PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HOÁ
TRƯỜNG MẦM NON QUẢNG TÂM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO
TRẺ 25-36 THÁNG TUỔI THÔNG QUA GIỜ KỂ CHUYỆN
Họ và tên
: NGUYỄN THỊ HẰNG
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác
: Trường MN Quảng Tâm
SKKN thuộc lĩnh vực : PT Ngôn ngữ
THANH HÓA, THÁNG 03 NĂM 2015
A. Đặt vấn đề.
I. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống
giáo dục quốc dân, là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào
tạo thế hệ trẻ trở thành những con người có ích cho xã hội,
thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải
cách giáo dục ở nước ta là:
Làm tốt công tác chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ
thời thơ ấu nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt
Nam mới, người lao động làm chủ tập thể, phát triển toàn
diện nhân cách. Vì vậy giáo dục mầm non đã góp phần thực
hiện mục tiêu trên. Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo
những con người có tri thức, có khoa học, có tình yêu thiên
nhiên, yêu tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo nên những con
người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu mơ ước và sáng
tạo. Những phẩm chất ấy con người phải được hình thành từ
lứa tuổi mầm non.
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến
hành đổi mới chương trình giáo dục mầm non, trong đó đặc
biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động phù hợp với sự phát
triển của từng cá nhân trẻ. Khuyến khích trẻ hoạt động một
cách chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi. Đồng thời tạo điều
kiện cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa
chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một
cách linh hoạt, thực hiện phương châm: “Học mà chơi- Chơi
mà học” để đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ toàn diện về
mọi mặt.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người
1
nói chung và trẻ mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai
trò rất quan trọng đặc biệt không thể thiếu được.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ
có vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển nhận
thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm
hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh,
thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn, trẻ làm quen với các
sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Trẻ hiểu
được những đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự vật
cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ nhận
biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp
xúc trong cuộc sống hàng ngày.
Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình
cảm, đạo đức, thẩm mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp
quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện
giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình
thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ
hòa nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng
đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần
hiểu được những qui định chung của cộng đồng mà mọi thành
viên trong cộng đồng phải thực hiện. Mặt khác, trẻ cũng có
thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của
mình với các thành viên trong cộng đồng điều đó giúp trẻ hòa
nhập với mọi người.
Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ, thông qua các câu chuyện trẻ
dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và
hòa nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ từ 2 đến 3 tuổi có số lượng từ
tăng nhanh, vốn từ của trẻ phần lớn là động từ và danh từ,
2
các loại khác như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và
tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này không chỉ
hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có
thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và
các mối quan hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này
ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi còn rất hạn chế và có nét đặc trưng
riêng. Trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa chính xác, trẻ
nhận thức về công cụ ngữ pháp và sử dụng nó còn rất hạn
chế. Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ từ 24-36 tháng tuổi
nói riêng, chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở rộng các
loại từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên
trò chuyện với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong
sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ biết các từ biểu thị về đặc
điểm, tính chất, công dụng của chúng. Cho trẻ xem tranh, kể
cho trẻ nghe các câu chuyện đơn giản qua tranh, đặt ra các
câu hỏi cho trẻ, giúp trẻ biết kể chuyện theo tranh bằng ngôn
ngữ của trẻ.
Dạy trẻ phát triển ngôn ngữ là giúp trẻ học ăn, học nói,
đem đến cho trẻ những gì tốt đẹp nhất về phẩm chất đạo đức,
cung cấp vốn từ mới, phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Nhận thức được tầm quan trọng đó tôi luôn suy nghĩ, tìm
tòi để tìm ra các hình thức, biện pháp giúp trẻ có những giờ
học, hoạt động sao cho có chất luợng nhất, bổ ích nhất, giúp
trẻ phát triển tư duy cũng như vốn hiểu biết của trẻ được
thăng hoa một cách tự nhiên, thoải mái .
Trẻ 24-36 tháng tuổi biết tương đối nhiều về môi trường
xung quanh, ngôn ngữ của trẻ cũng đã phát triển. Do đó khi
quan sát lứa tuổi này giáo viên không nên nói trước mà nên
3
để trẻ tự quan sát và đặt ra những câu hỏi.
Chính vì vậy trong bản sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã
chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
25-36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện”.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu :
1. Thực trạng:
* Thuận lợi :
+ Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi
để giáo viên thực hiện chương trình tốt nhất.
+ Lớp luôn được đầu tư các bộ tranh trong chương trình
cho trẻ làm quen với bộ môn phát triển ngôn ngữ. Được cung
cấp đầy đủ các đồ dùng đồ chơi, có phương tiện hiện đại phục
vụ cho việc dạy và học
như đàn, đầu đĩa, ti vi, màn hình
chiếu…
+ Bản thân tôi là giáo viên vào nghề đã lâu năm, tôi
luôn tâm huyết với nghề và luôn trăn trở trong các hoạt động
để giúp trẻ ở lứa tuổi mà mình phụ trách có vốn ngôn ngữ
mạch lạc, rõ ràng và tạo tiền đề cho những năm học tiếp theo
của trẻ. Chính vì vậy mà tôi dày công suy nghĩ về phương
thức và cách thức làm sao dậy trẻ tốt nhất và mang lại tính
chất sư phạm cho trẻ nhất là khi trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ .
+ Phía học sinh: Đây là lớp học đầu đời của hầu hết số
trẻ, bởi trẻ chuyển từ nhóm 18-24 tháng tuổi là rất ít. Trẻ tuy
có non nớt thật song rất ngoan và biết nghe lời cô dậy dỗ chỉ
bảo. Trong các giờ học trẻ hồn nhiên vô tư, trong sáng hoà với
cô một cách tự nhiên không gò ép đã tạo ra một lứa tuổi rất
riêng trong môi trường mầm non .
* Khó khăn:
4
+ Tuy là trường nhìn chung đã được đầu tư rất khang
trang, song ở các nhóm nhà trẻ lớp vẫn còn chật hẹp chưa
đảm bảo diện tích để trẻ thoải mái trong các hoạt động, đồ
chơi tự tạo chưa nhiều chưa phong phú. Các góc chơi còn hạn
chế để trẻ hoạt động cũng như gần gũi khám phá tổ chức
các hoạt động trong bộ môn phát triển ngôn ngữ nên chưa
đạt kết quả cao.
+ Việc trang trí, tổ chức các hoạt động của trẻ còn chưa
có chiều sâu .
+ Là một giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong chuyên
môn, song khi được phân công đứng lớp nhà trẻ vẫn còn
nhiều bỡ ngỡ. Vì đây cũng là năm thứ ba tôi dậy và làm quen
với trẻ lứa tuổi nhà trẻ nên kinh nghiệm và nghệ thuật lên lớp
còn nhiều hạn chế.
+ Bên cạnh đó còn có một số phụ huynh chưa hiểu được
tầm quan trọng của việc đưa trẻ đến trường sớm và sự hiểu
biết nuôi con theo khoa học, khiến cho việc hình thành nề nếp
thói quen, nâng cao chất lượng các môn học gặp rất nhiều
khó khăn. Phụ huynh coi nhẹ tầm quan trọng của việc cung
cấp các kiến thức cho trẻ nhất là trẻ lứa tuổi nhà trẻ. Vì các
bậc phụ huynh chỉ coi trọng việc chăm sóc trẻ là chính còn
việc học nhiều phụ huynh còn phó mặc hoặc không quan
trọng nhiều tới trẻ khi trẻ còn đang ở lứa tuổi nhà trẻ.
+ Giáo viên chưa chú ý luyện câu từ cho trẻ, nhiều trẻ
chưa nói rõ lời, tròn tiếng, nói chưa có biểu hiện cảm xúc cô
chưa chú ý chỉnh sửa cho trẻ. Quá trình tổ chức giờ học cô
chưa chú ý đến hệ thống câu hỏi giúp trẻ được tư duy để phát
triển ngôn ngữ cho trẻ. Đối với trẻ thì hệ ngôn ngữ không
5
được mở rộng do gia đình và cô giáo luôn đưa ra những hệ
thống câu hỏi đóng, trẻ hay nói thiếu câu, nói chưa biểu hiện
được cử chỉ điệu bộ và bộc lộ được cảm xúc theo yêu cầu. Khả
năng lĩnh hội thông tin của trẻ còn hạn chế nếu như cô truyền
đạt đến với trẻ một câu dài, một sự việc có nội dung truyền
tải nhiều thì trẻ không thể nhớ nổi hết nội dung đó mà cô đã
truyền đạt.
+ Trẻ ở độ tuổi nhà trẻ đi học chưa đều đặn vì sức khỏe
của trẻ đang còn chưa ổn định, trẻ hay ốm nhiều nên cũng
ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
Chính vì vậy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua
các hoạt động trong trường Mầm non là một việc vô cùng
quan trọng đối với Ban giám hiệu và các cô giáo trong trường.
Trong những năm qua đội ngũ giáo viên mầm non đã từng
bước khắc phục và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của
mình, đã đầu tư vào bài dạy, các hoạt động của trẻ trong
trường mầm non một cách tích cực hơn. Song đối với việc
thực hiện chương trình nhà trẻ vẫn còn nhiều lúng túng nhất
là độ tuổi 24-36 tháng. Một số giáo viên vẫn đang còn xem
nhẹ việc tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động, giao tiếp với môi
trường để phát triển ngôn ngữ cho trẻ được nhiều hơn.
Từ thực tế trên nên tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số biện
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 đến 36 tháng tuổi thông
qua giờ kể chuyện”.
2. Kết quả thực trạng:
Qua kết quả khảo sát về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
đầu năm học 2014-2015 cụ thể như sau: (Tổng số 30 trẻ).
6
Nội dung
Xếp loại
- Đạt
Tron Tốt
Khá
g đó
TB
đó
-Chưa đạt
Có biểu
Nói rõ lời,
Nói đủ câu
tròn tiếng
21
5
7
9
23
6
8
9
9
7
hiện cử chỉ
điệu bộ
8
1
3
4
22
Qua kết quả khảo sát đầu năm nên tôi miệt mài nghiên
cứu tài liệu, các phương tiện thông tin đại chúng, qua đồng
nghiệp và đã đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện.
B. Giải quyết vấn đề.
I. Các giải pháp thực hiện:
1. Rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ.
2. Quan tâm đến tâm lí nhận thức đối với trẻ lứa tuổi từ 24
đến 36 tháng tuổi để tìm ra phương pháp kể chuyện phù hợp
đồng thời phát triển ngôn ngữ của trẻ.
3. Đầu tư tốt bài soạn, đồ dùng phục vụ giờ dạy.
4. Chú ý đến trẻ cá biệt, chậm phát triển. Đầu tư khai thác
những nội dung tích hợp phù hợp.
5. Sưu tầm các trò chơi, các hoạt động, thông qua đó phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 24 đến 36 tháng tuổi.
II. Các biện pháp tổ chức thực hiện:
Trẻ bước vào năm học đầu tiên, tạm rời xa gia đình (những
người thân bên trẻ) đến với vòng tay cô giáo với các bạn cùng
lứa tuổi với đầy bỡ ngỡ nên trẻ còn hay khóc và chưa chịu
học, chịu chơi. Vì thế việc phát triển vốn từ đang còn hạn chế.
7
Với trẻ ở độ tuổi 24-36 tháng tuổi rất thích nghe kể
chuyện và rất hứng thú với hoạt động này. Chính vì vậy mà tôi
muốn thông qua giờ kể chuyện để phát triển ngôn ngữ cho
trẻ. Cụ thể các biện pháp được thực hiện như sau:
* Biện pháp 1: Rèn nề nếp thói quen cho trẻ trong hoạt
động phát triển ngôn ngữ tạo nề nếp thói quen tốt giúp trẻ
dễ dàng tham gia các hoạt động do cô tổ chức:
- Để có một giờ dạy tốt trước hết phải rèn luyện cho trẻ
nề nếp trong học tập đó là cơ sở ban đầu hỗ trợ cho giờ dạy
phát triển ngôn ngữ đạt kết quả cao. Trong lớp học tôi chia ra
từng tổ, trong mỗi tổ đều có những trẻ có khả năng tiếp thu
bài khác nhau: có trẻ giỏi, trẻ khá và cũng có những trẻ trung
bình, yếu để trẻ có thể giúp đỡ nhau trong các hoạt động. Đặc
biệt là trong hoạt động “phát triển ngôn ngữ” của trẻ. Khi
được cô chia ngồi theo tổ, nhóm như vậy các trẻ trong lớp có
nề nếp tốt trước tiên tôi phải trao đổi với phụ huynh đưa đón
trẻ đến đúng giờ.
Ví dụ: Tôi nhắc nhở phụ huynh đưa trẻ đến lớp đúng 7 giờ
sáng tạo cho trẻ có nề nếp thói quen dậy sớm để đi học.
- Mặc dù trẻ nhà trẻ còn nhỏ, đa số trẻ lần đầu tiên đến
trường mầm non, đến lớp học việc rèn nề nếp cho trẻ là rất
khó đối với giáo viên đứng phụ trách ở lứa tuổi này. Nhưng tôi
đã rất cố gắng rèn nề nếp cho trẻ, để trẻ có thể ngồi theo tổ,
nhóm tham gia vào các hoạt động cùng cô. Vì vậy để thực
hiện tốt hoạt động “phát triển ngôn ngữ” cho trẻ thì biện
pháp rèn nề nếp thói quen là vô cùng quan trọng và là yếu tố
thiết yếu đối với giáo viên.
- Cô còn tập cho trẻ thói quen chú ý lên cô khi cô tổ chức
8
tất cả các hoạt động, đặc biệt là ở hoạt động “phát triển ngôn
ngữ cho trẻ lứa tuổi 24-36 tháng”. Tôi luôn quan sát, nhắc nhở
trẻ đồng thời dùng các thủ thuật gây hứng thú cho trẻ chú ý
lên cô.
Ví dụ: Cô cho trẻ ngồi theo hình chữ U, cô ngồi phía trước
và giả làm tiếng gà gáy “ò…ó…o” và hỏi trẻ: Cô vừa làm tiếng
con gì kêu?
Cô hướng dẫn trẻ làm động tác mô phỏng gà gáy: Hai
bàn khụm lại và đưa lên mồm hoặc hai tay vỗ vào hai bên
hông đồng thời nói “ò…ó…o”.
*Biện pháp 2: Nghiên cứu kĩ yêu cầu của giờ kể chuyện kể
cả về kiến thức, kĩ năng và giáo dục đạo đức. Từ đó đưa ra
phương pháp, hệ thống câu hỏi, đồ dùng phục vụ giờ dạy đạt
hiệu quả cao.
Ví dụ: Mục đích yêu cầu của giờ kể chuyện “ Cây táo”.
- Về kiến thức:
+ Trẻ biết tên câu cuyện, biết tên nhân vật trong
chuyện.
+ Đọc được các từ: “Bươm bướm”, “Sưởi nắng”.
+ Biết lắng nghe và trả lời được một vài câu hỏi của cô.
- Về kĩ năng:
+Trẻ nhận biết và phân biệt được quả to, quả nhỏ .
+ Nhận biết và phân biệt được hai màu: xanh, đỏ và đọc
chính xác các từ: “màu đỏ”, “màu xanh”.
- Về giáo dục:
+ Biết lợi ích của việc ăn quả: Cung cấp vitamin và
khoáng chất.
+ Biết giữ gìn vệ sinh rửa quả, rửa tay trước khi ăn, biết
9
bỏ vỏ và hạt vào thùng rác.
- Cách hướng dẫn:
Khi dạy trẻ câu chuyện “ Cây Táo” tôi suy nghĩ nên chọn
hai loại câu hỏi: Câu hỏi đóng, câu hỏi mở nhằm giúp trẻ phát
triển về ngôn ngữ, yêu cầu trẻ nói đủ câu, nói chính xác câu.
+ Loại câu hỏi đóng: Khi dạy trẻ câu chuyện “ Cây táo”
tôi đặt ra một số câu hỏi sau:
-
Các con vừa nghe cô kể câu chuyện gì?
-
Trong chuyện “Cây táo” có những ai?...
+ Loại câu hỏi mở: Cô đặt ra những câu hỏi khó nhằm
giúp trẻ phát triển được ngôn ngữ và giúp một số trẻ chậm
nói được nói nhiều hơn.
-
Quả táo ăn có vị ngọt hay vị chua?
Khi nghe tôi hỏi như vậy cháu Bình Minh trả lời: “Con thưa cô
quả táo ăn có vị ngọt ạ”.
-
Tôi còn hỏi thêm: Ai trồng cây táo? Trồng ở đâu?
Cháu Thùy Trang liền trả lời: “Con thưa cô cây táo được các
bác trồng và trồng ở trong vườn ạ”. Đặc biệt với cháu Kim Hải
và cháu Quỳnh Chi nói chậm và nói ngọng, trong quá trình
dạy tôi đặt câu hỏi cho trẻ đứng lên trả lời nhiều hơn. Đặc biệt
đối với những cháu chậm nói và nói ngọng tôi kiên trì đặt câu
hỏi và thường xuyên cho các cháu đứng lên trả lời, cô không
cáu gắt làm trẻ sợ và mất hứng thú trong giờ kể chuyện.
*Biện pháp 3: Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện (giáo án, đồ
dùng đồ chơi, tâm sinh lí cho trẻ) đạt kết quả tốt.
- Giáo án phải trình bày sạch sẽ, khoa học và có chất
lượng.
Ví dụ:
10
Mục đích yêu cầu:
+ Kiến thức:
+ Kĩ năng:
+ thái độ:
Chuẩn bị:
Trình tự tiến hành:
- Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 đến 36 tháng tuổi trong
giờ kể chuyệnđạt kết quả cao tôi đã tiến hành như sau:
*Hoạt động 1: Gây hứng thú cho trẻ:
- Bằng các thủ thuật: câu đố, thơ, bài hát, bài vận động có nội
dung thích hợp tôi nhẹ nhàng gây hứng thú cho trẻ tập trung
vào giờ kể chuyện.
Ví dụ: Trong giờ kể chuyện “Cây táo” tôi cho trẻ vận động bài
“Cây cao- cỏ thấp”.
+ Động tác 1: Cây cao (Trẻ kiễng chân, hai tay giơ cao )
+ Động tác 2: Hái hoa (Trẻ cuộn tay đưa xuống dưới)
+ Động tác 3: Cây thấp (Trẻ ngồi xuống, tay buông xuôi)
Trẻ vận động xong, tôi cho trẻ xếp hàng ngồi xuống theo hình
chữ U.
*Hoạt động 2: Nội dung chính.
- Trong giờ kể chuyện tôi luôn luôn chú ý cho trẻ đọc và phát
triển từ, chú ý sửa sai cho trẻ khi trẻ đọc chưa đúng. Khi đó
theo tôi thì có thể thực hiện như sau:
+ Cô kể cho trẻ nghe toàn bộ câu chuyện lần 1 bằng cử
chỉ, điệu bộ.
+ Sau đó cô kể cho trẻ nghe câu chuyện lần 2 bằng tranh
minh họa.
Ví dụ: Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện “Cây táo”, câu
11
chuyện sẽ hay hơn khi có tranh minh họa. Trong tranh có từ
“Cây táo”, các con đọc từ “Cây táo” cùng cô nào. (Cả lớp đọc
2 lần, sau đó cho 2-3 trẻ đọc lại)
+ Cô kể cho trẻ nghe lần hai bằng tranh minh họa, vừa kể
cô vừa chỉ vào nhân vật.
+ Cô sử dụng hệ thống câu hỏi mở để trẻ tư duy và trẻ trả
lời được câu hỏi của cô.
Ví dụ: Trong chuyện “Cây táo”.
Cô vừa kể cho các con nghe chuyện gì nhỉ? (trẻ trả lời
-
“Chuyện cây táo ạ”)
Trong chuyện có những nhân vật nào?(Ông, bé, gà trống,
-
bươm bướm và mặt trời).
-
Ai trồng cây táo? (ông). Cô cho trẻ đọc từ “Ông”
-
Ai tưới nước cho cây táo? (Em bé). Cô cho trẻ đọc từ “Em
bé”
-
Con gì đến động viên cây mà nó gáy “ò.ó.o”? (con gà
trống). cô cho trẻ đọc từ “Con gà trống”.
-
Cả con gì đến động viên cây nữa? (con bươm bướm). Cô
cho trẻ đọc từ “Bươm bướm” 2-3 lần.
+ Sau đó tôi giảng nội dung câu chuyện, giải thích các từ khó
và cho trẻ đọc các từ khó.
Ví dụ: Trong chuyện “Cây táo” có từ “sưởi nắng”, “bật ra”, cô
cho trẻ đọc các từ này 3-4 lần.
+ Cuối cùng tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện lần 3 bằng sa
bàn.
*Hoạt động 3: Kết thúc giờ học.
- Bằng nhiều hình thức khác nhau tôi cho trẻ kết thúc giờ học
một cách nhẹ nhàng thoải mái.
12
Ví dụ: Kết thúc giờ học tôi cho trẻ cùng hát bài “Đố quả” và
cho trẻ thăm vườn cây ăn quả.
-Trong các giờ kể chuyện tôi cho trẻ tự kể lại câu chuyện mà
trẻ đã được học.
-Hệ thống câu hỏi phải phù hợp với độ tuổi, kích thích trẻ
nhận biết, phân biệt sự vật hiện tượng tình huống mà trẻ
đang trực tiếp tri giác.
* Chuẩn bị đồ dùng:
Để giờ kể chuyện đạt hiệu quả cao thì đồ dùng phục vụ giờ
dạy phải đảm bảo:
- Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn
(không có cạnh sắc nhọn) và vệ sinh cho trẻ (không có bụi
bẩn).
- Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu chuyện, phía
dưới có chữ to giúp cho trẻ phát triển từ của trẻ được thuận
lợi.
- Đồ vật thật có liên quan đến câu chuyện.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Cây táo”.
- Chuẩn bị:
+ Quả táo xanh, quả táo vàng phải to, tròn, đẹp, màu sắc rõ
nét với nhiều kích thước khác nhau.
+ Cành táo phải nhiều lá, nhiều quả, được cắm vào một
chậu đẹp.
+ Tranh vẽ phải đẹp và sinh động, kích thước phù hợp không
được to quá hoặc nhỏ quá.
+ Sa bàn: Cây táo, ông, bé, gà trống, bươm bướm, mặt trời.
các nhân vật này có gắn que để điều khiển được.
+ Với câu chuyện “Cây táo” nếu tôi đưa tranh ra ngay và hỏi
13
cô có tranh gì đây? Thì trẻ sẽ trả lời ngay được, nhưng không
gây được hứng thú cho trẻ. Tôi vào bài bằng cách cho trẻ làm
đoàn tàu đi đến nhà bạn chơi và cho trẻ đứng xung quanh sa
bàn, quan sát sa bàn. Trong cách bày sa bàn cô bày cây táo
thấp đứng xung quanh là hình ảnh các nhân vật trong chuyện
có gắn que điều khiển.
+ Khi trẻ đã hứng thú từ đầu thì lớp học sẽ sôi nổi, thu hút
trẻ hứng thú hơn trong giờ kể chuyện, tôi còn dùng hình thức
trò chuyện với trẻ trong giờ sinh hoạt của trẻ, cô trò chuyện
với trẻ như hỏi trẻ: Hôm qua chủ nhật côn được bố mẹ cho đi
chơi ở đâu? Quả táo khi chưa chín thì có màu gì? Quả táo khi
chín có màu gì? Qua đó trẻ sẽ phát triển tư duy được tốt hơn,
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn.
* Nội dung tích hợp:
- Sau khi xác định được mục đích yêu cầu của giờ kể chuyện.
Tôi luôn suy nghĩ để tích hợp các môn học khác vào giờ kể
chuyện sao cho hợp lí, logic phù hợp với giờ học, kết hợp tĩnhđộng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của trẻ, phù
hợp với chủ đề mà tôi đưa ra.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Cây táo” tôi có thể tích hợp thêm
các môn:
- Nhận biết tập nói.
- Âm nhạc.
- Dinh dưỡng và vệ sinh chăm sóc.
Ví dụ: Kể chuyện “Cây táo” tôi cho trẻ vận động kết hợp với
bài hát, tích hợp vận động tôi cho trẻ thực hiện trò chơi “Gieo
hạt, nảy mầm”, tích hợp với dinh dưỡng và vệ sinh chăm sóc.
*Tạo môi trường hoạt động cho trẻ:
14
+ Cho trẻ xem tranh liên quan đến câu chuyện.
Ví dụ: Tranh cây táo trong chuyện “Cây táo”:
- Tôi có thể cho trẻ tiếp xúc với vật thật trong sinh hoạt hàng
ngày.
Ví dụ: Cho trẻ dạo chơi trong sân trường và quan sát cây táo
thật, qua hoạt động này giúp trẻ có thể nhận được một số đặc
điểm của cây táo. Đồng thời có thể giúp trẻ hiểu lợi ích tác
dụng của cây táo đối với cuộc sống hàng ngày hoặc cho trẻ
quan sát quả táo thật ở mọi lúc mọi nơi.
- Ở môi trường hoạt động trong lớp, tôi trang trí lớp theo chủ
đề thực vật, có làm cây táo cùng với các nhân vật trong
chuyện để khi trẻ học đến truyện trẻ có thể nhớ được tên câu
chuyện và các nhân vật trong chuyện như: Em bé, bạn bươm
bướm, con gà trống,,,
- Ở các góc chơi, tôi sắp xếp sao cho ở góc nào cũng có liên
quan đến chủ đề thực vật và trong khi trẻ chơi, trẻ biết kết
hợp câu chuyện mình vừa học vào góc chơi của mình như:
+ Góc chơi thao tác vai: Trẻ có thể chơi búp bê, đóng làm chị
biết nấu ăn, biết nhặt các loại quả có màu sắc riêng ra từng
loại , trong đó có quả táo mà trẻ vừa được học hay được quan
sát.
+ Góc hoạt động với đồ vật: Trẻ biết lấy các cây xanh trồng
thành một vườn cây, biết tưới cây và gọi được tên cây.
Ví dụ: Cho trẻ quan sát và tiếp xúc với cây táo, quả táo.
- Nói chuyện âu yếm, trò chuyện đàm thoại cùng với trẻ.
C. Kết luận:
1. Kết quả nghiên cứu:
15
Qua một năm thực hiện bản thân luôn cố gắng đẻ có thể
thực hiện tốt môn phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Áp dụng những kinh nghiệm giảng dạy như trên đối với môn
kể chuyện. Qua các giờ học tôi thấy các cháu rất hứng thú, rất
thích nghe kể chuyện. Thông qua đó mà việc phát triển ngôn
ngữ đạt hiệu quả cao.
Trong khi nghe kể chuyện, trẻ có thể kể lại chuyện và trả lời
được các câu hỏi của cô. Vốn từ của trẻ được tăng lên rất
nhiều, đồng thời trẻ biết sử dụng các loại câu phong phú và
đa dạng.
Sau một năm học áp dụng các biện pháp trên, kết quả
giảng dạy của tôi đã được nâng lên rõ rệt, kết quả cụ thể như
sau: (Với tổng số trẻ 30 cháu).
Nội dung
Xếp loại
- Đạt
Tốt
Khá
đó
TB
-Chưa đạt
Trong
Nói rõ lời,
tròn tiếng
30
10
12
8
0
Có biểu
Nói đủ câu
30
11
13
6
0
hiện cử chỉ
điệu bộ
23
7
10
6
7
Qua kết quả khảo sát cuối năm học mà tôi đã miệt mài
nghiên cứu tài liệu, các phương tiện thông tin đại chúng, qua
đồng nghiệp để đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 24 đến 36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện.
-Ở nội dung nói rõ lời, tròn tiếng trẻ đạt tỉ lệ cao hơn
nhiều so với khi chưa áp dụng biện pháp mới đưa vào giảng
dạy. Trẻ đã được cô và gia đình dạy dỗ uốn nắn từng câu nói
cho trẻ để trẻ nói rõ ràng hơn và nói rõ tiếng hơn, không nói
16
chậm, nói lắp.
- Ở nội dung nói đủ câu kết quả đạt được cũng cao hơn
so với ban đầu, khi trẻ đi học ở trường mầm non trẻ được cô
giáo hướng dẫn và giúp đỡ trẻ rất nhiều trong khi nói, cô luôn
yêu cầu cao cho trẻ để trẻ phát triển được khả năng vốn từ
của mình, trẻ nhắc lại đầy đủ tên câu chuyện mà trẻ đang
được nghe.
- Ở nội dung có biểu hiện cử chỉ, điệu bộ, cảm xúc thì kết
quả cũng tăng lên rất nhiều so với khi chưa áp dụng các biện
pháp mới.
Đặc biệt nổi bật lên số trẻ có khả năng ngôn ngữ rất tốt,
hiểu được lời nói của mọi người, biết trả lời các câu hỏi , biết
kể lại các câu chuyện đã được nghe. Vốn từ đã được phong
phú và dần dần được hoàn thiện theo độ tuổi.
2. Bài học kinh nghiệm:
Sau khi thực hiện các giải pháp trên bản thân tự rút ra
cho mình được một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Thực hiện tốt các chuyên đề do ngành tổ chức, nắm
vững nhiệm vụ trọng tâm của ngành, của nhà trường trong
từng năm học.Không ngừng học tập, tìm tòi nghiên cứu nâng
cao năng lực nghiệp vụ cho bản thân.
- Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để nghiên cứu,
tìm tòi, sáng tạo trong tổ chức các hoạt động cho trẻ phù hợp.
Vận dụng các biện pháp giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đến
trẻ cá biệt , luôn tạo ra niềm tin và sự hứng thú cho trẻ.
- Thường xuyên thay đổi môi trường hoạt động của trẻ,
bổ sung các đồ dùng đồ chơi theo chủ đề, chủ điểm, tạo hứng
thú cho trẻ khi tham gia các hoạt động. Cần phát huy tính tích
17
cực, thu hút sự chú ý và tạo hứng thú cho trẻ bằng các thủ
thuật như trò chơi, câu đố, thơ, hát, hò, vè…
- Đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ đề tài để có các
phương pháp, biện pháp dạy học cụ thể, chuẩn bị chu đáo đồ
dùng trực quan cũng như gợi mở kiến thức cho trẻ. Thông qua
các hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi nhằm phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đưa
ra để giúp trẻ từ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ. Việc sử
dụng nhiều biện pháp, hình thức, đan xen linh hoạt và thường
xuyên đã giúp tôi hoàn thành được mong muốn của mình. mà
còn phát huy đồng đều ở các môn học và các hoạt động khác
góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy của trường
mầm non.
3. Đề xuất kiến nghị :
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã sử dụng để giúp
trẻ phát triển ngôn ngữ ở độ tuổi 24-36 tháng tuổi thông qua
giờ kể chuyện. Kính mong hội đồng khoa học các cấp bổ sung
góp ý cho tôi để tôi phát huy được những ưu điểm và khắc
phục được những mặt còn tồn tại để năm học sau tôi có được
kết quả cao hơn không chỉ ở bộ môn phát triển ngôn ngữ, mà
còn phát huy đồng đều ở các môn học và các hoạt động khác,
góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy của trường
mầm non. Mong rằng với những sáng kiến và kình nghiệm của
tôi các đồng nghiệp sẽ chia sẻ và áp dụng tốt trong quá trình
giáo dục trẻ mầm non ngày một tốt hơn.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN
VỊ
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 03 năm
2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
18
viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người làm SKKN
Nguyễn Thị Hằng
19
- Xem thêm -