Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn văn học dân gian và văn hóa dân gian vùng thiên bản vụ bản (nam định)...

Tài liệu Luận văn văn học dân gian và văn hóa dân gian vùng thiên bản vụ bản (nam định)

.PDF
125
76
138

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TRẦN THỊ BÍCH LÊ VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ VĂN HÓA DÂN GIAN VÙNG THIÊN BẢN-VỤ BẢN (NAM ĐỊNH) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Thái Nguyên – 2019 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TRẦN THỊ BÍCH LÊ VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ VĂN HÓA DÂN GIAN VÙNG THIÊN BẢN-VỤ BẢN (NAM ĐỊNH) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS TS NGUYỄN THỊ HUẾ Thái Nguyên – 2019 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Trần Thị Bích Lê ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn PGS TS Nguyễn Thị Huế đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Trần Thị Bích Lê iii DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT GS : Giáo sư GS.TS : Giáo sư Tiến sĩ PGS : Phó giáo sư PGS.TS : Phó giáo sư Tiến sĩ TS : Tiến sĩ Nxb : Nhà xuất bản Nxb ĐHQGHN : Nxb Đại học quốc gia Hà Nội Nxb KHXH : Nxb Khoa học xã hội Nxb GD : Nxb Giáo dục Nxb VHTT : Nxb Văn hóa thông tin Nxb VHDT : Nxb Văn hóa dân tộc Tr : Trang iv MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài (Lý do chọn đề tài) .......................................................................... 1 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu (Lịch sử vấn đề) ..................................................................... 2 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 3 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 4 5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................................ 4 6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................................. 5 7. Đóng góp của luận văn ........................................................................................................... 5 NỘI DUNG ................................................................................................................................ 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ....................................................................................................... 1 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................................................... 1 1.1.1. Giới thiệu khái quát về vùng Thiên Bản-Vụ Bản (Nam Định).......................................... 1 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về văn học dân gian và văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản (Nam Định) ................................................................................................................................. 7 1.2. Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài ......................................................................... 10 1.2.1. Văn hóa dân gian và văn học dân gian .......................................................................... 10 1.2.2. Lý thuyết và khái niệm vùng văn hóa, vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ .......................... 11 Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................................... 16 Chương 2: VĂN HỌC DÂN GIAN VÙNG THIÊN BẢN – VỤ BẢN ................................... 18 2.1. Khái quát về văn học dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản .................................................. 18 2.2. Các thể loại văn học dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản ................................................... 18 2.2.1. Thần thoại Thiên Bản-Vụ Bản (Thần thoại được truyền thuyết hóa) ............................ 18 2.2.2. Truyền thuyết Thiên Bản-Vụ Bản ................................................................................... 22 2.2.3. Tục ngữ, ca dao Thiên Bản-Vụ Bản ............................................................................... 33 2.2.4. Dân ca Thiên Bản-Vụ Bản .............................................................................................. 46 2.3. Đặc trưng văn học dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản ...................................................... 57 Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................................... 59 Chương 3: VĂN HÓA DÂN GIAN VÙNG THIÊN BẢN – VỤ BẢN ................................... 61 3.1. Khái quát văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản ....................................................... 61 3.2. Một số yếu tố văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản ................................................ 61 v 3.2.1. Tín ngưỡng và sinh hoạt tín ngưỡng vùng Thiên Bản-Vụ Bản ....................................... 61 3.2.2. Phong tục, tập quán Thiên Bản-Vụ Bản ......................................................................... 72 3.2.3. Lễ hội Thiên Bản-Vụ Bản ............................................................................................... 76 3.2.4. Di tích Thiên Bản-Vụ Bản .............................................................................................. 82 3.3. Đặc trưng văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản ...................................................... 85 3.4. Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn hóa dân gian Thiên Bản-Vụ Bản .................. 87 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................................... 90 KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 95 PHỤ LỤC ................................................................................................................................ 99 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài (Lý do chọn đề tài) Thiên Bản-Vụ Bản là mảnh đất nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Nam Định thuộc vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ. Nơi đây đã xuất hiện dấu vết cư trú của người Việt cổ từ thời kỳ tiền sơ sử và thời các vua Hùng dựng nước. Thiên Bản-Vụ Bản cũng là mảnh đất thiêng, trung tâm của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam. Vùng văn hóa, xã hội và kinh tế Thiên Bản-Vụ Bản đã được định hình trong lịch sử lâu dài của đất nước cũng như của châu thổ sông Hồng nên “lưu đậm dấu ấn văn hóa văn minh của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng” [1; tr.413] đồng thời lại mang những sắc thái riêng, truyền thống riêng độc đáo. Văn học dân gian Thiên Bản-Vụ Bản là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân gian Thiên Bản-Vụ Bản. Do đó, việc nghiên cứu, giới thiệu diện mạo, đặc trưng văn học dân gian cũng như văn hóa dân gian của địa phương này sẽ nhằm khẳng định những nét chung và riêng độc đáo ấy. Qua đó góp phần xây dựng cách nhìn đa chiều về vùng đất Thiên Bản-Vụ Bản và góp phần phát huy hơn nữa truyền thống văn hóa của người dân nơi đây nói riêng và của người dân Nam Định nói chung. Từ trước đến nay, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về mảnh đất, con người Thiên Bản-Vụ Bản nói chung, về văn học dân gian Thiên Bản-Vụ Bản nói riêng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu văn học dân gian Thiên Bản-Vụ Bản trong mối quan hệ với văn hóa dân gian Thiên Bản-Vụ Bản, chỉ có một số bài viết, công trình đề cập đến một vài khía cạnh hoặc ở mức khái quát ban đầu. Nhận thấy đây là một vấn đề còn bỏ ngỏ, do vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu về: Văn học dân gian và văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản làm đề tài luận văn Thạc sĩ. Hơn nữa, Thiên Bản-Vụ Bản cũng là mảnh đất bản thân tác giả được sinh ra, gắn bó và lớn lên bằng đường cày nước ngập ngang bụng của ông, bằng những thuyền lúa gặt về giữa những ngày mưa bão của cha mẹ, bằng những câu chuyện, lời ca, tiếng hát về cuộc đời lam lũ, vất vả nhưng cũng chan chứa tình đời của người dân quê hương. Lựa chọn việc nghiên cứu và giới thiệu về văn học dân gian và văn hóa dân gian Thiên Bản - Vụ Bản, chúng tôi muốn làm một việc tri ân với chính quê hương của mình. 2 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu (Lịch sử vấn đề) Tìm hiểu tình hình tư liệu cho đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã tiếp cận với một số công trình có liên quan sau đây: Trước hết là công trình Tục ngữ-Ca dao Nam Định của tác giả Trần Đăng Ngọc [21]. Công trình này đã tập hợp các câu tục ngữ, ca dao Nam Định. Cuốn sách có một số nhận định khái quát về tục ngữ ca dao Nam Định trong đó có tục ngữ, ca dao Thiên Bản-Vụ Bản. Đây là một nguồn tư liệu quý giá. Tiếp theo là cuốn Nghề và làng nghề truyền thống ở Nam Định được biên soạn bởi nhóm tác giả Đỗ Đình Thọ, Lưu Tuấn Hùng, Nguyễn Văn Nhiên, Hồ Đức Thọ, Trần Đăng Ngọc, Thành Nam [52]. Công trình này đã cung cấp cho độc giả những tư liệu quý về các nghề và làng nghề truyền thống của tỉnh Nam Định trong đó có vùng Thiên BảnVụ Bản. Nhà nghiên cứu Bùi Văn Tam trong công trình Thiên Bản lục kỳ huyền thoại đất Sơn Nam [38] đã nêu lên một số nhận xét về giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật xây dựng nhân vật của sáu truyện truyền kì trên đất Thiên Bản. Cùng với công trình trên, tác giả Bùi Văn Tam đã cho ra mắt độc giả cuốn Sự tích các vị thần linh thờ ở đền làng huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định [33]. Công trình này đã sắp xếp sự tích các vị thần theo từng thời kì lịch sử khoa học, logic. Đồng thời trong công trình này, tác giả đã nêu lên một số nhận xét về giá trị nội dung, ý nghĩa và mootip chuyện kể văn học dân gian được sử dụng trong các sự tích. Đặc biệt là cuốn Địa chí văn hóa huyện Vụ Bản [36] của nhà nghiên cứu Bùi Văn Tam. Đây là một công trình mang tính tổng hợp về các mặt lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa… của huyện Vụ Bản. Trong chừng mực nào đó, công trình đã có đề cập, phác họa một số nét diện mạo văn học dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản. Đây là nguồn tài liệu rất hữu ích và có giá trị, là những tư liệu tham khảo chính được chúng tôi sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài của luận văn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu mà chúng tôi đề cập trên nhìn chung mới chỉ dừng ở việc sưu tầm, giới thiệu mà chưa tiếp cận văn học dân gian Thiên Bản-Vụ Bản ở các phương diện đặc trưng khái quát mang tính vùng miền, chưa đi sâu chỉ ra đặc 3 điểm của từng thể loại, cũng như chưa xem xét văn học dân gian với tư cách là một bộ phận, một thành tố của văn hóa dân gian, nên chưa chỉ ra được mối quan hệ nhiều chiều giữa văn học dân gian và văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản. Do vậy, đề tài của chúng tôi sẽ hướng tới việc tiếp cận văn học dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản theo góc nhìn địa - văn hóa, địa - lịch sử, địa - xã hội. Từ đó, nhằm bước đầu chỉ ra được nét đặc trưng khái quát cũng như những đặc điểm riêng từng thể loại của văn học dân gian Thiên Bản-Vụ Bản. Đồng thời, đề tài cũng hướng tới việc tiếp cận, tìm hiểu và giới thiệu về văn hóa dân gian Thiên Bản-Vụ Bản, xem xét để chỉ ra mối tương quan giữa văn học dân gian và văn hóa dân gian Thiên Bản-Vụ Bản. 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là các thể loại của văn học dân gian Thiên Bản-Vụ Bản như: thần thoại được truyền thuyết hóa, truyền thuyết, tục ngữ, ca dao, dân ca. Đây là những thể loại văn học dân gian có từ lâu đời, gắn bó mật thiết với các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng của người dân nơi đây. Đối tượng nghiên cứu cũng được mở rộng tới tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lễ hội, di tích ở vùng đất thiêng này, để từ đó thấy được mối quan hệ nhiều chiều giữa văn học dân gian và văn hóa dân gian Thiên Bản-Vụ Bản. 3.2. Mục tiêu nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi xác định mục tiêu nghiên cứu trước hết là tìm hiểu về văn học dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản, phân loại các thể loại văn học dân gian dựa vào những tiêu chí phân loại đã được các nhà Folklore công nhận, từ đó thấy được sự phong phú, đa dạng của văn học dân gian nơi đây. Đồng thời bước đầu đi sâu tìm hiểu, phân tích, đánh giá đặc điểm của từng thể loại, cũng như tổng quan khái quát về đặc trưng của văn học dân gian Thiên Bản-Vụ Bản. Thứ hai là tìm hiểu về văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản, đặc biệt là những yếu tố của văn hóa dân gian có tác động và đóng vai trò quan trọng đối với đời sống của người dân vùng đất này như: tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lễ hội, di tích. 4 Thứ ba là chỉ ra mối quan hệ nhiều chiều giữa văn học dân gian vùng Thiên BảnVụ Bản với văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi đề ra nhiệm vụ của luận văn là: - Tìm hiểu vùng đất Thiên Bản-Vụ Bản một cách hệ thống về địa lí, dân cư và lịch sử hình thành vùng đất, hình thành văn hoá vùng đất. - Tập hợp, hệ thống, phân loại tư liệu để nhận diện diện mạo văn học dân gian và văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản. - Tìm hiểu, nghiên cứu, đưa ra những nhận định, đánh giá về đặc trưng, tính chất của văn học dân gian, văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản và mối quan hệ giữa văn học dân gian, văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ đối tượng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau theo hướng liên ngành. Đó là các phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp nghiên cứu so sánh loại hình - Phương pháp điều tra, điền dã - Phương pháp thống kê (gắn liền với điều tra xã hội học) - Phương pháp nghiên cứu liên ngành Việc phối hợp các phương pháp trên sẽ giúp chúng tôi tìm hiểu, khai thác đối tượng nghiên cứu một cách toàn diện để đưa ra những kết luận khoa học đúng đắn và có sức thuyết phục. 5. Phạm vi nghiên cứu - Về phạm vi địa lý: Vùng Thiên Bản-Vụ Bản của tỉnh Nam Định 5 - Về phạm vi đối tượng nghiên cứu: Văn học dân gian và văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản của tỉnh Nam Định. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài Chương 2: Văn học dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản Chương 3: Văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản 7. Đóng góp của luận văn Công trình nghiên cứu của chúng tôi một mặt kế thừa, tiếp thu những thành tựu của các công trình đi trước; mặt khác đã mang lại những đóng góp có giá trị. Đó là - Hệ thống các tác phẩm văn học dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản theo thể loại. - Nhận diện diện mạo, đặc trưng văn học dân gian và mối tương quan với văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản. - Đóng góp thêm một tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu, học tập, giảng dạy về văn học dân gian, văn hóa dân gian địa phương vùng Thiên Bản-Vụ Bản. 1 NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Giới thiệu khái quát về vùng Thiên Bản-Vụ Bản (Nam Định) 1.1.1.1. Sự thay đổi hành chính-tên gọi qua các thời kì Thiên Bản-Vụ Bản là mảnh đất nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Nam Định. Phía Bắc tiếp giáp với huyện Mỹ Lộc và thành phố Nam Định. Phía Đông tiếp giáp với huyện Nam Trực, ngăn cách bởi sông Đào. Phía Nam tiếp giáp với huyện Ý Yên. Phía Tây Bắc tiếp giáp với huyện Bình Lục (Hà Nam) và phía Tây Nam tiếp giáp với huyện Ý Yên, đều ngăn cách bởi dòng sông Ba Sát. Điểm cực bắc của huyện là làng Hướng Nghĩa (xã Minh Thuận), điểm cực nam là làng Cồn Dâu (xã Vĩnh Hào), cách nhau chừng15 km. Điểm cực đông là làng Thi Liệu (xã Đại Thắng) và điểm cực tây là trại Dầu (xã Tân Khánh), cách nhau khoảng 10km. Các đơn vị hành chính của huyện Vụ Bản gồm thị trấn Gôi- huyện lỵ trung tâm và 17 xã: Hiển Khánh, Minh Thuận, Tân Khánh, Hợp Hưng, Trung Thành, Quang Trung, Đại An, Kim Thái, Minh Tân, Tam Thanh, Liên Minh, Thành Lợi, Liên Bảo, Vĩnh Hào, Tân Thành, Cộng Hoà, Đại Thắng. Trải qua biến thiên của lịch sử, huyện Vụ Bản cũng đổi thay nhiều về tên gọi và cương vực. Thiên Bản xưa, Vụ Bản nay vốn là mảnh đất cổ được hình thành bởi phù sa bào mòn trong quá trình biển lùi và phù sa sông Hồng, sông Đáy bồi đắp. Thời Hùng Vương, huyện Vụ Bản có tên là Bình Chương thuộc bộ Lục Hải (một trong 15 bộ của nước Văn Lang) [1; tr.7]. Huyện Bình Chương lúc đó nằm sát biển. Thời thuộc Hán, vùng đất này thuộc quận Giao Chỉ. Thời Tam Quốc, thuộc Châu Giao. Thời thuộc Lương, nằm ở quận Ninh Hải. Thời Tùy Đường, lại thuộc quận Giao Chỉ. Thời nhà Lý, nước ta chia làm 24 lộ, huyện Vụ Bản có tên là huyện Hiển Khánh, thuộc phủ Ứng Phong, lộ Hải Thanh. Thời nhà Trần, đổi tên là Thiên Bản, thuộc phủ 2 Kiến Hưng, lộ Hoàng Giang. Ngay cái tên cũng đã nói lên ý nghĩa sâu xa của miền đất cổ vốn sống bằng nghề nông nghiệp. Theo các nhà Nho thì Thiên Bản chính là “Nông giả ư thiên hạ chi giả bản” (nghề nông là cái gốc của thiên hạ), viết gọn là thành “Thiên Bản”. Tên của các làng ở Thiên Bản-Vụ Bản góp phần lí giải ý nghĩa tên gọi “Thiên Bản”. Tên nhiều làng có chữ Bối và chữ Đê (Bối La, Bối Xuyên, Đại Đê,…) chính là những làng nằm ở bờ sông, phải đắp đê ngăn nước lụt, bảo vệ mùa màng. Các làng miền thượng huyện với những cái tên: làng Kho, làng Bịch, Đống Lương, là “căn cứ hậu cần quan trọng của thời Trần” [35; tr. 6]. Không phải ngẫu nhiên mà khi Thái hậu Dương Vân Nga mời Lê Hoàn lên ngôi, thống lĩnh toàn quân chống giặc Tống, vùng Thiên Bản lúc đó được tướng quân Đô Liệu Lương và thảo sứ Phạm Bạch Hổ chọn làm nơi tập trung lương thảo, chuẩn bị thuyền bè chở lương cho quân sĩ. Các làng Đại Đê, Đắc Lực, Dương Lai, Bách Cốc, Đô Liệu, đều có kho lương hoặc đội thuyền chở lương. Tương truyền Dương Vân Nga đã đi thuyền rồng đến làng Bách Cốc để động viên nhân dân [36; tr. 461]. Nhà Lý, nhà Trần đã chọn nơi đây là một trong những nơi tập kết lương thực, chỉnh đốn quân sĩ trước những lần Nam tiến. Một loạt điền trang, thái ấp của vương tôn, công chúa nhà Trần được xây dựng ở đây. Vua Lý Nhân Tông từng về làm lễ Tịch điền tại hành cung Ứng Phong (làng Hướng Nghĩa, xã Minh Thuận). Vì thế, văn hóa Thiên Bản đậm nét dân gian, đậm đà bản sắc dân tộc, mang tính chất của nền văn hóa nông nghiệp rõ rệt. Năm Vĩnh Lạc thứ năm (1407), nhà Minh đổi phủ Kiến Hưng thành Kiến Bình, đổi Thiên Bản thành huyện Yên Bản. Năm Vĩnh Lạc thứ mười ba (1415), nhà Minh đổi huyện Độc Lập thành Bình Lập cho sáp nhập vào huyện Yên Bản. Đến đời Lê, niên hiệu Hồng Đức, cho trở lại tên cũ là huyện Thiên Bản thuộc phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam. Đầu đời Nguyễn, huyện Thiên Bản có 10 tổng: An Cự, Bảo Ngũ, Đăng Côi, Đồng Đội, Hào Kiệt, Hiển Khánh, Hoàng Lão, Hổ Sơn, Thiên Bản, Trình Xuyên với 92 xã, thôn, phường, trang trại. Đến thời Nguyễn, Tự Đức năm thứ 14 (1860) đổi tên thành huyện Vụ Bản, thuộc phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Niên hiệu Thành Thái thứ 5 (1893), do sông Đào được mở rộng, nối liền sông Kinh Lũng, sông Cốc Giang với sông Vị Hoàng, nối liền sông Hồng với sông Đáy nên nhiều xã thuộc 3 tổng Thi Liệu, huyện Nam Trực lại ở bên bờ sông phía Bắc ngăn cách với Nam Trực, do đó triều Nguyễn cắt mấy xã này về Vụ Bản. Năm 1953, Vụ Bản được cắt về tỉnh Hà Nam. Đến tháng 4-1956, Vụ Bản lại trở về Nam Định. Ngày 19-8-1964, Chính phủ lại quyết định nhập làng Quảng Cư của xã Yên Lương huyện ý Yên vào xã Tam Thanh huyện Vụ Bản và chuyển thôn Hữu Dụng của xã Tam Thanh huyện Vụ Bản về xã Yên Minh (Ý Yên). Từ đây trở đi, Vụ Bản mới ổn định địa giới như ngày nay. Nhìn chung, từ trước đến nay, Vụ Bản là huyện ít có sự xáo trộn địa giới nhất trong số các huyện của tỉnh Nam Định. “Huyện Vụ Bản ngày nay bao gồm hầu hết huyện Thiên Bản và một phần nhỏ huyện Nam Trực xưa” [64; tr. 69] 1.1.1.2. Đặc điểm địa hình Thiên Bản-Vụ Bản nằm tại phần tiến nhanh ra biển của châu thổ sông Hồng cùng với huyện Ý Yên, Mỹ Lộc và thành phố Nam Định, nhất là khi sông Hồng phân ra các chi lưu như sông Trà Lý, sông Đào (sông Nam Định) và sông Ninh Cơ. Nói khác đi, 4.000-5.000 năm trước đây, Vụ Bản vẫn đang là vùng đầm lầy ven biển. Quá trình được bồi lắng bởi lớp trầm tích phù sa của hệ thống sông Hồng đã chi phối mạnh mẽ tới sự hình thành thổ nhưỡng và cảnh quan hiện tại. Vì vậy, địa hình Thiên Bản-Vụ Bản là kiểu địa hình không còn chịu ảnh hưởng của biển. “Tại đây ta gặp kiểu địa hình đồi sót đá gốc và địa hình tích tụ phù sa sông” [36; tr. 14]. Dọc phía Tây huyện có các dãy núi đất lẫn đá chạy từ Bắc xuống Nam với sáu ngọn núi: Núi Ngăm, núi Tiên Hương, núi Báng, núi Lê, núi Gôi và núi Hổ. Núi Ngăm là một trong hai núi lớn nhất, nằm án ngữ đường 12, bên dòng sông Ba Sát uốn quanh, phía Tây chân núi có đền thờ Hữu Sơn Thần. Núi Tiên Hương có chùa Tiên Linh nguy nga tráng lệ dưới chân núi. Trên đỉnh có đền thờ Tả Sơn thần và Mẫu Thượng Ngàn. Núi Báng như một cánh cung ôm lấy chùa cổ Linh Sơn, có ngọn tháp cao nhiều tầng cổ kính, còn lưu giữ thiên đài và khánh đá đời Lê Vĩnh Thịnh đầu thế kỉ XVIII. Núi Lê ngẩng cao đầu về phía đông, thoải dần về phía tây, với di tích Hang Lồ còn lưu dấu vết của người nguyên thủy sinh sống đầu tiên trên đất Vụ Bản cách đây 4.000 năm. Núi Gôi cao lớn nhất án ngữ đường 10 và đường 56. Trên núi có chùa Tiên Sơn (còn gọi là chùa 4 Cao) nổi tiếng trong vùng, có bàn cờ tiên bằng đá, có giếng tiên (còn gọi là giếng Hang) nước trong vắt. Chè cành Côi Sơn hãm với nước giếng Tiên sẽ được bát nước chè tươi thơm ngon đặc biệt. Đầu núi phía Tây Bắc có đền thờ Lữ tướng anh dũng chống giặc Hán, có đền thờ Độc Cước tiên sinh chuyên giúp dân chài đi biển bình an. Thời Lê dưới chân núi có phủ thành Nghĩa Hưng, có huyện lỵ Thiên Bản. Chếch về hướng đông nam là núi Hổ, có hình dáng một con hổ ngẩng cao đầu, đang vờn quả cầu trước mặt. Sườn núi phía nam có chùa Nộn (dân thường gọi là chùa Non), nơi công chúa Trần Huyền Trân về tu, nay cũng là đền thờ hai công chúa đời Trần là Thụy Bảo và Huyền Trân. Núi non trải dài một dải giữa đồng bằng lộng gió, là một cảnh quan đặc sắc của huyện Vụ Bản. Dấu vết người nguyên thuỷ tìm thấy tại các khu vực núi này minh chứng Thiên Bản-Vụ Bản là một trong những cái nôi sinh ngụ của người Việt cổ. Điều kì thú hơn nữa là Thiên Bản- Vụ Bản lại có sông uốn khúc, sơn thủy hữu tình. Mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, phần lớn mang dấu vết ngòi lạch của biển lùi tạo nên, ngày nay được khơi sâu thành những sông, kênh mang tính chất tiêu úng. Phía Đông Thiên Bản-Vụ Bản có sông Đào nối liền sông Hồng với sông Đáy. Do quá trình tự đào lòng (nhất là sau những trận lũ lụt lớn như trận lụt năm Thành Thái thứ 2-1890), sông Đào trở thành sông lớn, là một đường thủy quan trọng trong miền, nối đồng bằng Bắc Bộ với Bắc Trung Bộ, thuyền bè không cần ra biển. Sông Đào chạy dọc hướng Bắc Nam phía Đông xã Tân Thành, tạo ra bãi bồi của Trại Cói và xóm Rước ở ngoài đê, mùa nước lũ các xóm quai đê thường nước ngập tràn mang phù sa sông Hồng bồi đắp vườn và đất bãi màu mỡ. Sông Đào chạy dọc tiếp theo phía Đông xã Thành Lợi và xã Đại Thắng. Lưu lượng nước và phù sa không kém gì sông Hồng. Dọc sông Đào có đê Công (đê Đại Hà), đoạn từ Tân Cốc (Tân Thành) đến Cống Lác (Đại Thắng). Đất ngoài đê như Sa Trung, Đồng Mỹ, Trại Cói, Trại Rước, Miễn Hoàn, Thi Liệu, Cốc Đế,.. vốn là đất bãi bồi ven sông, mùa nước lũ xưa kia thường ngập băng. Để bảo vệ mùa màng, dân tự nguyện làm đê Bối (sử sách gọi là đê Bối Tư). Phía hữu ngạn, sông Đào có hai chi lưu là sông Cầu Dành và sông Chanh. Sông Cầu Dành (sông Nêu, sông Tiểu Cốc) nối liền với sông Vĩnh Tường, từ An Duyên qua Ba Quàn, chảy lên phía sông Châu Giang qua Phú Ốc, La Xá của huyện Mỹ Lộc, đổ vào sông Đào qua cống Bồng. 5 Sông Chanh (sông Vĩnh Giang) nối liền với sông Vĩnh Tường, từ An Duyên, chảy qua Bất Di (sông Bất Di), vòng về Cầu Chuối (Liên Bảo-sông Cầu Chuối), qua Liên Minh (sông Cầu Ngố-sông Cửu Khúc), Vĩnh Hào (sông Si, sông Vĩnh), rồi đổ ra sông Đào qua cống Chanh. Phía Tây huyện Vụ Bản có sông Ba Sát (còn gọi là sông Sắt) chạy dọc theo ranh giới hai huyện Vụ Bản, Ý Yên. Sông Ba Sát nối liền sông Châu Giang với sông Đáy. Sông Ba Sát từ Bình Lục (Hà Nam) chảy xuôi theo hướng Bắc-Nam, qua Cầu Họ (sông Cầu Họ), chảy qua Minh Thuận, Tân Khánh, qua núi Ngăm- Kim Thái (sông Ngăm), qua Tam Thanh, xuống Ý Yên (Cầu Tào) đổ ra cống Vĩnh Trị trên sông Đáy. Thời Lý Trần, nhánh sông này đã có và là đường thủy quan trọng nối liền hành cung Thiên Trường và thành Trấn Sơn Nam với các thành trấn phía nam. Sông Ba Sát có đê Bối Tư chạy dọc xuống tận cống Vĩnh Trị, còn gọi là đê Ất Hợi. Năm Ất Hơi (Dương Hòa thứ nhất, 1635), đê sông Bầu (Phủ Lý-Hà Nam) bị vỡ, nước tràn về ngập 5 huyện, dân phải tập trung đắp đê thật vững chắc. Vào năm 1845, 1890, đều bị vỡ đê Bầu, nước tràn về lại làm vỡ đê Ất Hợi, dân vô cùng khốn khổ. Xã Hiển Khánh có sông Bún, phía Bắc chảy qua cầu Mái, nối với sông Ninh rồi đổ vào Sông Hồng; phía Nam chảy qua Hợp Hưng, Cộng Hòa, Kim Thái, đổ vào sông Tiên Hương, ra sông Ba Sát. Sông Ba Sát có một nhánh chảy ngang Tiên Hương (sông Tiên Hương), qua Vân Cát, lên cầu Châu Bạc, đến xóm Xuân thì gặp sông Bún thành ngã ba sông rồi ngoặt sang hướng Đông, qua xã Trung Thành, qua cầu xóm Hòe, đổ vào sông Vĩnh ở đoạn Bất Di. Các con sông trên đều là đường thủy quan trọng của huyện, nối liền sông Đáy với sông Hồng ở nhiều ngả, làm cho giao thông thời xưa và thời nay thuận lợi. Nói cách khác, mảnh đất này chính là do phù sa sông Hồng và sông Đáy bồi tụ nên. Hệ thống sông ngòi tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân nơi đây, tạo nên nền văn minh lúa nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc đáo của mình. 6 Về khí hậu, Thiên Bản-Vụ Bản mang đầy đủ đặc điểm của khí hậu châu thổ Bắc Bộ: nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, có 4 mùa rõ rệt. Nhìn chung, khí hậu thuận lợi cho môi trường sống của con người, cho sự phát triển nông nghiệp, đồng thời cũng tạo điều kiện cho các ngành thủ công nghiệp phát triển. Chính những yếu tố tự nhiên này đã tác động không nhỏ đến đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người nơi đây, góp phần làm nên diện mạo văn học dân gian cũng như văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản. 1.1.1.3. Đặc điểm cộng đồng dân cư Đặc điểm về địa hình đã tạo điều kiện thuận lợi cho cư dân nguyên thủy về đây sinh sống, khiến Thiên Bản-Vụ Bản trở thành một trong những cái nôi sinh ngụ của người Việt cổ. Người nguyên thủy cách đây hàng 4-5 ngàn năm đã từ miền núi, miền trung du Bắc Bộ, men theo sông Hồng, sông Đáy xuống định cư, tạo nên lớp cư dân đầu tiên ở nơi này. Tổ tiên đã quai đê lấn biển, khai phá đất hoang, đời đời kế tiếp nhau, cải tạo từ bãi biển sình lầy hoang vu, cói lác rậm rạp thành ruộng đồng phì nhiêu. Qua các hiện vật khảo cổ tìm được, chứng tỏ vào hậu kì đồ đá mới sang thời đại kim khí đã có mặt các nhóm cư dân sinh sống dưới chân các núi Ngăm, núi An Thái, núi Báng, núi Lê, núi Gôi, núi Hổ. Trên các núi này, nhất là trong di chỉ hang Lồ ở núi Lê, đã tìm được nhiều di vật. Cùng với đó, thần tích nhiều làng từ miền thượng huyện đến miền trung huyện, từ Tây sang Đông đã ghi nhận điều đó. Chính vì thế, đất Thiên Bản còn lưu truyền sâu sắc tín ngưỡng văn hóa dân gian cổ truyền cũng như nền văn học dân gian đa dạng. Cũng giống như cư dân ở vùng Bắc Bộ, người dân Thiên Bản-Vụ Bản sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp một cách thuần túy, là những cư dân “xa rừng nhạt biển”. Mảnh đất Vụ Bản từ xưa là một vùng kinh tế nông nghiệp trù phú. Các vua Lí Trần đặt tên huyện là “Thiên Bản” với ý “Nông giả ư thiên hạ chi bản dã” có nghĩa là “nông nghiệp là gốc của thiên hạ vậy” Người dân Thiên Bản cũng tận dụng thời gian nhàn rỗi làm thêm nghề thủ công. Vụ Bản có nhiều nghề thủ công cổ truyền. Nghề rèn ở làng Bảo Ngũ. Nghề gò đồng thau có truyền thống xa xưa ở làng Bàn Kết. Nghề chạm đá ở làng Thái La. Làng Môn 7 Nha-Báng làm gạch. Nghề làm sơn then, sơn mài làng Hổ Sơn. Nghề dệt vải, dệt nái tơ tằm Bảo Ngũ, Vân Cát, Lập Vượng, Quả Linh. Nghề đan cót làng Si, làm gối mây làng Tiên, tre đan làng Hồ Sen, thêu Hào Kiệt… Nền kinh tế hàng hóa phát triển, chợ búa ra đời. Chợ Viềng trở thành một nét đẹp văn hóa của địa phương. Người dân Thiên Bản-Vụ Bản sống quần tụ thành làng. Làng là đơn vị xã hội cơ sở của Thiên Bản-Vụ Bản cũng giống như những làng quê khác của vùng châu thổ Bắc Bộ. Là mảnh đất cổ của vùng văn hóa Bắc Bộ, vì vậy, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lễ hội dân gian phát triển sớm trên mảnh đất Thiên Bản, in đậm dấu ấn đời sống tâm linh của người dân Thiên Bản-Vụ Bản nói riêng cũng như của người Việt nói chung: tín ngưỡng thờ thiên thần, tín ngưỡng thờ nhân thần, tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, …Mảnh đất này được coi là trung tâm thờ Mẫu lớn nhất cả nước. Đời sống tâm linh trên mảnh đất Thiên Bản-Vụ Bản chính là cái nền vững chắc nhất của quan hệ cộng đồng. Văn học dân gian Thiên Bản-Vụ Bản là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân gian Thiên Bản-Vụ Bản, vừa có nét chung với văn học dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, vừa mang những nét riêng đậm đà màu sắc địa phương với truyền thống văn hóa lâu đời từ thuở các vua Hùng dựng nước. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về văn học dân gian và văn hóa dân gian vùng Thiên Bản-Vụ Bản (Nam Định) Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, đã có những công trình, bài viết có liên quan đến đề tài mà chúng tôi khảo sát. Trước hết là những tư liệu về văn học dân gian Thiên Bản-Vụ Bản. Đầu tiên phải kể đến công trình Tục ngữ-Ca dao Nam Định của tác giả Trần Đăng Ngọc [21] đã được đề cập đến trong phần mở đầu. Nhà nghiên cứu Bùi Văn Tam trong công trình Thiên Bản lục kỳ huyền thoại đất Sơn Nam đã nêu lên một số nhận xét về giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật xây dựng nhân vật của 6 truyện truyền kì trên đất Thiên Bản: “nội dung phong phú về chuyện 8 chống cường quyền bạo lực, cả thần quyền lẫn uy quyền của vua quan tham nhũng (…) đề cao những tấm gương giúp dân phát triển kinh tế văn hóa (…) đề cao chữ hiếu, trinh (…) đề cao chữ trung, đề cao lòng yêu nước (…) thể hiện sự mưu trí dân dã, sự sáng tạo không cùng của dân chúng” [38, tr. 17-23]. Cùng với công trình trên, tác giả Bùi Văn Tam đã cho ra mắt độc giả cuốn Sự tích các vị thần linh thờ ở đền làng huyện Vụ Bản [33]. Công trình này đã sắp xếp sự tích các vị thần theo từng thời kì lịch sử khoa học, logic. Đồng thời trong công trình này, tác giả đã nêu lên một số nhận xét về giá trị nội dung, ý nghĩa và mootip chuyện kể văn học dân gian được sử dụng trong các sự tích. Trong luận văn thạc sĩ ngữ văn Thế giới nghệ thuật trong những bài hát văn ở Phủ Dầy-Nam Định [8], tác giả Phùng Thị Thanh Huyền đã chỉ ra đặc điểm hát văn ở các phương diện thi pháp như: không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật,... Tác giả Hoàng Ngọc Thanh trong luận văn thạc sĩ Hình tượng người phụ nữ trong ca từ hát văn [40] đã đi sâu vào một phương diện quan trọng của thể loại hát văn là hình tượng người phụ nữ. Về những tư liệu văn hóa dân gian Thiên Bản-Vụ Bản, trước hết phải kể đến các cuốn địa chí Nam Định qua các thời kỳ như Nam Định tỉnh địa dư chí của Nguyễn Như, tự Ôn Ngọc [19], Nam Định tỉnh địa dư chí lược tân biên của một học giả, nhà giáo, nhà văn hóa nổi tiếng người Nam Định, Tiến sĩ Tam giáp Khiếu Năng Tĩnh [60]. Các công trình trên đều có đề cập đến địa danh Thiên Bản – Vụ Bản nhưng với tư cách là một quyển địa chí của toàn tỉnh nên mới chỉ giới thiệu vắn tắt về mảnh đất này. Trong cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Vụ Bản (1930 – 2000) [1], chương I của cuốn sách “Những truyền thống lịch sử lâu đời về mảnh đất và con người Vụ Bản” đã giới thiệu tới bạn đọc những nét lớn về lịch sử, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội Vụ Bản. Năm 2003, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Uỷ bản nhân dân tỉnh Nam Định đã chỉ đạo biên soạn cuốn Địa chí Nam Định [64]. Đây là công trình nghiên cứu tổng hợp về địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa Nam Định qua các thời kỳ lịch sử, có giới thiệu khá đầy đủ về vùng đất Thiên Bản-Vụ Bản.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan