Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số dạng bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5...

Tài liệu Một số dạng bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5

.PDF
87
1284
58

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu nên trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác. Họ và tên tác giả Trần Thảo Nam i Lời cảm ơn Trước hết em xin kính gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Trương Thị Thanh Thoài người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em về kiến thức và phương pháp để em hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp này. Qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo,các em học sinh trường tiểu học Hải Đình – Đồng Hới – Quảng Bình,bạn bè và người thân đã động viên khích lệ và tạo điều kiện cho em trong thời học tập và thực hiện khóa luận. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Đồng Hới, tháng 5 năm 2015 Trần Thảo Nam ii MỤC LỤC Lời cam đoan………………………………………………………………….….…i Lời cảm ơn……………………………………………………………..………...…ii Mục lục……………………………………………………………………………..iii MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1 Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HỆ THỐNG BÀI TẬP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO HỌC SINH LỚP 5 1.1.Cơ sở lí luận ..........................................................................................................8 1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học ..........................................................................................8 1.1.1.1. Đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt với việc phát triển vốn từ cho học sinh tiểu học. ..............................................................................................................................8 1.1.1.1.1. Đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt....................................................................8 1.1.1.1.2. Kết luận sư phạm ......................................................................................16 1.1.1.2. Các lớp từ tiếng Việt và việc phát triển vốn từ cho học sinh tiểu học .........17 1.1.1.2.1. Các lớp từ tiếng Việt .................................................................................17 1.1.1.2.2. Kết luận sư phạm ......................................................................................22 1.1.1.2.3. Trường nghĩa của từ và vấn đề thiết kế bài tập phát triển vốn từ .............23 1.2. Cơ sở tâm lí giáo dục học...................................................................................24 1.2.1. Mục tiêu dạy học tiếng Việt và việc dạy học từ cho học sinh lớp 5 ...............24 1.2.2. Các yếu tố tâm lí của học sinh lớp 5 có liên quan đến việc phát triển vốn từ 25 1.2.3. Cơ chế của hoạt động tích lũy từ và bài tập mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học. ............................................................................................................................27 1.2.4. Những yêu cầu đối với bài tập dạy tiếng Việt và việc xây dựng hệ thống bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5 ....................................................................28 1.3. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................33 1.3.1. Tình hình dạy và học từ trong nhà trường tiểu học.........................................33 1.3.2 Các dạng bài tập phát triển vốn từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học .34 1.3.2.1. Mục đích và cách thức khảo sát ...................................................................34 1.3.2.2. Phân loại và miêu tả các bài tập phát triển vốn từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học....................................................................................................34 iii 1.3.2.3. Nhận xét, đánh giá về các bài tập phát triển vốn từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học....................................................................................................36 Chương 2: MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO HỌC SINH LỚP 5 2.1. Giới thiệu khái quát hệ thống bài tập .................................................................38 2.2. Miêu tả các dạng bài tập.....................................................................................41 2.2.1. Nhóm bài tập phát triển vốn từ theo cấu tạo của từ tiếng Việt (A) ................. 41 2.2.1.1. Dạng bài tập phát triển vốn từ theo cấu tạo của từ đơn (A.1) ...................... 41 2.2.1.3. Dạng bài tập phát triển vốn từ theo cấu tạo từ ghép (A.3)...........................44 2.2.2. Nhóm bài tập phát triển vốn từ theo đặc điểm các lớp từ tiếng Việt (B)........45 2.2.2.1. Dạng bài tập phát triển vốn từ theo đặc điểm từ đồng nghĩa (B.1)..............45 2.2.2.3. Dạng bài tập phát triển vốn từ theo đặc điểm từ đồng âm (B.3)..................48 2.2.2.4. Dạng bài tập phát triển vốn từ theo đặc điểm từ nhiều nghĩa (B.4).............49 2.2.2.5. Dạng bài tập phát triển vốn từ theo đặc điểm từ địa phương (B.5) .............52 2.2.2.6. Dạng bài tập phát triển vốn từ theo đặc điểm từ thuật ngữ (B.6) ................53 2.2.2.7. Dạng bài tập phát triển vốn từ theo đăc điểm từ mượn (B.7) ......................54 2.2.3. Nhóm bài tập phát triển vốn từ theo chủ đề (C)..............................................55 2.3. Phương hướng triển khai hệ thống bài tập phát triển vốn từ vào thực tiễn dạy học ở lớp 5.................................................................................................................56 Chương 3: THỰC NGHIỆM DẠY HỌC 3.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................................57 3.2. Đối tượng, thời gian, địa bàn thực nghiệm ........................................................57 3.3. Nội dung thực nghiệm........................................................................................58 3.3.1. Thực nghiệm thăm dò khả năng thực hiện các bài tập về từ của học sinh lớp 5 ...................................................................................................................................58 3.3.2. Thực nghiệm kiểm tra, đánh giá .....................................................................59 3.4. Phương pháp thực nghiệm .................................................................................59 3.4.1. Thực nghiệm thăm dò .....................................................................................59 3.3.2. Thực nghiệm dạy học......................................................................................60 iv 3.5. Kết quả thực nghiệm ..........................................................................................60 3.5.1. Thực nghiệm thăm dò khả năng thực hiện các dạng bài tập về từ..................60 3.5.2. Thực nghiệm kiểm tra, đánh giá .....................................................................62 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................................64 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................66 v MỞ ĐẦU 1. Lý do cho đề tài Như chúng ta đã biết, trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay đòi hỏi con người cần có tri thức và kĩ năng thực hành. Theo định hướng đó thì bậc tiểu học là nền tảng. Mục tiêu của giáo dục tiểu học là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Mỗi một môn học ở tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh và cung cấp cho các em những ti thức cần thiết. Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “ Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đổi mới cơ bản và toàn diện sự nghiệp giáo dục là một trong ba khâu đột phá của đất nước trong giai đoạn tới”. Như vậy, giáo dục giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc đào tạo và bồi dưỡng năng lực chất lượng cao cho đất nước. Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn hoạt động ngôn ngữ tương ứng với bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Từ xưa đến nay, các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ đã khẳng định: Từ là đơn vị cơ bản, đơn vị trung tâm của hệ thống ngôn ngữ. Có thể nói ngôn ngữ của chúng ta là ngôn ngữ của từ, cho nên nếu không có từ thì không có bất cứ ngôn ngữ nào. Chính vì vậy từ giữ vai trò và vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Điều này cũng giải thích tại sao ngay từ bậc tiểu học người ta đã quan tâm đến việc dạy từ ngữ cho học sinh. Theo cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Trong ngôn ngữ thì từ quan trọng nhất, rồi đến câu, sau đó đến văn”. Cho nên dạy từ là rất cần thiết. Ngay từ bậc tiểu học, từ ngữ cần được dạy trong tất cả các môn học của bậc tiểu học. Đặc biệt là môn Tiếng Việt, với tính chất là môn học công cụ việc dạy từ càng quan trọng hơn. Bởi muốn giao tiếp tốt học sinh phải có vốn từ, tức là phải hiểu từ, có khả năng huy động và sử dụng từ, vốn từ của các em càng giàu có thì khả năng huy động và lựa chọn từ càng nhanh và chính xác, sự trình bày tư tưởng, tình cảm càng rõ ràng, đặc sắc. Vốn từ là những kĩ năng từ ngữ học sinh tiếp thu được ở tiểu học, là cơ sở để các em tiếp tục học tốt ở các bậc học sau. Chính vì vậy, việc phát triển vốn từ cho học sinh tiểu học có vai trò rất quan trọng. Vốn từ là nền móng để phát triển ngôn ngữ, mà ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển về trí tuệ của trẻ. Vốn từ được sử dụng trong lời nói được coi là một phương tiện tác động rất tinh tế trong hệ thống xây dựng môi trường Sư 1 phạm có định hướng, bởi trong ngôn ngữ lời nói không chỉ có thông tin mà còn có ngôn ngữ tình cảm. Ngôn ngữ nói có thể tạo nên hiện thực tâm lý có sức mạnh đặc biệt. Trên con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội, một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa cần tạo ra những con người hoàn thiện về mọi mặt, trong đó phát triển vốn từ phong phú nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Tuy nhiên, thực tiễn dạy – học từ ngữ ở bậc tiểu học nói chung, lớp 5 nói riêng hiện nay còn gặp những khó khăn, hạn chế nhất định. Nhìn chung các giáo viên tiểu học đều cho rằng từ ngữ là một môn học khó cả đối với người dạy và người học. Nhiều giáo viên còn lung túng khi dạy bài từ ngữ, phần lớn còn lệ thuộc vào sách giáo khoa và sách hướng dẫn, chưa tạo được tình huống giao tiếp cụ thể, sinh động để học sinh luyện tập sử dụng từ, chưa gây được hứng thú học tập của các em, tiết học còn gò bó, nặng nề. Về phía học sinh, qua các bài học từ ngữ, các em được trang bị một vốn từ ngày càng phong phú nhưng hiện tượng học sinh chưa hiểu đầy đủ về từ, dùng từ sai, không phù hợp với ngữ cảnh, còn nhiều vốn từ của các em chưa trở thành vốn từ tích cực trong hoạt động tư duy và giao tiếp. Nhìn chung hiệu quả của giờ học từ ngữ ở tiểu học chưa đạt yêu cầu mong muốn. Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu ngôn ngữ nói chung, từ ngữ nói riêng trong hoạt động giao tiếp đã được nhiều nhà ngôn ngữ học và những người nghiên cứu về phương pháp giảng dạy tiếng quan tâm. Ở nước ta, đã có những cuốn sách, những bài viết nói về một số phương tiện của từ trong hoạt động giao tiếp, trong ngôn bản. Tuy nhiên, việc vận dụng quan điểm dạy ngôn ngữ, dạy từ theo hướng giao tiếp vào từng phân môn của môn Tiếng Việt ở nhà trường phổ thông là vấn đề còn phải nghiên cứu. Việc dạy từ ngữ ở nhà trường tiểu học theo định hướng cho đến nay nhìn chung chưa được nghiên cứu, vận dụng một cách cụ thể. Xuất phát từ những vấn đè nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “ Một số dạng bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5”. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy học tiếng Việt ở tiểu học. 2. Lịch sử vấn đề Phương pháp dạy học đã có từ rất lâu và nó được coi là vấn đề cốt lõi của lí luận dạy học. Hiện nay, có rất nhiều nhà nghiên cứu đi sâu, tìm hiểu việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy học ở nhà trường Phổ thông. 2 Từ những năm 1960, vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã đặt ra trong ngành giáo dục nước ta. Năm 1998, hai tác giả Lê Phương Nga và Nguyễn Trí đã viết cuốn “ Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học”. Cuốn sách không phải là chuyên luận đi sâu vào một vấn đề cụ thể, nóng hổi đang đặt ra với các nhà giáo dục. Tuy nhiên, sự thống nhất trong cả cuốn sách chính là quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt, một định hướng dạy học nhằm phát triển ở học sinh công cụ giao tiếp và công cụ tư duy. Năm 2003, Trần Bá Hoành cùng tác giả Nguyễn Thị Hạnh, Lê Phương Nga, Nguyễn Trí,… đã viết nhiều cuốn sách đi sâu nghiên cứu vấn đề đổi mới phương pháp theo hướng tích cực như “ Áp dụng dạy và học tích cực trong môn Tiếng Việt”, “ Áp dụng dạy và học trong môn văn học”… Cùng với sự thay đổi chương trình sách giáo khoa bậc tiểu học, việc đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với nội dung dạy học đã đề ra là một trong những vấn đề đang được mọi người quan tâm. Trong cuốn “ Dạy và học môn Tiếng Việt ở tiểu học theo chương trình mới”, tác giả Nguyễn Trí đã nhấn mạnh việc phối hợp các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh trong dạy học Tiếng Việt. Tác giả Trịnh Mạnh có bài “Dạy từ ngữ cho học sinh cấp một phổ thông”. Tài liệu này có hai đóng góp quan trọng. Thứ nhất, là xác định được ba nhiệm vụ cụ thể của dạy từ (chính xác vốn từ, phong phú vốn từ, tích cực hóa vốn từ). Thứ hai, là tài liệu đã xác định nội dung cụ thể của việc dạy từ, nên dạy cái gì và không nên dạy cái gì? Ngoài ba nhiệm vụ cơ bản mà Trịnh Mạnh đã đề cập, bài viết “Những điểm mới làm cơ sở cho việc dạy và học môn Tiếng Việt ở trường Trung học cơ sở” (Giáo dục số phụ, 1986). Tác giả Lê Cận có bổ sung thêm nhiệm vụ thứ tư của việc dạy từ đó là “ Giúp học sinh chuẩn mực hóa vốn từ”. Nhiệm vụ này xuất phát từ yêu cầu làm đẹp, làm trong sáng vốn từ của học sinh. Tác giả Lê Phương Nga đã tiến hành “ Tìm hiểu vốn từ của học sinh tiểu học”. Đây là chương trình có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì đã giải quyết hai nhiệm vụ : làm rõ khả năng hiểu nghĩa từ của học sinh tiểu học và xác định được khả năng sử dụng của các em. Tác giả đã đưa ra những con số thống kê về thực trạng nắm nghĩa từ và sử dụng từ của học sinh. Từ việc đó tác giả phân tích rõ các đặc điểm giải nghĩa từ và sử dụng từ của học sinh, đồng thời thấy được cả những lúng túng của các em khi thực hiện những hoạt động này. Luận án của tác giả Lê Hữu Tỉnh đã xây dựng “ Hệ thống bài tập rèn luyện năng lực sử dụng từ ngữ cho học sinh tiểu học”. Luận án đưa ra một hệ thống bài tập dạy từ cho học sinh tiểu học, với một cái nhìn toàn cục, tổng thể về diện mạo 3 của các bài dạy từ ở tiểu học. Tác giả đã phân tích về mục đích, ý nghĩa, tác dụng của bài tập, các tiều loại bài tập. Hệ thống bài tập cho phép người sử dụng lựa chọn từng bài vào điều kiện dạy học cụ thể. Có thể nói, vấn đề dạy từ cho học sinh tiểu học không phải là vấn đề hoàn toàn mới, đã có rất nhiều tài liệu đều đã đề cập đầy đủ và sâu sắc mọi khía cạnh của việc dạy từ như: dạy học sinh phát triển mở rộng, hệ thống hóa vốn từ, nắm nghĩa từ, hay rèn luyện kĩ năng dùng từ…và việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để dạy tiếng Việt theo chương trình mới. Tuy nhiên các tài liệu trên vẫn chưa đi sâu nghiên cứu về kiểu bài phát triển vốn từ ở lớp 5. Việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực phù hợp cho từng tiết học, bài học, phù hợp với đối tượng học sinh để phát huy tính tích cực hoạt động học tập của học sinh lớp 5 cũng chưa được các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu cụ thể. Thế nhưng chính từ các tài liệu này chúng tôi đã tiếp thu được nhiều điều bổ ích làm căn cứ cho việc đề xuất cách vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào dạy học kiểu bài phát triển vốn từ ở lớp 5 của mình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cấu trúc của hệ thống bài tập, nội dung và hình thức bài tập phát triển vốn từ ( theo chương trình và sách giáo khoa hiện hành). 3.2. Các bài tập do đề tài đề xuất được sử dụng trong các giờ thực hành luyện tập về từ trong những tiết dạy của các phân môn như chính tả, tập đọc, kể chuyện, tập làm văn, luyện từ và câu; có sự phối hợp giữa giáo viên và học sinh trong nhà trường. Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên đối tượng học sinh trường tiểu học Hải Đình ( lớp 51 và 52) 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Đề tài đưa ra một số dạng bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5. Hệ thống bài tập này phải mang tính sáng tạo, đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm; đồng thời phải phù hợp với mục tiêu môn Tiếng Việt lớp 5; khắc phục được những hạn chế và thiếu sót trong sách giáo khoa Tiếng Việt hiện hành. Mặt khác, đề tài phải mang tính khả thi, được ứng dụng rộng rãi và đem lại hiệu quả dạy học. 4.2. Để đạt được mục đích trên, đề tài phải giải quyết được những nhiệm vụ cơ bản sau: Xây dựng được cơ sở lí luận và thực tiễn của một số dạng bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5. Cụ thể, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu các lĩnh vực khoa 4 học có liên quan thuộc Ngôn ngữ học, Giáo dục học, Tâm lí học, Tâm lí lứa tuổi, Tâm lí học sư phạm, Lí luận dạy học hiện đại, Phương pháp dạy học tiếng Việt; nghiên cứu thực trạng dạy học từ ở tiểu học, đặc biệt là lớp 5. Trên cơ sở đó, phân tích và rút ra những kết luận sư phạm cần thiết nhằm xây dựng cấu trúc, nội dung một số bài tập phát triển vốn từ và hình thức hướng dẫn học sinh luyện tập. Xây dựng, giới thiệu cụ thể một số dạng bài tập. Nêu phương hướng triển khai một số dạng bài tập vào thực tiễn dạy học ở tiểu học. Đề tài phải trình bày được phương hướng triển khai một số dạng bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5 vào trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy. Tổ chức thử nghiệm sư phạm, phân tích kết quả thử nghiệm nhằm đánh giá khả năng đưa các dạng bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5 vào thực tế dạy học tiếng Việt lớp 5. 5. Phương pháp nghiên cứu Nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra trong đề tài, chúng tôi đã kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 5.1. Phương pháp thống kê – phân loại, thống kê – so sánh Phương pháp thống kê – phân loại được sử dụng trong liệt kê, phân loại hệ thống bài tập, phân loại hệ thống từ nhằm đưa ra những con số chính xác về các dạng bài tập trong sách Tiếng Việt tiểu học. Từ đó làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo. Phương pháp thống kê – so sánh được sử dụng trong đối chứng kết quả thử nghiệm. 5.2. Phương pháp quan sát Phương pháp này được sử dụng trong các tiết dự giờ, quan sát học sinh trong các hoạt động khác… để đánh giá mức độ và khả năng sử dụng từ của học sinh. 5.3. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp nghiên cứu thực tiễn được sử dụng trong tìm hiểu thực tiễn dạy học từ ở lớp 5 nói riêng, ở tiểu học nói chung. Thông qua dự giờ, quan sát, giáo viên lập phiếu điều tra để nắm tình hình sử dụng từ của học sinh. Từ đó, nghiên cứu, xử lí kết quả và rút ra được những kết luận làm cơ sở để xây dựng bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5. 5.4. Phương pháp thu thập thông tin Sử dụng trong thu thập ý kiến giáo viên, học sinh; thu thập tài liệu. 5 5.5. Phương pháp thử nghiêm sư phạm Phương pháp này được sử dụng trong khâu hoàn tất quá trình nghiên cứu nhằm xem xét, xác nhận tính khả thi của bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5 mà đề tài nghiên cứu. Các thử nghiệm được sử dụng gồm: - Thử nghiệm thăm dò nhằm thăm dò khả năng tực hiện của các dạng bài tập mà đề tai đưa ra. - Thử nghiệm dạy học nhằm kiểm chứng, đánh giá khả năng ứng dụng của hệ thống bài tập vào các tiết dạy cụ thể trong môn Tiếng Việt lớp 5. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lí luận Đề tài góp phần tìm hiểu thêm về từ tiếng Việt, nghiên cứu đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa, giá trị sử dụng từ trong ngôn ngữ và giao tiếp. Đây là những lớp từ quan trọng được sử dụng trong nhiều loại văn bản và trong lời ăn tiếng nói hằng ngày. Đề tài góp phần làm phong phú thêm lí luận dạy học từ nói riêng và dạy học tiếng Việt nói chung qua việc xây dựng cơ sở khoa học của các dạng bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5. 6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn Đề tài đã xây dựng được một số bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5 mang tính thực tiễn, giúp học sinh phát triển được vốn từ cũng như cách sử dụng của một lớp từ mang tính biểu đạt cao. Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho các giáo viên, phụ huynh và học sinh trong dạy và học tiếng Việt ở tiểu học. 7. Cấu trúc đề tài Luận văn gồm những phần sau: Phần mở đầu bao gồm lí do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đóng góp của đề tài, bố cục của đề tài. Phần nội dung gồm 3 chương: Chương 1: Trình bày cơ sở lí luận và thực tiễn của hệ thống bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5. Chương 2: Một số dạng bài tập phát triển vốn từ cho học sinh lớp 5. Chương 3: Thử nghiệm dạy học Phần kết luận – kiến nghị: Những kết quả đạt được của đề tài, đồng thời trình bày những kiến nghị, đề xuất. 6 Tài liệu tham khảo: Thống kê 20 tài liệu mà chúng tôi đã sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Phần phụ lục: giới thiệu phiếu điều tra về thực trạng dạy học từ ở lớp 5, đề bài kiểm tra ( phiếu bài tập) dùng trong thực nghiệm thăm dò, giáo án thực nghiệm, phiếu nhận xét các tiết dạy thực nghiệm, đề bài kiểm tra dùng trong thực nghiệm kiểm tra đánh giá (thực nghiệm dạy học). 7 Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HỆ THỐNG BÀI TẬP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO HỌC SINH LỚP 5 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học Ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống con người, là phương tiện giao tiếp. Nó được dùng để trao đổi những tâm tư tình cảm, dùng để thể hiện những yêu cầu, mong muốn, dùng để trao đổi những kinh nghiệm… Ngoài ra ngôn ngữ bao gồm những yếu tố và các đơn vị của ngôn ngữ, đó là: âm vị, hình vị, từ và câu. Những vấn đề xoay quanh ngôn ngữ luôn được nghiên cứu tranh luận, trong đó phương thức cấu tạo từ cũng như vậy. Từ chứa trong mình những giá trị vô cùng sâu sắc. Trước hết từ mang trong mình những đặc trưng có tính chất loại hình của tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ đơn lập khác ở phương đông. Đây là một hiện tượng đặc trưng cho loại hình ngôn ngữ đơn lập. Chính vì vậy, làm giàu vốn từ cho học sinh cũng là một trong những biện pháp để phát triển ngôn ngữ cho người học. 1.1.1.1. Đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt với việc phát triển vốn từ cho học sinh tiểu học. 1.1.1.1.1. Đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt Các từ trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng, có một số lượng rất lớn. Nhưng mỗi một từ không phải hoàn toàn khác biệt với những từ khác, mà chúng có những điểm giống nhau. Những từ này hình thành những loại, những lớp, những nhóm lớn nhỏ khác nhau trong lòng kho từ vựng. Dựa vào đó có thể phân các từ thành các loại. Các từ có thể có điểm giống nhau về âm thanh, chẳng hạn ở phần vần, ở phần phụ âm đầu, hoặc ở tất cả thành phần âm thanh. Từ đó ta có các từ gần âm hoặc đồng âm… Các từ có thể giống nhau về kiểu cấu tạo, từ đó chúng hợp thành các kiểu từ xét về mặt cấu tạo. Các từ có thể có điểm giống nhau về ngữ nghĩa, từ đó hình thành những hệ thống ngữ nghĩa với mức độ lớn nhỏ khác nhau: các trường nghĩa, các lớp từ gần nghĩa, đồng nghĩa… 8 Các từ có thể có điểm giống nhau về nguồn gốc, về phạm vi sử dụng, về đặc điểm phong cách. Chúng họp thành các lớp từ xét theo nguồn gốc ( các từ gốc Việt, các từ vay mượn), các lớp từ nghề nghiệp, các lớp từ thuộc phong cách chức năng khác nhau. Trong ngôn ngữ còn có một loại hệ thống khác của các từ. Hệ thống này đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu tổ chức của ngôn ngữ, cũng như trong hoạt động của ngôn ngữ. Đó là hệ thống các từ được hình thành trên cơ sở các đặc điểm ngữ pháp giống nhau của các từ. Dựa và những đặc điểm ngữ pháp giống nhau này, người sử dụng ngôn ngữ có cơ sở để dùng từ khi nói, khi viết, để lĩnh hội khi nghe, khi đọc, còn người nghiên cứu và học tập ngôn ngữ có cơ sở để phân chia các từ, nhận biết được đặc điểm ngữ pháp của từ. Nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt và chấp nhận một cách nhìn để làm việc thì quan niệm về từ đã trình bày ở phần trên là có thể dùng được cho tiếng Việt. Có thể phát biểu lại như sau: Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu. Ví dụ: - nhà, người, áo, cũng, nếu,sẽ, thì,… - đường sắt, sân bay, dạ dày, đen sì, dai nhách… a. Đơn vị cấu tạo Đơn vị cơ sở để cấu tạo từ tiếng Việt là các tiếng, cái mà ngữ âm học vẫn gọi là các âm tiết. Mặc dù nguyên tắc phổ biến là các từ được cấu tạo từ các hình vị, nhưng hình vị trong các ngôn ngữ khác nhau có thể không như nhau. a.1. Tiếng của tiếng Việt có giá trị tương đương như hình vị trong các ngôn ngữ khác, và người ta cũng gọi chúng là các hình tiết – âm tiết có giá trị hình thái học. - Về hình thức: nó trùng với âm đoạn phát âm tự nhiên được gọi là âm tiết. - Về nội dung: nó là đơn vị nhỏ nhất có nội dung được thể hiện. Chi ít nó cũng có giả trị hình thái học (cấu tạo từ). Sự có mặt hay không có mặt của một tiếng trong một “ chuỗi lời nói ra” nào đó, bao giờ cũng đem đến tác động nhất định về mặt này hay mặt khác. Ví dụ: - đỏ - đo đỏ - đỏ đắn – đỏ rực – đỏ khé – đỏ sẫm… - vịt – chân vịt – chân con vịt… a.2. Xét về ý nghĩa, về giá trị ngữ pháp, về năng lực tham gia cấu tạo từ... không phải tiếng (hình tiết) nào cũng như nhau. 9 Trước hết có thể thấy ở bình diện nội dung: + Có được những tiếng tự nó mang ý nghĩa, được quy chiếu vào một đối tượng, một khái niệm như: cây, trời, cỏ, nước, sơn, hỏa, thủy, ái… + Có những tiếng tự thân nó không quy chiếu được vào một đối tượng, một khái niệm, nhưng có sự hiện diện của nó trong cấu trúc từ hay không, sẽ làm cho tình hình rất khác nhau. Đó là chưa kể không ít trường hợp đã tìm ra nghĩa của chúng trong quá khứ lịch sử Tiếng Việt. Nhiều khi là kết quả của hiện tượng hao mòn ngữ nghĩa đến mức tối đa như vẫn thường gặp.Ví dụ: (dai)nhách; (xanh)lè; (áo)xống; (tre)pheo; (cỏ)rả; (đường)sá;(e)lệ; (trong)vắt; (nắng)nôi;… + Có những tiếng tương tự như trên, nhưng chúng lại xuất hiện trong những từ mà tất cả các tiếng tham gia tạo từ đều như thế cả (đều không quy chiếu vào một khái niệm, một đối tượng, nếu tách rời nhau).Ví dụ: mồ - hôi – bồ - hòn – mì – chính – a – pa – tít… Các từ ở đây có thể thuộc nguồn gốc Việt như: mồ hôi, bồ hòn… Nhưng cũng có thể thuộc nguồn gốc ngoại lai như: mì chính, a-pa-tít… a.3. Về năng lực hoạt động ngữ pháp, có thể căn cứ vào tiêu chí: “có hoạt động tự do hay không” để chia các tiếng thành hai loại: – Loại tiếng tự do: Có thể hoạt động tự do trong lời nói với tư cách từ. Thật ra thì chúng là những tiếng mà tự than một mình đã đủ khả năng tạo thành từ. Chẳng hạn: làng, xã, người, đẹp, nói, đi… – Loại tiếng không tự do: Loại này gồm hai nhóm: + Những tiếng không tự do nhưng tự thân chúng có mang nghĩa: thủy, hỏa, hàn, trường, đoản, sơn… + Những tiếng không tự do mà tự thân không mang nghĩa: (lạnh)lẽo; (đen)nhánh; mồ, hôi, cà, phê… Tuy nhiên, ranh giới của các loại tiếng không phải là hoàn toàn tuyệt đối. Cần phải lưu ý đến những trường hợp trung gian giữa loại này với loại kia, phạm vi này với phạm vi kia. b. Phương thức cấu tạo Từ tiếng Việt được cấu tạo hoặc là bằng cách dùng một tiếng, hoặc là tổ hợp các tiếng lại theo lối nào đó. b.1. Phương thức dùng một tiếng làm một từ sẽ cho ta các từ đơn (còn gọi là từ đơn tiết). Vậy từ đơn ở đây được hiểu là những từ cấu tạo bằng một tiếng. Ví dụ: tôi, bác, người, nhà, cây, hoa, trâu, ngựa,… 10 đi, chạy, cười, đùa, vui, buồn, hay, đẹp… vì, nếu, đã, đang, à, ừ, nhỉ, nhé… b.2. Phương thức tổ hợp (ghép) các tiếng lại, mà giữa các tiếng (thành tố cấu tạo) đó có quan hệ về nghĩa với nhau, sẽ cho ta những từ gọi là từ ghép. Dựa vào tính chất của mối quan hệ về nghĩa giữa các thành tố cấu tạo, có thể phân loại từ ghép Tiếng Việt như sau: Từ ghép đẳng lập. Đây là những từ mà các thành tố cấu tạo có quan hệ bình đẳng với nhau về nghĩa. Ở đây, có thể lưu ý tới hai khả năng: Thứ nhất, các thành tố cấu tạo trong từ đều rõ nghĩa. Khi dùng mỗi thành tố như vậy để cấu tạo từ đơn thì nghĩa của từ đơn và nghĩa của các thành tố này không trùng nhau. So sánh: ăn khác ăn ở khác ăn nói khác ở khác nói… Thứ hai, một thành tố rõ nghĩa tổ hợp với thành tố không rõ nghĩa. Trong hầu hết các trường hợp, những yếu tố không rõ nghĩa mà vốn rõ nghĩa nhưng bị bào mòn dần đi ở các mức độ khác nhau. Bằng con đường tìm tòi từ nguyên và lịch sử, người ta thường xác định được nghĩa của chúng. Ví dụ: chợ búa, bếp núc, đường sá, sầu muộn, gà qué, cá mú, xe cộ, áo xống… Từ ghép đẳng lập biểu thị ý nghĩa khái quát và tổng hợp. Đây là một trong những điểm làm cho nó khác với từ ghép chính phụ. Từ ghép chính phụ. Những từ ghép mà có thành tố cấu tạo này phụ thuộc vào thành tố cấu tạo kia, đều được gọi là từ ghép chính phụ. Thành tố phụ có vai trò phân loại, chuyên biệt hoá và sắc thái hoá cho thành tố chính. Ví dụ: tàu hỏa, đường sắt, sân bay, hàng không, nông sản, cà chua, dưa hấu,… xấu bụng, tốt mã, lão hóa… xanh lè, đỏ rực, thẳng tắp, sưng vù… b.3. Phương thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hoà phối ngữ âm cho ta các từ láy (còn gọi là từ lấp láy, từ láy âm). Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và còn có loại ba tiếng. Tuy nhiên, loại đầu tiên là loại tiêu biểu nhất cho từ láy và phương thức láy của tiếng Việt. Một từ sẽ được coi là từ láy khi các yếu tố cấu tạo nên chúng có thành phần ngữ âm được lặp lại; nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp) vừa có biến đổi (còn gọi là đối). Ví dụ: đỏ đắn: điệp ở âm đầu, đối ở phần vần. Vì thế, nếu chỉ có điệp mà không có đối (chẳng hạn như: người người, nhà nhà, ngành ngành... thì ta có dạng 11 láy của từ chứ không phải là từ láy. Kết hợp tiêu chí về số lượng tiếng với cách láy, có thể phân loại từ láy như sau: Từ láy gồm hai tiếng (cũng gọi là từ láy đôi) có các dạng cấu tạo sau: Láy hoàn toàn: Gọi là láy hoàn toàn nhưng thực ra bộ mặt ngữ âm của hai thành tố (hai tiếng) không hoàn toàn trùng khít nhau, chỉ có điều là phần đối của chúng rất nhỏ khiến người ta vẫn nhận ra được hình dạng của yếu tố gốc trong yếu tố được gọi là yếu tố láy. Có thể chia các từ láy hoàn toàn thành ba lớp nhỏ hơn: + Lớp những từ láy hoàn toàn, chỉ đối nhau ở trọng âm (một trong hai yếu tố được nói nhấn mạnh hoặc kéo dài). Ví dụ: cào cào, ba ba, rề rề, khăng khăng, lù lù, lâng lâng, đùng đùng, hây hây, gườm gườm,đăm đăm… + Lớp từ láy hoàn toàn đối nhau ở thanh điệu. Nguyên tắc đối thanh điệu ở đây là: thanh bằng đối với thanh trắc trong mỗi nhóm cùng âm vực, và bằng đứng trước trắc đứng sau. Bằng Trắc Ngang (1) Hỏi (4) – Sắc (5) Huyền (2) Ngã (3) – Nặng (6) Ví dụ: đo đỏ, ra rả, hây hẩy, hau háu, hơ hở, ngay ngáy, phơi phới, sừng sững, chồm chỗm, vành vạnh, lừng lững, hơn hớn, càu cạu, thoang thoảng… Tuy nhiên, ở đây vẫn còn một số ngoại lệ như: cỏn con, dửng dưng, mảy may, cuống cuồng… + Lớp từ láy hoàn toàn, đối ở phần vần nhờ sự chuyển đổi âm cuối theo quy luật dị hóa: m – p – ng – c n – t – nh – ch Ví dụ: ăm ắp, chiêm chiếp, cầm cập, lôm lốp, hềm hẹp… chan chat, khin khít, sồn sột, thon thót, ngùn ngụt… khang khác, vằng vặc, rừng rực, phưng phức, phăng phắc… anh ách, chênh chếch, đành đạch, phành phạch, rinh rich... Láy bộ phận: Những từ láy nào chỉ có điệp ở phần âm đầu, hoặc điệp ở phần vần thì được gọi là láy bộ phận. Căn cứ vào đó, có thể chia từ láy bộ phận thành hai lớp. + Lớp từ láy (điệp) âm đầu, đối ở phần vần. Ví dụ như: bập bênh, cò kè, ho he, thơ thẩn, đẹp đẽ, làm lụng, ngơ ngác, say sưa, xoắn xuýt, vồ vập, hấp háy… Trong lớp này, có những từ xét về mặt lịch sử vốn không phải từ láy, nhưng vì quan hệ về nghĩa giữa các yếu tố của chúng mất dần đi, làm cho quan hệ ngữ âm ngẫu nhiên 12 giữa các yếu tố đó nổi lên hang đầu, và hiện giờ người Việt nhất loạt coi chúng là từ láy. Ví dụ: chùa chiền, tuổi tác, giữ gìn, sân sướng… Nghĩa của những từ như vậy được tổ chức theo kiểu của các từ tre pheo, đường sá, xe cộ, áo xống… Trong khi xét sự đối vần ở đây, cũng cần lưu ý đến hiện tượng đối ứng ở âm chính. Hiện tượng này không phải là quy luật toàn thể, nhưng đều đặn ở một số nhóm từ. u đối với i: cũ kĩ, hú hí, xù xì, tủm tỉm, mũm mĩm… ô – ê: ngô nghê, xồ xề, hổn hển… o – e: ho he, vo ve, khò khè, nhỏ nhẻ… i – a: rỉ rả, hí hoáy, xí xóa… u – ă: tung tăng, hung hăng, vùng vằng, thủng thẳng… u – ơ: ngu ngơ, khù khờ, cũn cỡn… ô – a: hốc hác, mộc mạc, ngột ngạt… ê – a: nghê nga, khề khà, rề rà, xuề xòa, hể hả… + Lớp từ láy (điệp) phần vần, đối ở âm đầu. Ví dụ như: bâng khuâng, bơ vơ, lưng chừng, lù đù, lã chã, càu nhàu, thao láo, hấp tấp, tủn mủn, lụp xụp, lảng vảng, lúng túng, co ro, lan man… Gần nửa số lượng từ láy vần có âm đầu của tiếng thứ nhất là âm /l-/ và phần lớn chúng có chứa một tiếng còn rõ nghĩa. Tuy vậy, vẫn có không ít từ mà cả hai tiếng đều không rõ nghĩa. Ví dụ như: bải hoải, hấp tấp, lập cập, bầy hầy, thình lình, liểng xiểng, xớ rớ, lấc cấc… Từ láy ba và bốn tiếng được cấu tạo thông qua cơ chế cấu tạo từ láy hai tiếng. Tuy vậy, từ láy ba tiếng dựa trên cơ chế láy hoàn toàn, còn từ láy bốn lại dựa trên cơ chế láy bộ phận là chủ yếu. Ví dụ: khít khìn khịt, sát sàn sạt, dửng dừng dưng, trơ trờ trờ... đủng đà đủng đỉnh, lếch tha lếch thếch, linh tinh lang tang, vội vội vàng vàng... Trên thực tế, số lượng từ láy ba tiếng và bốn tiếng không nhiều. Mặt khác, có thể coi chúng chỉ là hệ quả, là bước "tiếp theo" trên cơ chế láy của từ láy hai tiếng mà thôi. Từ láy ba là láy toàn bộ kèm theo sự biến thanh và biến vần (ví dụ: nhũn – nhũn nhùn nhùn; xốp – xốp xồm xộp...). Nhiều khi ta gặp những "cặp bài trùng" giữa từ láy hai tiếng và ba tiếng như: sát sạt – sát sàn sạt; trụi lủi – trụi thui lủi; nhũn nhùn – nhũn nhùn nhùn; khét lẹt – khét lèn lẹt... Từ láy bốn tiếng thì tình hình cấu tạo có đa tạp hơn. Có thể là: - Nhân đôi từ láy hai tiếng nhưng biến vần của tiếng thứ hai thành e, a, ơ, à cho phù hợp, hài hòa về âm vực giữa các vần, các thanh: vớ vẩn – vớ va vớ vẩn 13 lề mề - lè mà lề mề - Nhân đôi từ láy hai tiếng nhưng biến đổi sao cho hai tiếng đầu có thanh điệu thuộc âm vực cao, hai tiếng sau mang thanh điệu âm vực thấp : bồi hồi – bồi hổi bồi hồi. - Nhân đôi từng tiếng của từ láy hai tiếng : hùng hổ - hùng hùng hổ hổ vội vàng – vội vội vàng vàng… -Thực hiện cách thứ ba vừa nêu, nhưng biến âm đầu của tiếng thứ nhất và tiếng thứ ba thành /l-/ : nhồm nhoàm – lồm nhồm loàm nhoàm thơ thẩn – lơ thơ lấn thẩn Ngoài ra, còn có một số từ khác không cấu tạo theo các cách nêu trên; hoặc từ một từ gốc có thể cấu tạo hai từ láy bốn tiếng chứ không phải chỉ có một. Chẳng hạn: bù lu bù loa; bông lông ba la... hoặc bắng nhắng – bắng nha bắng nhắng; bắng nhắng bặng bặng nhặng... Sự biểu đạt ý nghĩa của từ láy rất phức tạp và rất thú vị, nhất là ở nhiều nhóm từ cùng có khuôn cấu tạo lại có thể có những điểm giống nhau nào đó về nghĩa. Điều này cần được khảo sát riêng tỉ mỉ hơn. b.4. Từ các kiểu từ đã trình bày trên đây, tiếng Việt còn có một lớp từ mà người bản ngữ hiện nay không thấy giữa các thành tố cấu tạo (các tiếng) của chúng có quan hệ gì về ngữ âm hoặc ngữ nghĩa. Vì vậy, từ góc độ phân loại, cần tách chúng ra và gọi là các từ ngẫu hợp với ngụ ý: các tiếng tổ hợp với nhau ở đây một cách ngẫu nhiên. Lớp từ này có thể bao gồm: - Những từ gốc thuần Việt: bồ câu, bồ hòn, bồ nông, mồ hóng, mồ hôi, kì nhông, cà nhắc, mặc cả… - Những từ vay mượn gốc Hán (hoặc phiên âm qua âm Hán Việt) thông qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ (trong số này có những từ mà từng thành tố của chúng trước đây vốn rõ nghĩa, nhưng nay không được người Việt nhận thức được nữa). Ví dụ: mâu thuẫn, hi sinh, trường hợp, kinh tế, câu lạc bộ, mì chính, tài xế, vằn thắn… - Những từ vay mượn gốc Ấn – Âu qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ như: a-xít, mít tinh, sơ mi, mùi xoa, xà phòng, cao su, ca cao, sô-cô-la… 14 Bộ phận từ này trong những năm gần đây có xu hướng gia tăng do các mối quan hệ quốc tế mở rộng, tạo điều kiện cho sự tiếp xúc, vay mượn và du nhập từ ngữ, nhất là trong lĩnh vực thông tin, khoa học và kĩ thuật. c. Biến thể của từ Trong hoạt động của mình, một số từ tiếng Việt có thể có biến động về cấu trúc. Tuy nhiên, cần nói rằng đó không phải là những biến dạng theo nguyên tắc hình thái học như các dạng thức khác nhau của từ trong ngôn ngữ biến hình. Ở đây chúng thường chỉ được coi là dạng lâm thời biến động hoặc dạng "lời nói" của từ. Có nghĩa rằng, những biến động ấy không đều đặn, không thường xuyên ở tất cả mọi từ. Chúng chỉ lâm thời xảy ra ở một số từ trong một số trường hợp sử dụng mà thôi. Đại thể có những dạng biến động như sau: c.1. Biến một từ có cấu trúc lớn, phức tạp hơn sang cấu trúc nhỏ, đơn giản hơn. Thực chất đây là sự rút gọn một từ dài thành từ ngắn hơn. Ví dụ: ki-lô-gam - ki lô/ kí lô (ông) cử nhân - (ông) cử (ông) tú tài (ông) tú - Xu hướng biến đổi này không có tính bắt buộc, không đều đặn ở mọi từ, và nhiều khi chỉ vì lí do tiết kiệm trong ngôn ngữ. Không phải ngày nay Tiếng Việt mới có hiện tượng rút gọn như vậy, mà những cặp từ song song tồn tại giữa một bên là từ đa tiết với một bên là từ đơn tiết chứng tỏ rằng hiện tượng này đã có từ lâu. Chẳng hạn: ve ve - Ve bươm bướm - bướm đom đóm đóm - Rất nhiều tên gọi các tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo, các danh nhân, địa danh... trong Tiếng Việt ngày nay đã được rút gọn lại như vậy Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng hợp tác xã hợp - Xu hướng biến đổi một từ đơn giản thành một từ có cấu trúc phức tạp hơn, trong Tiếng Việt hiện nay không thấy có. Rất có thể vì nó trái với nguyên tắc tiết kiệm mà người sử dụng ngôn ngữ thường xuyên phải tính đến. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất