Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn yếu tố phi truyền thống trong thơ trần thế xương...

Tài liệu Luận văn yếu tố phi truyền thống trong thơ trần thế xương

.PDF
101
106
78

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ ĐẬU THỊ THƯỜNG YẾU TỐ PHI TRUYỀN THỐNG TRONG THƠ TRẦN TẾ XƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội, 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ ĐẬU THỊ THƯỜNG YẾU TỐ PHI TRUYỀN THỐNG TRONG THƠ TRẦN TẾ XƯƠNG Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Ngọc Vương Hà Nội, 2010 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ MỤC LỤC MỤC LỤC……………………………………………………………………... 1 PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………… ………. 3 1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………………... 3 2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………………... 3 3. Phạm vi đề tài………………………………………………………………... 8 4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………….. 8 5. Bố cục………………………………………………………………………... 8 PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………….. 9 Chương 1: TRẦN TẾ XƯƠNG TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA BUỔI GIAO THỜI VÀ ĐẶC TRƯNG MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ HÓA Ở NAM ĐỊNH…………………………………………………………………………… 9 1.1. Tú Xương đối diện với cảnh mất nước và văn hóa buổi giao thời………… 9 1.2. Môi trường đô thị hóa truyền thống chuyển dần sang đô thị hoá tiền tư bản ở Nam Định …………………………………………………………………….. 14 Chương 2: NHẬN DIỆN LẠI CON NGƯỜI TÚ XƯƠNG QUA CÁCH ỨNG XỬ TRƯỚC SỰ BIẾN ĐỔI CUĂ VĂN HÓA- XÃ HỘI BUỔI GIAO THỜI……………………………………………………………………………. 18 2.1. Tú Xương với tư cách là con người xã hội………………………………… 18 2.1.1. Tu thân………. ………………………………………………………………… 18 2.1.2. Đối với gia đình………………………………………………………………… 21 2.1.3. Đối với minh quân lương tướng……… …………………………………… 27 2.1.4. Con đường học vấn khoa cử………… …………………………………….. 29 2.1.5. Đối với thương nhân và những lề thói khác……… ……………………… 31 2.2. Tú Xương với tư cách là tác giả văn học…………………………………... 34 2.2.1. Quan niệm về tư tưởng thẩm mỹ trong văn học……..…………………… 34 2.2.1.1. Cảm quan thời đại của Tú Xương ……………………………………… 34 1 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 2.2.1.2. Tinh thần tự vấn………………………………………………………. 38 2.2.1.3. Nhà nho phá vỡ sự quân bình trong cảm xúc……….. ………………… 42 2.2.2. Hệ thống chủ để, đề tài….. …………………………………………….. 47 2.2.3. Hệ thống hình tượng…. ……………………………………………….. 52 2.2.4. Ngôn ngữ, bút pháp…… ……………………………………………….. 58 ………………………………………………………. 67 2.2.5. Thể loại……….. Chương 3: PHONG CÁCH THƠ PHI TRUYỀN THỐNG TRẦN TẾ XƯƠNG TRONG TƯƠNG QUAN VỚI VĂN HỌC NHÀ NHO TRUYỀN THỐNG …. 73 3.1. Trong tương quan với văn học nhà nho truyền thống…….. ……………. 73 3.2. Con đường từ Nguyễn Khuyến đến Tú Xương trong sự khác biệt giữa nhà nho nông thôn và nhà nho thành thị……………………………………………. 79 3.3. Nhà nho thị dân hoá đầu tiên ở Việt Nam…. ……………………………. 85 PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………….. 91 …………………………………………… 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Thơ Tú Xương được đánh giá là đặc sản của quê hương Nam Định nói riêng và của văn học Việt Nam nói chung. “Ăn chuối ngự, đọc thơ Tú Xương” là truyền ngôn tự hào của người dân thành Nam về quê hương mình. Có thể nói, Tú Xương là người đã tạo ra những biến đổi quan trọng trong văn chương nhà nho cuối thế kỉ XIX. Tú Xương là nhà thơ được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu, với số lượng bài viết phê bình tương đối nhiều. Đa phần các công trình nghiên cứu tập trung khai thác ở khía cạnh trào lộng, nghệ thuật trào phúng, yếu tố trữ tình, tính hiện đại... Cũng đã có công trình nghiên cứu và khảo sát thơ Tú Xương một cách hệ thống để tìm ra nét hiện đại trong thơ ông nhưng đều chưa thể hiện được dòng chảy liền mạch từ nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật, nhà nho tài tử đến nhà nho thị dân. Khái niệm nhà nho thị dân được gọi tên lần đầu ở luận án Thơ Tú Xương trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam của Đoàn Hồng Nguyên. Có thể nói, nhà nho thị dân là loại hình nhà nho mới xuất hiện khi xã hội đang trong quá trình đô thị hoá mạnh mẽ. Do vậy việc đặt Tú Xương trong cái nhìn tổng quan theo chiều lịch đại của văn chương nhà nho, cũng như soi sáng dưới góc nhìn văn hóa buổi đầu giao thoa đông- tây, của môi trường bước đầu đô thị hóa tiền tư bản sẽ quán chiếu toàn diện về tư tưởng và tâm hồn của nhà nho thị dân này. Chúng tôi chọn đề tài Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương với mong muốn nhìn nhận Tú Xương trong mạch văn học trung đại, đã có những yếu tố khác lạ so với văn học truyền thống, chứ không chủ ý áp đặt quan điểm, cái nhìn hiện đại để tìm ra nét hiện đại trong thơ ông. Trong dòng văn học trung đại, Tú Xương là nhà nho thị dân đầu tiên, nên tư tưởng và tâm hồn có những nét đặc biệt, hứa hẹn sự khám phá thú vị. 2. Lịch sử vấn đề Tú Xương điển hình cho giai đoạn giao thời từ văn chương truyền thống sang văn chương hiện đại. Ý thức được điều đó, nên việc tìm hiểu và nghiên cứu tác gia tác 3 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ phẩm Tú Xương ở hai lĩnh vực là nghiên cứu văn bản và nghiên cứu tiếp nhận đã được chú ý đúng mức. Hơn một thế kỷ tiếp nhận thơ Tú Xương, có thể tạm chia việc nghiên cứu này thành các giai đoạn như sau: Trước 1945: Thơ văn Tú Xương được sưu tầm và bình giá đầu tiên trên Nam phong tạp chí. Phạm Quỳnh là người khởi đầu công việc nghiên cứu tiếp nhận về Tú Xương trong bài viết Văn chương trong lối hát ả đào. Bài viết bàn về những nét đặc sắc trong “cái ngông” và giọng điệu tự trào, hoạt kê trong bài hát nói Câu đối tết. Tiếp đó là những khảo cứu của Phan Khôi trong Chương dân thi thoại (1928) chỉ ra giọng điệu khôi hài trào phúng trong thơ Tú Xương. Rồi những bài viết của Quang Phong, Dương Quảng Hàm, Sở Cuồng Lê Dư… Các bài viết này mặc dù có sưu tầm và khảo cứu thơ Tú Xương, song về cơ bản vẫn chưa đầy đủ. Đây là những khám phá bước đầu còn hết sức sơ lược về tác phẩm của Tú Xương, mới chỉ chú trọng vào giọng điệu trào phúng trong thơ ông. Đặt trong bối cảnh đương thời thì thấy việc nghiên cứu thơ Tú Xương chưa được chú ý đúng mức, càng hiếm hơn những ý kiến coi Tú Xương như một tác gia lớn hay là đối tượng của bộ môn văn học sử. Có thể nói giai đoạn này, Trần Thanh Mại là người đã viết nhiều và sâu hơn cả về Trần Tế Xương trong tác phẩm Trông dòng sông Vị (1935). Trần Thanh Mại chia tập sách của mình thành 14 chương đoạn: Khoa thi Đinh Dậu, Lễ xướng danh, Nhà làm thi với nhà làm đại sự, Ông Tú Xương, Một nhà duy vật triết học, Bà Tú Xương, Một vị thiên thần, Văn Chương ông Tú Xương, Một nhà trào phúng, Lối thơ khẩu khí, Một tì vết trên bức tơ, Một cái án nặng chưa từng có trong các hình luật, Những đoạn cuối của đời một nhà đại thi sĩ, Cái chết của ông Tú Xương. Tập sách là những khảo cứu nghiêm túc, những lời bình sâu sắc, những nét phác hoạ chân dung sinh động về cuộc đời và thơ văn Tú Xương. Tuy chưa đạt yêu cầu về công trình khoa học, một chuyên luận sâu sắc nhưng Trần Thanh Mại đã định hướng và mở ra một hướng nghiên cứu về Tú Xương. 4 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Từ 1945-1975: Đây là giai đoạn có nhiều công trình nghiên cứu Tú Xương công phu. Những chuyên luận, những tuyển tập thơ văn về nhà thơ non Côi sông Vị được hình thành. Nhân dịp 50 năm ngày mất và 100 năm ngày sinh của Tú Xương, nhiều công trình nghiên cứu được công bố. Trong Thân thế thơ văn Tú Xương, Vũ Đăng Văn đã chỉ ra nét độc đáo của Tú Xương qua giọng điệu trào phúng phúng thế, tính thời sự, tính bình dân và tính nhân bản. Cũng trong khoảng thời gian này, Nguyễn Duy Diễn soạn Luận đề về Trần Tế Xương chủ yếu nhằm phục vụ cho việc giảng dạy và học tập thơ văn Tú Xương. Ngoài phần Tiểu sử ngắn gọn, tập sách gồm 4 đề bài, kèm theo các mục Dàn bài và Làm bài chi tiết, có tác dụng nhấn mạnh, đánh giá đúng mức vị trí Tú Xương trong nhà trường. Tập sách Văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỷ XIX của tác giả Nguyễn Tường Phượng và Bùi Hữu Sủng đã tìm thấy được những nét độc đáo qua tư tưởng hoài cổ của Tú Xương, đặc biệt là phát hiện ra nét độc đáo trong thơ trào phúng của Tú Xương. Làm rõ hơn thơ trào phúng của Tú Xương, Nguyễn Sỹ Tế đã tiếp cận Hệ thống trào phúng của Trần Tế Xương (1957) theo chiều lịch đại cũng như đồng đaị. Ông đã tìm hiểu nguyên nhân và tiếng cười của Tú Xương trong sự so sánh với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, qua đó khẳng định Tú Xương là một “thiên tài trào phúng đã đi vào cõi bất diệt”. Tác giả đã sử dụng hướng tiếp cận tương đối mới là so sánh. Tuy nhiên, so sánh ở mức độ đối chiếu đơn thuần mà chưa đặt nó trong một hệ văn hoá. Từ năm 1960, việc nghiên cứu Tú Xương có những khởi sắc và thành tựu. Nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại đã có bài nói chuyện Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương tại Câu lạc bộ Đoàn kết Hà Nội. Bài nói chuyện chịu ảnh hưởng khá rõ quan điểm đấu tranh giai cấp và lối phê bình văn chương xã hội học đơn giản. Cũng trong thời gian này, chuyên luận Tú Xương- con người và thơ văn của Trần Thanh MạiTrần Tuấn Lộ được xuất bản và có tác động tích cực tới quá trình nghiên cứu. 5 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Cùng với hướng tiếp cận này, tác giả Văn Tân đã đi sâu nghiên cứu Tính chất và giá trị thơ văn của Tú Xương qua các khía cạnh: Tiểu sử, Xã hội Việt Nam trong thời đại Tú Xương, Cá tính hay những nhân tố tạo nên ý thức tư tưởng, Nội dung tư tưởng, Tú Xương đối với quan lại và tây…. Có thể nói, những khám phá về “giá trị văn thơ” Tú Xương của Văn Tân rất độc đáo, nhưng trong khi tìm hiểu giá trị văn thơ trào phúng Tú Xương, tác giả thường lược quy về vấn đề giai cấp và những chi tiết sự kiện cụ thể nên hạn chế tính chất khách quan của các kết luận khoa học. Đây cũng là hạn chế có tính lịch sử của không ít công trình nghiên cứu văn học bấy giờ, trong buổi đầu tập sự vận dụng phương pháp luận duy vật và biện chứng vào đời sống văn học. Ngoài ra, trong giai đoạn này, các nhà nghiên cứu còn vận dụng hướng tiếp cận phản ánh lịch sử và đạt được một số thành quả. Đó là các bài viết Xã hội trong thơ văn Tú Xương (Hoàng Ngọc Phách), Tâm sự Tú Xương (Lê Thước), Văn chương Tú Xương (Đỗ Đức Hiểu). Họ đánh giá, sau Hồ Xuân Hương, trong thời kỳ văn học cận đại, Tú Xương là nhà thơ kế nghiệp xứng đáng nhất của văn thơ trào phúng cả phương diện tư tưởng và nghệ thuật. Đặc biệt, những bài viết của nhà thơ, nhà văn như Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân... với những nét khám phá tài hoa, làm phong phú giọng điệu phê bình. Nguyễn Tuân là đại biểu kiệt xuất của dòng nghiên cứu tiếp nhận nghệ sĩ. Ông không chỉ thể hiện cảm nhận tài hoa qua các bài thơ Sông lấp, Đi hát mất ô, mà còn phát hiện ra mối quan hệ giữa trữ tình và hiện thực trong thơ Tú Xương. Về sau, ông còn có dịp cảm nhận sâu hơn nữa trong Thời và thơ Tú Xương. Nhà văn Nguyễn Công Hoan góp phần bàn về văn bản, nêu nghi vấn về sự lầm lẫn trong việc sưu tầm tác phẩm, việc lầm lẫn chữ trong bài thơ, những sai sót trong việc chú thích cũng như cách hiểu và cách đánh giá tư tưởng bài thơ. Trong khi nhà thơ Xuân Diệu bình luận tinh tế cái hay cái đẹp của từng câu, từng chữ trong thơ Tú Xương, thì nhà thơ Tú Mỡ lại triệt để khai thác tính chất trào lộng, sắc thái trào phúng tự nhiên trong thơ. 6 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Như vậy, việc nghiên cứu Tú Xương ở giai đoạn này vẫn dừng lại ở hướng tiếp cận chủ yếu theo phương pháp xã hội học, chú trọng đến giá trị phản ánh hiện thực, bước đầu có phát hiện về chất trữ tình, cái tôi, tính hiện đại. Từ 1975-nay: Tú Xương được đưa vào Từ điển văn học Việt Nam và Tác giả văn học Việt Nam. Tổng tập những công trình nghiên cứu Tú Xương của Lữ Huy Nguyên, Ngô Văn Phú, Mai Hương, Nguyễn Văn Huyền... được biên soạn. Chuyên luận Tú Xương- tác phẩm giai thoại của Nguyễn Văn Huyền (1987) là một trong những công trình tin cậy để nghiên cứu văn bản học tác phẩm Tú Xương. Trong khoảng vài năm cuối của thế kỷ XX, các trang viết của Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Trần Lê Văn, Trần Thị Trâm, Kiều Văn… đã có những cố gắng tiếp cận, bổ sung những cách nhìn mới về Tú Xương. Trong bài viết Tú Xương- nhà thơ lớn của dân tộc (1988), Nguyễn Đình Chú đã đính chính và bổ sung nhiều chi tiết có ý nghĩa. Ông quan tâm lý giải cội nguồn “gốc rễ trữ tình”, và tài năng của bậc “thần thơ thánh chữ”.Bằng hướng nghiên cứu hệ thống, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nhấn mạnh phương diện ý thức cá nhân và tiếng cười giải thoát. Ông kết luận, Tú Xương đi ngược lại truyền thống thơ ngôn chí, đánh dấu sự phai nhạt của không gian truyền thống, mở ra không gian sinh hoạt đời thường, đô thi. Mặc dù đây chỉ là những nhận định khái quát, song nó góp phần mở ra những vấn đề nghiên cứu mới về Tú Xương. Gần đây nhất, Trung tâm nghiên cứu Quốc học giới thiệu cuốn sách Tú Xương toàn tập của tác giả Đoàn Hồng Nguyên (2010). Đây là tác phẩm có sự khảo cứu tỉ mỉ về văn bản học, cũng như nêu lên một số nhận định, đánh giá Tú Xương trong tiến trình hiện đại hoá văn học. Như vậy, giai đoạn này, nhiều phương pháp nghiên cứu được vận dụng như so sánh, thi pháp học... và đạt nhiều thành tựu đáng kể. Nhưng hầu hết các công trình này vẫn chỉ dừng lại ở việc xem Tú Xương như người khai sáng cho dòng thơ hiện thực trào phúng và những cách tân nghệ thuật ít nhiều mang tính hiện đại. 7 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 3. Phạm vi đề tài Trong Tú Xương toàn tập của Đoàn Hồng Nguyên (2010), tác giả đã khảo cứu các văn bản Nôm: Vị Thành giai cú tập biên, Quốc văn tùng kí, Việt Tuý tham khảo, Nam âm thảo, Thi văn tạp lục, Tiên đan gia bảo cũng như các văn bản tiếng Việt từ trước đến nay và đã so sánh đối chiếu và kết luận về số lượng tác phẩm của Tú Xương. Chúng tôi thấy đây là nguồn tài liệu mới và có độ tin cậy về văn bản. Dựa vào đó, luận văn nghiên cứu và khảo sát trong 134 tác phẩm và cả 56 bài tồn nghi của Trần tế Xương. Đồng thời chúng tôi có tham khảo những giai thoại để xây dựng chân dung Tú Xương với tư cách là nhà nho thành thị và với tư cách người nghệ sĩ. 4. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi vận dụng hướng tiếp cận văn hóa học cùng với các phương pháp thống kê, miêu tả, so sánh, phân tích, mong có được cái nhìn hệ thống và toàn diện nhất về Tú Xương. 5. Bố cục Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Trần Tế Xương với bối cảnh văn hoá buổi giao thời và đặc trưng môi trường đô thị hoá ở Nam Định. Chương 2: Nhận diện lại con người Trần Tế Xương thông qua cách ứng xử trước sự biến đổi của văn hoá- xã hội giao thời. Chương 3: Phong cách thơ phi truyền thống Trần Tế Xương trong tương quan với văn học nho gia truyền thống. 8 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ PHẦN NỘI DUNG Chương 1: TRẦN TẾ XƯƠNG TRONG BỐI CẢNH VĂN HOÁ GIAO THỜI VÀ ĐẶC TRƯNG MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ HOÁ Ở NAM ĐỊNH Cuộc đời của Tú Xương (1870- 1907) ngắn ngủi 37 năm, nằm gọn trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử: buổi giao thời đầy biến động và mang nhiều tính chất đặc thù so với trước đây. Mất nước và đô thị hóa theo hướng tư bản chủ nghĩa mạnh mẽ là hai thực tế khác trước nhiều nhất mà Tú Xương trải nghiệm. Đó là những biến động xã hội quan trọng khiến Trần Tế Xương phải đối diện, không giống với thực tế quen thuộc mà các nhà nho truyền thống “từng trải”: môi trường nông thôn, nhà trường nho giáo, công đường, cung đình... Ở thời điểm này, Tú Xương sống trong bối cảnh hoàn toàn mới, khiến cách ứng xử của ông trước thời cuộc không còn giống các nhà nho truyền thống: không hăng hái và mặn mà hành đạo với mong muốn phò vua giúp nước, cũng không lánh đục khơi trong ẩn dật chốn thâm cùng ngõ vắng khi vấp phải thời loạn lạc, cũng không phải đề cao tài- tình như các nhà nho tài tử, Tú Xương mang một tâm thế và một cá tính riêng, trước đây chưa từng thấy trong văn học truyền thống, tâm thế của nhà nho thành thị trong văn hóa giao thời. Hoàn cảnh mới đã tạo nên một cá tính mới. 1.1. Tú Xương đối diện với cảnh mất nước và văn hóa buổi giao thời Tuổi thơ Tú Xương lớn lên trong cảnh nước nhà lần lượt rơi vào tay Pháp. Đế quốc Pháp từng bước xâm chiếm và bình định các vùng miền trên toàn quốc. Nước ta rơi vào tay một thế lực mới, kẻ thù lần này không phải là Trung Hoa cường quốc phong kiến đồng văn đồng chủng, mà là một đế quốc phương tây với kinh nghiệm mấy trăm năm thực dân, với chính sách khai hóa thuộc địa bài bản và một nền văn hóa hoàn toàn mới. Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn. Năm 1862, Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thực dân 9 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Cochinchine (Nam kỳ). Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát nổi mối bất hòa này. Năm 1873, biến cố ở Bắc Kỳ đã xảy ra. Sau khi chiếm Hà Nội, hạ thành Hải Dương, Ninh Bình, quân Pháp quyết tâm đánh chiếm Nam Định. Đại uý Garnier chỉ huy quân Pháp thẳng tiến xuống Nam Định theo hai hướng Nam và Đông, ngày 10 tháng 12 năm 1873, quân Pháp tiến sâu vào thành Nam Định, thành Nam Định bị mất. Ngày 21 tháng 12 năm 1873, Garnier bị giết tại Cầu Giấy. Trước tình hình đấy, Philastre- thống soái việc hình luật ở Nam Kỳ theo lệnh của chính phủ Pháp trả thành Hải Dương cho Việt Nam, rồi lên Hà Nội làm giao ước trả lại bốn thành cho quan triều đình coi giữ. Quân lính Pháp đợi Hoà ước ký xong thì rút về. Đến năm 1881, chỉ huy Henri Riviere, vốn được cử ra Hà Nội với một lực lượng mỏng để xem xét các phàn nàn từ phía Việt Nam về các thương gia Pháp. Tuy nhiên, Riviere đã ngang nhiên đi ngược lại các chỉ thị của mình, và đánh thành Hà Nội năm 1882. Sang năm 1883, chỉ huy Riviere đánh hạ thành Nam Định, thành phố thứ nhì ở Bắc Kỳ, với một hạm đội pháo thuyền nhỏ và một đoàn thuỷ quân đánh bộ. Như vậy, thành Nam thực sự rơi vào tay Pháp. Sự thất thủ của thành Nam Định và một số thành khác ở Bắc Kỳ khép lại quá trình đánh chiếm Việt Nam của thực dân Pháp, bắt đầu xây dựng bộ máy thuộc địa và bước vào quá trình khai thác của chúng. Hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam, người Pháp đã tổ chức ra một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Pháp ra sức khai thác vùng thuộc địa và từng bước áp đặt vùng ảnh hưởng của văn hóa phương tây vào nước ta. Do cuộc kháng chiến có tính chất toàn dân nên cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp phải kéo dài tới tận năm 1896. Từ năm đó chế độ thuộc địa mới có thể thực sự được thiết lập do cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân ta tạm thời bị chặn lại. Việc cử Paul Doumer sang làm toàn quyền Đông Dương tỏ rõ ý đồ của đế quốc Pháp muốn 10 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ thiết lập một chế độ thuộc địa cổ điển với đầy đủ mọi thành trì của chế độ này: kinh tế, hành chính, quân sự và văn hóa. Sau khi bình định, Doumer đã tung ra những quyết định để giải phóng những nguồn tài chính mới, tạo ra cơ chế mới cho lực lượng sản xuất ở xứ Đông Dương có thể thay đổi. Sau này, vào năm 1901, đại úy Bernard ghi lại: “Vào năm 1897, chỉ trong vài tuần lễ, một cơn mưa đá đã thực sự đổ xuống: tăng thuế thân và thuế địa ốc, thuế những người không đăng kí, thuế đăng kí sắc phong của các quan, thuế diêm, thuế quế, thuế giấy có đóng dấu, thuế muối, rượu, thuyền trên sông, giấy phép chặt gỗ, thuế thuốc lào, thuế cau, thuế củi, thậm chí cả thuế rơm, thuế ra để lợp những cái lều thảm hại nhất” Từ nay, Đông Dương đã được tạo thành, được tổ chức và cơ cấu hóa với những ngân sách dư thừa, một nền ngoại thương đang phát triển và đã tăng gấp đôi từ năm 1896, và những kinh phí riêng của mình. Nó đã trở thành một vòng hoa của đế quốc Pháp, “một ban công Pháp trên Thái Bình Dương” [8; tr.605]. Thực dân Pháp đã nắm quyền điều khiển cuộc đổi thay, thay bộ máy thống trị quan liêu kiểu phong kiến phương đông bằng bộ máy quan liêu kiểu mới, với sự cấu kết giữa thực dân và phong kiến. Thu hẹp hơn nữa quyền hành và uy tín của các quan, bây giờ trong thực tế phái ở dưới quyền của những công chức Pháp có đủ loại, và đủ ngành. Còn về dân chúng, ở nông thôn và các nơi khác thì phải chịu một sự thúc ép thuế càng ngày càng cao, một sự giám sát và kiểm tra càng ngày càng cưỡng bức cùng với một thứ quyền hành hà khắc và đàn áp. Sự lớn lên của các đô thị là minh chứng cho sự đổi thay dễ nhận thấy. Nhiều công trình lớn được xây dựng, từ kiến trúc đến giao thông, nhà máy, xí nghiệp. Tất cả đã đem lại thuận lợi cho phát triển đô thị trong các xứ ở An Nam. Các công ty tư nhân bắt đầu đầu tư, như các công ty than 1888, hội bông sợi ở Hải Phòng, nhà máy dệt Nam Định... Tất cả đều mang nhân sự mới: các giám đốc, kĩ sư, đốc công, tài vụ... “Những sáng kiến của chính quyền về đô thị hóa ở các thành phố là nơi có những biến đổi nhiều khi rất ngoạn mục” [8; tr.596]. 11 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Cho tới khi người Pháp đặt nền bảo hộ lên Việt Nam, các tỉnh lị chỉ là một hình thức quần tụ của vài làng xóm xung quanh một thành trì, nơi sở tại của nền hành chính quân sự và dân sự. Hoạt động kinh tế phát sinh với sự đô hộ của người Pháp và sự thành lập hệ thống giao thông đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của sinh hoạt tỉnh thành. Có thể nói, đây là cuộc đổi thay lớn lao, ghê gớm nhất từ trước đến nay. Sự va chạm giữa nền văn hóa cổ truyền với một nền văn hóa hoàn toàn xa lạ trong buổi đầu tiên không khỏi tạo tâm lý ngỡ ngàng và bất an. Sau 1874, khi các cuộc tiếp xúc với người Âu Tây nhiều hơn, chặt chẽ hơn, đã có nhiều chương trình hiện đại hóa được thảo ra. Những cố gắng về trí tuệ để thích ứng với thế giới mới càng tỏ ra cần thiết hơn, khi mà những thực tại thì đang đổi thay và những đổi thay đó đã phát sinh ra đủ thứ phản ứng xã hội, đặc biệt tại Bắc Kì [46; tr.304]. Quan chức và tầng lớp văn thân (các nhân sĩ và thân hào) trên lý thuyết là “rường cột” “tự nhiên” của triều đình, bởi vì được gắn liền với triều đình trên các mặt chính trị, xã hội và kinh tế. Sau khi đỗ đạt, quan chức làm việc trong chính quyền, nhân sĩ lo dạy viết, dạy đạo và dạy đạo Khổng Mạnh, còn thân hào ở các xã thôn có trách nhiệm thu thuế, tuyển mộ binh lính và phân bổ sưu dịch do nhà nước quy định. [45;tr.240]. “Biết chữ, làm quan là kì vọng lớn nhất của bất cứ người An Nam trẻ nào” [45;tr.242]. Cũng theo Tsu bôi, trung tâm của giới nhân sĩ là nhóm tú tài, một vị trí không rõ rệt giữa quan và dân: “gần thành công”- sánh với các quan vì họ không lên đến được tột đỉnh của kì thi- không đỗ cử nhân, tiến sĩ- nhưng trái lại, họ thành công ở chỗ hơn các người hỏng thi và quần chúng, ít ra họ đã đỗ thi hương. Các nhân sĩ có đặc điểm rất nhạy cảm và chú ý đến tình hình chính trị. Một khi biến động chính trị hoặc xã hội bùng nổ, một số người của họ với tư cách lãnh đạo, đứng ra tập trung dân chúng chống lại những người mà họ cho là kẻ thù [46; tr. 258]. Ngoài ra, là người truyền bá Nho giáo, họ đặc biệt xem người Pháp và người công giáo là cừu địch, còn các người này cũng trả đũa ngay và xem các nhân sĩ là “kẻ thù số một của họ”. 12 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Thực dân Pháp đưa Thiên chúa giáo vào nước ta một phần nhằm lấn át nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, cắt đứt mối quan hệ văn hóa Việt Nam với các nước Phương Đông, áp đặt vùng ảnh hưởng văn hóa Phương Tây. Mặt khác, nền Hán học, Nho học ở nước ta ngày càng suy yếu. Sau nhiều thế kỉ giành giật chỗ đứng, bắt rễ ngày càng sâu rộng, tạo ảnh hưởng và gây dựng uy tín, đến đầu thế kỉ XV, sự kết hợp nho giáo với chế độ quân chủ chuyên chế đã hình thành. Tuy nhiên, đến hết thế kỉ XVIII, nho học đứng trước nhu cầu điều chỉnh, cách tân. Từ nhận thức những cái được xem là “nguy cơ”, bằng thói quen có từ trong quá khứ của học thuyết nho giáo, do tầm tri thức và những hạn chế của thời đại đã đưa các nhà nho Việt Nam thời đó tới chỗ chọn hướng giải quyết: lấy giáo dục và khoa cử làm điểm then chốt của sự điều chỉnh. Những nho sĩ kêu gọi cải cách văn thể với hi vọng chấn hưng nho giáo và nho học bằng con đường truyền bá nho, đào tạo nhà nho, hi vọng tăng cường nhận thức lí luận nho giáo từ kinh điển, chấn chỉnh nho phong sĩ khí, cải cách văn thể xuất phát từ nhu cầu bức thiết của nho học. Cuộc vận động này được tiến hành rầm rộ thu hút nhiều nho sĩ tham gia góp tiếng. Cuộc cải cách văn thể có ảnh hưởng đáng kể tới nho học và nhất là tới văn học, vì trung tâm của cuộc vận động này chính là văn chương cử tử. Nho học Việt Nam thời kì này với những đặc điểm, thành tựu, cái mới và hạn chế của nó được quy định bởi những điều kiện kinh tế, xã hội và những nguyên nhân nội sinh của nó. Sự xuất hiện của các yếu tố phi cổ truyền do môi trường kinh tế hàng hóa, đô thị và thị dân tạo ra, vừa là điều kiện vừa là nguyên nhân tạo ra những dấu hiệu phi cổ truyền tẻ tẻ, cục bộ trong nho học. Cuối thế kỉ XIX, đất nước ta rơi vào ách nô dịch của thực dân Pháp, kéo theo việc xây dựng chính quyền thực dân, phát triển kinh tế công thương nghiệp ở các thành phố, thì nhà nho mất dần vai trò “kẻ tiên tri, tiên giác”, bị đẩy xuống hạng dân thường. [5;tr.103]. Trước thời Doumer, những viên quan toàn quyền đầu tiên đã nghĩ tới việc sử dụng nền giáo dục truyền thống làm công cụ phục vụ cho họ. Doumer đã duy trì chế độ 13 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ thi tuyển quan trường cũ ở Bắc kì cho đến 1915, ở Trung kì cho đến 1918. Từ năm 1862, chữ quốc ngữ, hình thức chuyển ngôn ngữ Việt bằng chữ cái la tinh, được sử dụng ở Nam kì rồi lan dần sang cả nước. Năm 1896, chính quyền thuộc địa cho đưa chữ quốc ngữ vào một số môn thi của các kì thi tuyển chọn quan lại. Năm 1903, một môn thi tiếng Pháp trở thành bắt buộc trong các kì thi [51;tr.215]. Như vậy, sự thay đổi chữ viết, sự xuống cấp của nền hán học, cựu học tạo điều kiện cho sự du nhập văn hóa phương tây được nhanh chóng. Cùng với sự chuyển biến của các giai cấp liên hệ với sự sản xuất truyền thống, cũng như sự xuất hiện của những giai cấp mới dưới ảnh hưởng của diễn biến kinh tế, Việt Nam dần dần thay đổi theo lối sống “tư sản hóa”, “Âu hóa” dần hình thành, xâm nhập và tấn công vào lối sống cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Trong đô thị, lúc đầu, Pháp kiều sống trong những khu riêng biệt lập nên một xã hội đóng chặt, có những thành kiến và những quy định riêng của nó. Họ rất ít tiếp xúc với dân Việt, ngoài những cuộc tiếp xúc kinh tế hay hành chính cần thiết. Đa số người Pháp ở Việt Nam đã tiêm nhiễm một mặc cảm tự tôn khiến họ khinh bỉ dân bản xứ: đối với một người Pháp, sự sỉ nhục nặng nề nhất là bị gán danh hiệu “dân bản xứ”[1;tr.239]. Mặc dù có sự tách biệt và phân biệt đối xử, nhưng với sự tiếp xúc lâu dần đã hình thành nên lối sống mang tính tư sản hóa ở các thành thị Việt Nam. 1.2. Môi trường đô thị hoá truyền thống chuyển dần sang đô thị hoá tiền tư bản ở Nam Định Tính chất đô thị hóa ở Việt Nam có những nét khác biệt so với Phương tây. Đó là sự xây dựng và đầu tư có chừng mực của thực dân Pháp, bên cạnh phát triển đô thị theo kiểu phương tây thì vẫn giữ nét cổ truyền phương đông. Sự va chạm này tạo ra nét riêng trong quá trình đô thị hóa Việt Nam. Quê hương Nam Định của Tú Xương được coi là kinh kì thứ hai thời kì đó. Đây là đô thị lớn trong thời phong kiến và cũng là một trong những đô thị trung tâm của xã hội giao thời thực dân- phong kiến. 14 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Trước khi Pháp xâm lược, Nam Định cũng giống như vùng tỉnh khác của cả nước, vẫn chịu sự thống trị của nhà nước phong kiến tập quyền. Nam Định là một trong những thành có ngành thủ công và làng nghề truyền thống xuất hiện sớm và tiếp tục phát triển trong thế kỷ XIX. Sách Đại Nam nhất thống chí có chép về các làng dệt có tiếng như Vân Cát, Tương Đông, Hà An… Trong lĩnh vực thương nghiệp, hệ thống chợ làng mở rộng tạo thành một mạng lưới rộng khắp. Nối tiếng nhất là chợ Vị Hoàng (thuộc xã Vị Hoàng), còn có tên là chợ Vị Xuyên thuộc tổng đốc Đông Mặc, nay là thành phố Nam Định. Các làng chuyên nghề buôn đã xuất hiện từ hàng trăm năm trước vẫn tiếp tục duy trì ở thế kỷ XIX. Đầu thế kỷ XIX, khu vực trung tâm thành phố Nam Định ngày nay đã trở thành một nơi phố xá đông đúc, buôn bán tấp nập. Năm 1883, sau khi bình định Nam Định, thực dân Pháp đã nhanh chóng phân chia lại địa giới hành chính và bắt tay vào khai thác thuộc địa. Dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, cấu trúc kinh tế- xã hội và bộ mặt của Nam Định đã có những biến đổi sâu sắc và toàn diện. Chỉ trong vòng hơn chục năm, bộ mặt thành phố đã hoàn toàn đổi khác. Tòa thành cũ đã bị người Pháp phá dỡ từng phần. Thay vào đó là những công sở, dinh thự mới mọc lên. Những đường phố mới được rải nhựa, đèn điện thắp sáng đêm đêm. Kho tàng, bến bãi, nhà ga xe lửa được xây dựng, tạo cơ sở cho việc xuất hiện Nhà máy dệt, Nhà máy tơ, Nhà máy chai... Dân cư thành Nam cũng tăng nhanh với một kết cấu mới, đủ mặt mọi thành phần của cư dân đô thị cận đại: công nhân, tư sản, tiểu tư sản, học sinh, trí thức tự do, quan chức thực dân và bản xứ cùng một số không nhỏ nông dân ven thị. Nam Định dần trở thành một trong ba đô thị lớn nhất Bắc Kỳ thời Pháp thuộc. Ngoài các tầng lớp cũ, tư sản được hình thành. Cuối thế kỷ XIX, đầu XX, đội ngũ tiểu tư sản phát triển nhanh chóng theo đà đô thị hoá ở Nam Định. Họ bao gồm các thị dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ… 15 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Dưới tác động của hai cuộc khai thác thuộc địa trước và sau chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm xuất hiện các giai tầng xã hội mới ở Nam Định, đại diện cho phương thức sản xuất mới tư bản chủ nghĩa. Các lực lượng xã hội mới chỉ là thiểu số, nắm trong tay một tiềm lực kinh tế hết sức hạn hẹp. Cơ cấu xã hội truyền thống ở Nam Định đã bị biến đổi và xáo trộn mạnh, nhưng chưa bị phá vỡ và thay đổi căn bản. Chính điều này đã làm bộc lộ rõ tính chất nửa thuộc địa nửa phong kiến của xã hội Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng. Những biến đổi về kinh tế - xã hội và quá trình giao lưu tiếp xúc văn hóa Đông Tây ở Nam Định đã dẫn đến những chuyển biến mới trong sinh hoạt văn hóa. Sự chuyển biến đó được biểu hiện rõ nét nhất trong sự hình thành nếp sống đô thị ở thành phố Nam Định. Nhưng mặt khác, quá trình đô thị hóa và việc du nhập lối sống phương Tây vào Thành Nam cũng làm nảy ra nhũng thói hư tật xấu mới như trộm cướp, đĩ điếm, nghiện hút... Chuyển biến lớn nhất về giáo dục ở Nam định từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là sự tàn lụi của nền giáo dục Nho học và thay vào đó là nền giáo dục mới –Tây học. Giáo dục ở Nam định mới chỉ dừng lại ở một cấp độ thấp, chủ yếu là tiểu học và chỉ một số rất ít người được đi học, còn lại đại đa số nhân dân là mù chữ. Sau khi chiếm được thành Nam Định năm 1884 thực dân Pháp đã bắt đầu tính đến việc xây dựng một thành phố ở đây. Các công sở của người Pháp lần lượt mọc lên trên các phố phường như: Toà công sứ, Toà án Tây, Sở kho bạc ...., bên cạch đó là các nhà máy, xí nghiệp như: Nhà máy chai, nhà máy rượu, nhà máy sợi......Hệ thống chợ phục vụ nhu cầu trao đổi hàng hóa rất phát triển trong đó có 4 chợ lớn: Chợ Rồng, chợ Vị Hoàng, chợ Của Trường... Thành phố Nam Định, không chỉ là một thành phố công thương nghiệp nổi tiếng đầu thế kỷ XX, mà còn trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hóa - tư tưởng lớn, một điểm tiếp xúc của luồng giao lưu văn hóa Đông - Tây. Các cụ Phan Bội Châu, Lương 16 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Văn Can đều đã tìm đến Nam Định, tuyên truyền và vận động sự ủng hộ của nhân dân Nam Định tham gia phong trào Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục. Tiểu kết: Sống trong cảnh mất nước và quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, Trần Tế Xương được coi là nhà nho thị dân đầu tiên ở Việt Nam. Trong xã hội đặc biệt, mọi trải nghiệm của Trần Tế Xương khác các nhà nho truyền thống- không cung phụng trong chốn quan đường, không thả mình, ngâm vịnh ở chốn thiên nhiên u tịch... , tính chất thị dân của Tú Xương đã được khẳng định qua cách ông tự giới thiệu: “Ở phố hàng Nâu” (Tự vịnh), và “Quen lối sống thị thành” (Phú hỏng thi), “Sáng vác ô đi tối vác về” (Tự ngụ)... 17 Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Chương 2: NHẬN DIỆN LẠI CON NGƯỜI TRẦN TẾ XƯƠNG THÔNG QUA CÁCH ỨNG XỬ TRƯỚC SỰ BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HOÁ- XÃ HỘI BUỔI GIAO THỜI 2.1. Tú Xương với tư cách là con người xã hội Nếu dựa vào tiêu chí Nho gia để đánh giá Tú Xương là nho hay phi nho, ta thấy tuy bề ngoài có mâu thuẫn vì lúc thế này lúc thế kia, nhưng về bản chất trong ông vẫn có sự thống nhất trong một mẫu nhà nho khác, mới hình thành trong xã hội cuối thế kỉ XIX, đó là nhà nho thành thị. 2.1.1. Tu thân: Tu thân là khái niệm then chốt của nho giáo, là hành xử quan trọng đối với bậc quân tử. Tú Xương vẫn là một nhà nho chăm chăm đèn sách, hòng mong tiến thân trên con đường khoa cử, nhưng dường như không thấy xuất hiện ý niệm tu, tề, trị, bình ở con người ông. Đối với nho sĩ, một khi đã bước chân vào cửa Khổng sân Trình thì đều thấm nhuần tinh thần của nho giáo là con người phải ý thức vấn đề tu thân và coi trọng việc giữ gìn truyền thống đạo lý. Trong thơ ca truyền thống, nhà nho luôn luôn đề cao và ý thức việc tu thân, rèn luyện mình thành người quân tử. Khái niệm tu thân được nhắc tới khá nhiều, ngoài việc thể hiện tấm lòng luôn hướng về nghĩa quân thân với ước mong được báo đáp đền ơn của một kẻ bề tôi hết lòng vì dân vì nước, còn là thái độ coi thường công danh phú quý. Coi thường công danh phú quý họ tìm đến với cuộc sống giản dị, hoà hợp với thiên nhiên để di dưỡng tinh thần. Họ vui với bữa cơm dưa muối, áo bô, hài cỏ, chè mai, hiên nguyệt, con lều, am quán... Sống vui với thiên nhiên, các nhà nho cũng luôn dặn lòng mình nhớ cho bền đạo trung dung, giữ lấy cái đạo của người quân tử. Có được đạo trung dung là có được sự điều hòa, sự quân bình trong cuộc sống. Đó mới là bí quyết của cuộc sống, bí quyết của hạnh phúc. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan