị luận văn học không chỉ cần chuẩn xác mà cần phải có giọng văn truyền cảm để thể hiện cảm xúc. ử dụng hình ảnh đúng chỗ, đúng mức không những tạo điều kiện thuận lợi cho ngừi đọc đến với chân lí một cách dễ dàng mà còn gây ấn tượng sâu sắc cho ngừi đọc. Ví dụ: Bàn về thơ văn Nguyễn Đình Shiểu, ông Phạm Văn Đồng có viết: “ Trên tr̀i có những vì sao có những ánh sáng khác thừng, nhưng con mắt của của chúng ta, phải chăm chú nhìn mới thấy và càng nhìn thì càng thấy sáng, văn thơ Nguyễn Đình Shiểu cũng vậy”. Só một điều cần lưu ý là không nên hiểu lệch yêu cầu truyền cảm của l̀i văn nghị luận thành thói khoa trương, trống rỗng, tầm thừng. Hình ảnh so sánh phải nảy sinh từ sự phân tích thực tiễn một cách khoa học thì hình ảnh ấy mới nâng cao cảm xúc của ngừi đọc, cảm xúc phải xuất phát từ niềm tin và nhiệt tình thành thật thì cảm xúc ấy mớ tạo nên sức lôi cuốn của l̀i văn. Ngoài ra cũng cần tránh dùng hình ảnh hay dùng từ cảm thán một cách tràn lan, sự lạm dụng sẽ kiến bài văn nghị luận đi chệch khỏi phong cách ngôn ngữ khoa học mà nó cần có. Trên đây là một số cách tôi đã áp dụng cho thực tế giảng dạy cho học sinh THS . Tất nhiên đây là những vấn đề chọn lọc khái quát. Trong thực tế giảng dạy, tôi không những say mê nhiệt tình với công việc mà bản thân phải linh hoạt, mềm dẻo từng tiết dạy, tùy từng đối tượng học sinh mà vận dụng sao cho các em hiểu thấy sự cần thiết phải nắm lấy những kiến thức đó. 7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến: áng kiến này có thể áp dụng trong chương trình dạy học môn Ngữ Văn lớp 6, 7, 8, 9 trong nhà trừng cấp THS . Qua quá trình nghiên cứu và khảo sát, những lưu ý về phương pháp, kinh nghiệm được đề xuất trong sáng kiến có tác động tích cực đối với các em học sinh, có thể triển khai rộng rãi sáng kiến này trong các trừng học toàn Thành phố. 8. Những hông in cần đươc bảo mậ : Không 9. Các điều kiêṇ cần hiế để áp dụng sáng kiến Sác điều kiê ̣n cần thiết để áp dụng sáng kiến kinh nghiê ̣m: - Đối với giáo viên giảng dạy cần nghiên cứu, tìm tòi kiến thức, đổi mới phương pháp truyền thụ. Từ những thành công tuy còn rất nhỏ của mình tôi nghĩ rằng đối với giáo viên dạy Ngữ văn ở THS nói chung và giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng phải luôn có sự tìm tòi, học hỏi nhiều, nhất là tìm tòi qua các tài liệu, sách tham khảo rồi tích lũy thành vốn kiến thức của mình. Giáo viên dạy văn phải có tủ sách văn học, có sự hiểu biết sâu rộng cũng như những kiến thức về lí luận văn học, luôn có sự đổi mới cải tiến soạn giảng, luôn ghi nhớ rằng mình không chỉ truyền thụ về kiến thức mà còn phải hướng dẫn các em kĩ năng viết bài, sử dụng từ ngữ, viết câu qua l̀i giảng của cô. Ngừi giáo viên phải biết kết hợp dạy Văn trong Tiếng Việt và dạy Tiếng Việt trong Văn. Vân dụng quan điểm tích hợp trong việc dạy Ngữ văn. Rèn từ cách viết đến nói năng, phát biểu trong gì Ngữ văn, theo dõi sát chất lượng học của các em qua cách giảng của mình để bổ sung những gì còn hạn chế. Đặc biệt qua khâu chấm chữa trả bài giáo viên phải chỉ ra được mặt mạnh, mặt yếu của từng bài tránh nhận xét chung chung. Giáo viên có thể chấm bài tay đôi với học sinh để giúp các em nhận rõ được điều này. Những bài mắc nhiều về lối diễn đạt, giáo viên phải đầu tư nhiều th̀i gian, công sức để giúp đỡ học sinh, tránh hiện tượng chán nản khi viết ở các em. Như vậy ta vừa dạy văn lại vừa phải tạo hứng thú cho các em học văn, điều quan trọng là giáo viên và học sinh thật sự phải kiên trì, bền bỉ say mê với môn học. - Đối với các tổ chuyên môn trong nhà trừng cần phải bàn bạc trao đổi kiến thức, phương pháp, kĩ năng đặc biệt là các buổi thực hiện chuyên đề, rút kinh nghiệm trong những lần hội giảng. Tổ chuyên môn cần tham mưu với Ban giám hiệu, Phòng giáo dục tổ chức khảo sát thực tế gì dạy để mở rộng bồi dưỡng chuyên đề cho giáo viên. - Đối với học sinh: + Là học sinh các lớp 6, 7, 8, 9 cấp THS + Só thái độ tích cực, chủ động, chăm chỉ học tập. Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh viết bài Tập làm văn hay đã rèn cho học sinh một số kĩ năng khi viết bài viết. Thực tế cho thấy, giáo viên dạy Ngữ văn có thể áp dụng những kĩ năng này ở tất cả các khối lớp 6, 7, 8, 9. 10. Đánh giá kế uả hực hiêṇ của đề ai 10.1 Đánh giá lli ịh thu đưḷ do áp ddng áng kiiên Với cách dạy trên tôi thấy dần dần đã thu hút được các em học sinh say mê yêu thchs môn văn và kết quả học tập của các em đẵtng lên rõ rệt. Sác em bước đầu có cuốn sổ tay văn học, đã tìm tòi tài liệu về tác phẩm văn học và đặc biệt các em cảm thấy thích thú khi nghe tôi giảng. * Kết quả cụ thể: Kết quả khảo sát trong năm học 2017 - 2018 khi chưa thực hiện sáng kiếến: Lơp/ T.số Giỏi Khá TB Yếu Kém khối HS T. số % T. số % T. số % T. số % T. số % 9A 38 5 13,2 10 26,3 12 31,6 11 28,9 0 0 9B 40 7 17,5 11 27,5 15 37,5 7 17,5 0 0 Tổng 78 12 15,4 21 26,9 27 34,6 18 23,1 0 cộng Kết quả khảo sát trong năm học 2017 - 2018 sau khi đã thực hiện sáng kiếến: Lơp/ T.số Giỏi Khá TB Yếu 0 Kém khối 9A HS 38 9B 40 T. số % T. số % 8 21,1 16 42,1 9 22,5 18 45 T. số % T. số 14 36,8 0 13 32,5 0 % 0 T. số 0 % 0 0 0 0 Tổng 78 17 21,8 34 43,6 27 34,6 0 0 0 0 cộng Việc áp dụng những kinh nghiệm trên tôi thấy rằng mình đã có kết quả trong sự tìm tòi đổi mới phương pháp trong việc rèn luyện học sinh viết văn. Học sinh từ chỗ không thích chán nghe môn Văn dần dần các em say mê bộ môn và chất lượng lượng bộ ôn đã tăng lên nhiều. Hầu hết các em đã khôn khéo, thật trọng hơn trong cách diễn đạt bài văn, bài viết bước đầu đã có sức thuyết phục, các em thích viết văn, đã tự viết bài để giáo viên tham gia góp ý, nhiều em đã tỏ ra mình có kinh nghiệm trong cách viết văn, chính kết quả đó đã làm nguồn cổ vũ động viên lớn đối với giáo viên và học sinh chúng tôi. Shúng tôi đã có được nhiều kinh nghiê ̣m hơn về hướng dẫn cho học sinh viết bài Tập làm văn hay mà trước đây vốn là điểm yếu ở tổ Khoa học xã hô ̣i chúng tôi. Kết quả hô ̣i giảng đạt được cũng rất khả thi. Kì I năm học 2017- 2018 tổ tôi có 5 giáo viên Ngữ văn tham gia hô ̣i giảng, kết quả cho thấy có 3 tiết đạt loại Khá, 2 tiết đạt loại Giỏi. Kì II năm học 2017- 2018, kết quả xếp loại đã có sự tiến bô ̣ rõ rê ̣t: 4 tiết dạy Giỏi, 1 tiết dạy Khá. Kết quả đó mô ̣t phần nói lên kinh nghiệm hướng dẫn học sinh viết bài tập làm văn hay của chúng tôi có hiê ̣u quả. Qua bài kiểm tra 10 phút sau tiết học, tôi đã thu được kết quả khá khả quan. au đây là mô ̣t số đoạn văn tiêu biểu: Em Nguyễn Ngọc Shâm- lớp 9A cảm nhâ ̣n của nhà thơ về sự chuyển mùa của thiên nhiên trong bài “ ang thu”- Hữu Thỉnh: Trong thơ xưa khi nói đến mùa thu thường là: “ Sen tàn, cúc nở, lá ngô đồng rụng, rừng phong lá đỏ...” Trong “ Truyện Kiều Nguyễn Du có viết: “ Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân” Đến thơ mới Bích Khê vẫn viết: “ Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” Còn với Hữu Thỉnh, mùa thu bắt đầu từ hương ổi chín thơm. Hương ổi phả vào trong gió, từ phả gợi hương thơm như sáng lại, dịu ngọt, đậm đà. Nhận ra trong gió thu có hương ổi là một cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê. Hữu Thỉnh đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã và thi vị, mang vẻ đẹp đặc trưng của mùa thu vùng nông thôn của đồng bằng Bắc Bộ. “ Hương ổi”- sứ giả của mùa thu cùng với “ gió se”. “ Gió se” là gió heo may, se lạnh mang đến không khí điển hình của mùa thu. Trong bài “ Đát nước” khi viết về mùa thu Hà Nội Nguyễn Đình Thi từng viết: “ Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may” Ngoài ra báo hiệu thu sang còn có hình ảnh “ Sương chùng chình qua ngõ”. Đây quả là một hình ảnh lung linh huyền ảo, gợi cảm, gợi hình. “ Chùng chình” là từ láy gợi hình diễn tả hoạt động chậm chạp như là cố ý chậm lại. Nhà thơ đã thổi hồn vào câu thơ khiến màn sương thu chứa đầy tâm trạng như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà ai. Hơn nữa “ Sương chùng chình qua ngõ” còn là cái “ chùng chình” vừa mơ hồ, vừa động, gợi cả gió có cả hương, cả tình. Ngõ thu cũng là cửa ngõ giao thông của hai mùa. Ngoài ra tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa được thể hiện qua từ “ phả”, “ chùng chình” đã làm nổi bật của vẻ đẹp thiên nhiên luvs giao mùa thật là sinh động, quyến rũ và mơ màng. Em Nguyễn Thị Thương- lớp 9S cảm nhâ ̣n về hình ảnh “ trái tim” trong văn bản Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật: Hình ảnh trái tim là mô ̣t hình ảnh hoán dụ có giá trị gợi tả đă ̣c biêt:̣ Trái tim ở đây là con người biết yêu thương, biết ý thức được mục đích của viê c̣ mình làm. “ Trái tim” ở đây là người chiến si. Và nhờ có trái tim ấy mà người lính điều khiển được những chiếc xe không kính lao đi trong mưa bom bão đạn. Có người cho rằng: rõ ràng ở đây là “Trái tim cầm lái”. Phải chăng câu thơ cuối với hình ảnh này đã làm sáng lên toàn bô ̣ bài thơ, sáng lên chủ đề của tác ph̉m và sáng lên ý thức sáng tác của bài thơ. Hình ảnh trái tim đã trở thành mắt thần, thành điểm sáng của bài thơ vâ ̣y.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan