Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn từ thế giới quan phật giáo đến sự triển hiện khách thể thẩm mỹ trong vă...

Tài liệu Luận văn từ thế giới quan phật giáo đến sự triển hiện khách thể thẩm mỹ trong văn chương tuệ trung thượng sĩ

.PDF
116
137
88

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ NGUYỄN TRƢỜNG SINH TỪ THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN SỰ TRIỂN HIỆN KHÁCH THỂ THẨM MỸ TRONG VĂN CHƢƠNG TUỆ TRUNG THƢỢNG SĨ LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội, 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ NGUYỄN TRƢỜNG SINH TỪ THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN SỰ TRIỂN HIỆN KHÁCH THỂ THẨM MỸ TRONG VĂN CHƢƠNG TUỆ TRUNG THƢỢNG SĨ Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Kim Sơn Hà Nội, 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả đƣợc nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi là ngƣời chịu trách nhiệm chính đối với mọi vấn đề liên quan đến luận văn này này. Tác giả luận văn Nguyễn Trường Sinh LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn Kim Sơn, ngƣời đã luôn kiên nhẫn, tận tình chỉ bảo để tôi có thể hoàn thành luận văn, đồng thời cũng là ngƣời có ảnh hƣởng lớn đến lựa chọn nghề nghiệp và giúp tôi cảm thấy vững tin trên con đƣờng mà mình đang đi. Cảm ơn các thầy cô, anh chị đồng nghiệp tại phòng Văn học Việt Nam cổ trung đại – Viện Văn học, đặc biệt là TS. Trần Hải Yến, đã luôn tạo điều kiện cũng nhƣ giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn; TS. Phạm Ngọc Lan, Th.s Quách Thu Hiền đã đọc và góp ý cho bản thảo luận văn. Cảm ơn bạn Nguyễn Thị Thanh Thùy đã sẵn lòng đọc giúp bản thảo ngay từ những ngày đầu. Cảm ơn bố Nguyễn Thanh Bình và mẹ Nguyễn Thị Luyến cùng những ngƣời thân trong gia đình đã luôn ủng hộ con đƣờng mà tôi đã chọn. Tác giả luận văn Nguyễn Trường Sinh MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 4 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 6 3. Định hƣớng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu ............................................................. 11 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................................... 12 5. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................... 13 NỘI DUNG .................................................................................................................... 14 CHƢƠNG 1: THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO .............. 14 1.1. Thế giới quan và một số khái niệm có liên quan .............................................. 14 1.2. Thế giới quan Phật giáo .................................................................................... 17 1.2.1. Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy .................................................................. 17 1.2.2. Thế giới quan Phật giáo Đại thừa ....................................................................... 26 1.2.3. Thế giới quan Thiền tông ..................................................................................... 30 1.3. Thế giới quan trong tƣ tƣởng Tuệ Trung Thƣợng sĩ ........................................ 33 CHƢƠNG 2: SỰ TRIỂN HIỆN KHÁCH THỂ THẨM MỸ TRONG VĂN CHƢƠNG TUỆ TRUNG THƢỢNG SĨ .................................................................. 39 2.1. Hệ thống hình tƣợng thể hiện khách thể thẩm mỹ trong văn chƣơng Tuệ Trung Thƣợng sĩ ................................................................................................................. 39 2.1.1. Các hình tượng biểu thị thế giới tính không ........................................................ 39 2.1.2. Các hình tượng gợi dẫn và biểu trưng cho thế giới bản thể ................................ 47 2.2. Thời gian và sự thể hiện thời gian trong văn chƣơng Tuệ Trung Thƣợng sĩ ... 57 2.2.1. Thời gian của sự cảm nhận nhân sinh ................................................................. 59 2.2.2. Thời gian không thời gian .................................................................................... 65 2.3. Không gian và sự thể hiện không gian trong văn chƣơng Tuệ Trung Thƣợng sĩ ................................................................................................................................. 72 2.3.1. Không gian vô thường, biến ảo ............................................................................ 72 2.3.2. Không gian vượt bỏ các giới hạn ......................................................................... 77 1 CHƢƠNG 3: SỰ NHẤT THỂ CHỦ - KHÁCH THỂ VÀ CƠ CHẾ THẨM MỸ CỦA VĂN CHƢƠNG TUỆ TRUNG....................................................................... 82 3.1. Từ vấn đề nhận thức của Thiền đến quá trình sáng tạo của văn học............... 82 3.1.1. “Tam vô” và phương pháp nhận thức của Thiền ................................................ 82 3.1.2. Sự nhất thể khách – chủ thể và tác động của nó đến các quá trình của văn học 87 3.2. Dấu ấn và quan hệ với chủ thể trong việc thể hiện khách thể của Tuệ Trung Thƣợng sĩ ................................................................................................................. 93 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 100 THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 103 2 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐHQG : Đại học Quốc gia ĐHSP : Đại học Sƣ phạm ĐHKHXH&NV : Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn CTQG : Chính trị Quốc gia GD : Giáo dục H : Hà Nội KHXH : Khoa học xã hội Nxb : Nhà xuất bản Sđd : Sách đã dẫn SCN : Sau Công nguyên TCN : Trƣớc Công nguyên Tp. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Những năm gần đây, giới nghiên cứu dƣờng nhƣ đã dành sự quan tâm đúng mức hơn đối với các vấn đề của Phật giáo Việt Nam nói chung, trong đó có Phật giáo thời Lý – Trần, thể hiện qua số lƣợng các nghiên cứu, các chuyên khảo, cũng nhƣ luận án, luận văn hƣớng đến giải quyết nhiều vấn đề, ở các mức độ đậm nhạt khác nhau, từ nhiều nhiều phƣơng diện: triết học – tƣ tƣởng, lịch sử, văn hóa hay văn học. Ở lĩnh vực văn chƣơng, các công trình chủ yếu tập trung vào tiếp cận, luận giải các vấn đề của văn học Thiền thuộc thời kỳ khởi đầu của văn học viết dân tộc. Trong các công trình đó, nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau đã đƣợc các nhà nghiên cứu ứng dụng: Lịch sử xã hội, Loại hình học hay Thi pháp học… Những phƣơng pháp này nhìn chung đều có điểm khả thủ, trong nhiều trƣờng hợp đã giúp ngƣời nghiên cứu chỉ ra đƣợc các vấn đề đặc trƣng, bản chất của văn học Thiền. Tuy nhiên, các tác phẩm văn chƣơng Thiền học, cụ thể là thơ Thiền về bản chất là một loại văn học chức năng, tồn tại với tƣ cách là một loại công cụ để trình bày, tổng kết giáo lý hoặc “ngoại hóa” những trạng thái cảm xúc, lạc thú hay trạng thái diệu ngộ đạt đƣợc trong cuộc thể nghiệm nội tâm của bậc tu hành. Dấu ấn của các tƣ tƣởng Phật giáo cũng nhƣ các phƣơng diện mỹ học Thiền, với tƣ cách là cội nguồn triết học trong các tác phẩm đó là điều khó có thể phủ nhận; khiến cho việc khám phá, luận giải, thƣởng thức thơ Thiền đôi khi phải xuất phát từ chính những yếu tố thuộc về quan niệm thẩm mỹ đã ảnh hƣởng đến đối tƣợng và ở mức độ nhất định yêu cầu sự tiếp cận ở chiều sâu văn bản. Do vậy, thao tác cắt đứt mối liên hệ giữa văn bản thơ với các yếu tố ngoài văn bản nhƣ Thi pháp học, hay tập trung sự chú ý vào các yếu tố lịch sử xã hội nhƣ phƣơng pháp Lịch sử xã hội, hoặc thực hiện các thao tác phân loại nhƣ Loại hình học trong nhiều trƣờng hợp lại chƣa thể giúp ngƣời nghiên cứu nắm bắt đƣợc các giá trị thẩm mỹ ngầm ẩn. Trong bối cảnh nhƣ vậy, chúng tôi cho rằng, hƣớng tiếp cận từ các bình diện thẩm mỹ của văn học là hƣớng đi đáng chú ý, hứa hẹn những phát hiện. Và thực chất, luận văn là một thử nghiệm, đặt vấn đề nghiên cứu 4 cho một hƣớng đi nhƣ vậy. Thông qua quá trình “đọc sâu” văn bản, nhằm khám phá và luận giải các “mã thẩm mỹ” trong tác phẩm, chúng tôi hi vọng có thể thấy đƣợc cái đặc sắc của thơ Thiền, cũng nhƣ cơ chế sáng tạo của các tác gia – Thiền sƣ. Theo định hƣớng nhƣ vậy, việc nghiên cứu thơ Thiền từ các bình diện thẩm mỹ quan tâm đến một số vấn đề chính, trong đó có sự thể hiện khách thể (trong quan hệ với chủ thể). Tuy nhiên, khách thể đƣợc thể hiện trong thơ Thiền so với các bộ phận văn chƣơng khác của thời Trung đại lại tƣơng đối loại biệt; mà những đặc điểm loại biệt đó lại xuất phát từ sự cảm giác, tri giác, nhận thức về thế giới, tức là thế giới quan. Ở đó, sự thể hiện khách thể vừa có phƣơng diện chung là trình bày một quan niệm, một nhãn kiến về thế giới, vừa có điểm riêng là nó không phải sự “sao chụp”, tái hiện hay bắt chƣớc tự nhiên1 nhƣ cách lý giải của lý luận phản ánh. Khi nhìn nhận thực tại từ góc độ nhận thức thì nó thuộc về thế giới quan; nhƣng khi đi vào nghệ thuật, đƣợc thể hiện thông qua hình thức và phƣơng tiện của thi ca thì nó lại là khách thể thẩm mỹ. Câu hỏi đặt ra là: Quá trình từ thế giới quan đến sự triển hiện khách thể thẩm mỹ, các tác gia Thiền sƣ lựa chọn mô tả những phƣơng diện nào? Đặc tính, cấu trúc của các phƣơng diện đó đƣợc thể hiện trong tác phẩm nhƣ thế nào? Sự thể hiện đó cho thấy ý nghĩa gì? Phƣơng thức, cơ chế của nó là nhƣ thế nào? Nghiên cứu, giải đáp những vấn đề nêu trên, theo chúng tôi là công việc cần thiết và có ý nghĩa khoa học. Đối với trƣờng hợp của Tuệ Trung Thƣợng sĩ, ông đƣợc coi là một trong những nhà Thiền học nổi bật của Thiền thời Lý – Trần và có ảnh hƣởng lớn về mặt tƣ tƣởng đối với Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông cũng nhƣ Thiền phái Trúc Lâm. Do vậy, việc nghiên cứu tƣ tƣởng cũng nhƣ các sáng tác của ông có thể giúp ngƣời nghiên cứu sơ bộ thấy đƣợc những đặc điểm chung của tƣ tƣởng và sáng tác Thiền học thời kỳ này. Mặt khác, trong tình trạng tƣ liệu bị tàn khuyết của văn học thời Lý – Trần thì so với các tác giả khác, di sản của Tuệ Trung khá đáng kể và tƣơng đối tập trung. Tính khả tín của tƣ liệu cũng cao hơn so với nhiều tác giả cùng thời đại. Hơn nữa, trong số các 1 Nhà triết học Hi Lạp cổ đại Aristotle khi bàn về nghệ thuật của thơ ca cho rằng: “Sử thi, bi kịch thi cũng nhƣ hài kịch và thơ ca tụng tửu thần, đại bộ phận nhạc sáo, nhạc đàn lục huyền – tất cả những cái đó, nói chung đều là những nghệ thuật mô phỏng (mimesis)”. Aristotle (2007), Nghệ thuật thi ca, Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế Yên Báy dịch, Nxb Lao Động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, H, tr. 11. 5 tác phẩm hiện còn vừa có các công án, kệ, tụng thuộc phần ngữ lục (bộ phận mang tính thuyết lý), vừa có bộ phận thơ tụng (là các sáng tác biểu đạt Thiền ý bằng hình ảnh, hình tƣợng). Tức là, ta vừa có thể tìm thấy ở đó những phát ngôn, trình bày về thế giới quan một cách trực tiếp, lại cũng vừa có thể tìm thấy các vấn đề của thế giới quan qua tâm lý, tình cảm đƣợc thể hiện thông qua các quá trình văn học. Sự đa dạng của tƣ liệu cho phép ngƣời quan sát thực hiện các thao tác nghiên cứu, hi vọng tìm ra những đặc sắc trong sáng tác của ông. Nhƣ vậy, nhằm trả lời những câu hỏi vừa nêu, đồng thời xem xét vai trò của đối tƣợng nghiên cứu trong bối cảnh văn học đƣơng thời, cũng nhƣ cân nhắc tình hình tƣ liệu, chúng tôi lựa chọn thực hiện đề tài: Từ thế giới quan Phật giáo đến sự triển hiện khách thể thẩm mỹ trong văn chương Tuệ Trung Thượng sĩ. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Việc đặt vấn đề nghiên cứu hiện tƣợng, tác phẩm của văn học cổ điển nói chung, trong đó có thơ Thiền từ phƣơng diện thẩm mỹ, hay “nội thẩm mỹ” trong thực tế đƣợc đề xuất bởi giới nghiên cứu Trung Quốc nhằm đi tìm “cái thẩm mỹ”, dựa trên nền tảng lý luận của Thuyên thích học (Hermeneutics), sau khi nhận thấy sự kém tƣơng thích cũng nhƣ mức độ hiệu quả của việc tiếp nhận và ứng dụng các lý thuyết phƣơng Tây vào giải quyết các vấn đề của mỹ học phƣơng Đông. Do vậy, các nghiên cứu cụ thể theo hƣớng tiếp cận nhƣ vậy hiện nay mới chỉ đƣợc thực hiện bởi giới nghiên cứu nƣớc này hoặc các học giả gốc Trung Quốc trong cộng đồng nghiên cứu Anh ngữ. Ở Việt Nam, từ nhiều năm trƣớc, rải rác có một số tác giả nhƣ Đỗ Văn Hỷ trong “Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ Thiền” [47], từ việc phê phán các luận giải của Kiều Thu Hoạch [38] và Trần Thị Băng Thanh [104] xung quanh nghi án Huyền Quang và nàng Điểm Bích (vốn đƣợc ghi chép trong Tam Tổ thực lục) và trƣờng hợp bài thơ Xuân nhật tức sự, đã trình bày một cách đọc khác, xuất phát từ cội nguồn triết học cũng nhƣ các đặc trƣng thẩm mỹ của văn học Thiền. Tuy nhiên, đó chỉ là một kiến giải từ thực tế nghiên cứu mà chƣa phải là sự tiếp nhận lý thuyết một cách có chủ đích. Những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu, qua các công trình của mình, cho thấy rõ nét hơn cách đọc, cách tiếp cận văn học trung đại, trong đó có thơ Thiền, từ các bình diện thẩm mỹ nhƣ Nguyễn Kim Sơn trong “Sự đan xét các khuynh hướng thẩm mỹ trong thơ Huyền 6 Quang: Nghiên cứu trường hợp sáu bài thơ vịnh cúc” [88], “Giải mã thơ Thiền từ góc độ tư duy nghệ thuật” [83], “Sự nhất thể giữa Thiền lạc và thi hứng hay tiếng hoan hỉ của Tâm không: Luận về ba bài thơ cảnh chiều tà của Trần Nhân Tông” [90]; hay Lê Thị Thanh Tâm trong luận án “Nghiên cứu so sánh thơ Thiền Lý – Trần (Việt Nam) và thơ Thiền Đường – Tống (Trung Quốc)” [100], “Giảng dạy văn học Phật giáo Thiền tông từ góc độ Mỹ học – Một hướng đi nhiều triển vọng” [101]. Những bài viết của các tác giả này là những gợi mở quan trọng cho việc ứng dụng hƣớng nghiên cứu từ các bình diện thẩm mỹ vào tìm hiểu các vấn đề của văn học Trung đại nói chung, thơ Thiền nói riêng. 2.2. Nhƣ đã trình bày, trong những thập niên gần đây, cùng với xu hƣớng ngày càng chú ý tới việc tìm hiểu văn học thời Lý – Trần, giới nghiên cứu cũng hết sức quan tâm tới việc tìm hiểu các phƣơng diện tƣ tƣởng và trƣớc tác văn học của Tuệ Trung Thƣợng sĩ với nhiều công trình đặt vấn đề tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Đó trƣớc hết là những công trình nghiên cứu lịch sử tƣ tƣởng, lịch sử triết học, lịch sử phật giáo: “Việt Nam Phật giáo sử lược” [109] của Mật Thể, “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang [55], “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” của Nguyễn Đăng Thục [120], “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Tài Thƣ [121], “Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam” [29], “Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam” [30] của Nguyễn Hùng Hậu hay “Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần” [11] của Trƣơng Văn Chung. Điểm chung trong các công trình của các tác giả nêu trên là cùng với việc nghiên cứu dƣới góc nhìn lịch đại các vấn đề tƣ tƣởng Việt Nam và triết học Phật giáo, các công trình cũng nghiên cứu tƣ tƣởng của Tuệ Trung Thƣợng sĩ nhƣ là một đại diện tiêu biểu của tƣ tƣởng Việt Nam dƣới thời Lý Trần, hoặc với tƣ cách là một “ngƣời thầy tƣ tƣởng vĩ đại của thiền phái Trúc lâm Yên Tử” [29, tr.85]. Tuy nhiên, do những quy ƣớc và mục đích nghiên cứu của đề tài, các công trình mới chỉ nghiên cứu tƣ tƣởng và trƣớc tác Tuệ Trung với tƣ cách là một thành tố biểu hiện của lịch sử triết học. Vì vậy, việc nghiên cứu về căn bản mới dừng lại ở việc chỉ ra những yếu tố cơ bản về tƣ tƣởng của ông. 7 Công trình nghiên cứu tƣơng đối hệ thống và trực diện về tƣ tƣởng của Thƣợng sĩ trên phƣơng diện này phải kể đến luận án “Tư tưởng triết học của Tuệ Trung Thượng sĩ” [17] của Nguyễn Đức Diện. Trong công trình, tác giả luận án chủ yếu nghiên cứu từ các góc độ: quan niệm về bản thể, về thế giới hiện tƣợng và nhận thức luận. Về bản thể luận, thông qua việc chiết tự thuật ngữ bản thể và sự hiện diện của các dạng thức của thuật ngữ này trong các trƣớc tác Thiền học thời Lý – Trần, tác giả đi đến khẳng định “tƣ tƣởng này thƣờng đƣợc gắn với một khái niệm trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam mà ông là ngƣời đầu tiên nêu lên, đó là khái niệm “Bản thể”1 [17, tr.40]. Đồng thời cho rằng: “Bản thể trong triết học Phật giáo nói chung, trong triết học Tuệ Trung nói riêng là “không” – là tính không” [17, tr.51]. Về quan niệm đối với thế giới hiện tƣợng, tác giả khảo sát trên các quan niệm về sinh tử, vô thƣờng, nhân quả cũng nhƣ mối quan hệ giữa bản thể và vạn pháp. Từ đó, luận án đi đến kết luận quan trọng: “Trong triết học của Tuệ Trung, thế giới hiện tƣợng là do tâm, nhờ Tâm mà có, nhƣ thế ông đã đi theo khuynh hƣớng Duy thức (Vijnanavadina) với quan điểm “vạn pháp duy tâm”, “nhất thiết Duy tâm tạo”. Khuynh hƣớng Duy thức có kế thừa học thuyết nghiệp cảm duyên khởi của Tiểu thừa (Hynayana). […] ông còn cho các pháp là do nhân duyên, đó là quan điểm của Phật giáo nguyên thủy. Nhƣng khi đề cập đến vũ trụ (giới tự nhiên) quan điểm của ông lại mang sắc thái của Lão Trang” [17, tr.78]. Đối với nhận thức luận, tác giả xuất phát từ việc làm rõ quan điểm của Thƣợng sĩ đối với “giới”, với vấn đề “vong nhị kiến”, “phá chấp” để qua đó luận giải con đƣờng nhận thức, cũng nhƣ con đƣờng tu tập và phƣơng thức ứng xử bất nhị “hỗn tục hòa quang” của ông. Mặc dù, ở một vài 1 Thực chất, việc khẳng định Tuệ Trung là ngƣời đầu tiên nêu ra thuật ngữ bản thể thông qua thao tác triết tự chữ Hán đã đƣợc Nguyễn Hùng Hậu trình bày trong bài viết: “Tìm hiểu một số tƣ tƣởng triết học của Tuệ Trung Thƣợng sĩ” trên Tạp chí Triết học, số 1, 1994 và các công trình đã nêu trên của ông. Việc cả Nguyễn Hùng Hậu, và tác giả luận án xác định đến việc Tuệ Trung là “ngƣời đầu tiên” đề cập đến khái niệm bản thể đã tự ngầm định một sự đối chiếu với khái niệm ontology trong triết học phƣơng Tây. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi cho rằng, khái niệm bản thể (ontology) là một khái niệm có nguồn gốc từ phƣơng Tây và có bối cảnh của nó trong lịch sử, văn hóa, tƣ tƣởng của phƣơng Tây. Do đó, việc tiếp cận thuật ngữ này không thể xuất phát từ việc chiết tự thuật ngữ, vốn có thể coi là một cách dịch của ontology. Hơn nữa, “bản thể” – nhƣ chính các tác giả đã chỉ ra – thƣờng đƣợc gọi cách khác là thể (với một ý nghĩa đôi khi không hoàn toàn trùng khớp với nội hàm của ontology, chẳng hạn nhƣ trong sự hình dung về thể và dụng), đã đƣợc dùng phổ biến trong triết học Trung Quốc. Do vậy, việc căn cứ trên văn tự để khẳng định, theo chúng tôi, là cần phải xem xét lại. 8 trƣờng hợp, luận án có khuynh hƣớng tuyệt đối hóa đối tƣợng nghiên cứu 1, nhƣng nhìn chung đây là công trình đáng chú ý về khi nghiên cứu Thiền học Tuệ Trung trên phƣơng diện triết học. Ngoài ra, đầu những năm 90, hội thảo Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam đƣợc tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh dƣới sự chủ trì của giáo sƣ Trần Khuê. 33 tham luận tại hội thảo sau đó đƣợc Nxb Đà Nẵng in trong “Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam” [72] và đƣợc tái bản nhiều lần. Từ báo cáo đề dẫn của giáo sƣ Trần Khuê, có thể thấy rằng, mục tiêu chính của hội thảo là thảo luận về những vấn đề thuộc về tƣ tƣởng của Tuệ Trung Thƣợng sĩ, “chất Thiền Đại Việt”, “đặc điểm của đạo Phật Việt Nam” – thực chất là bàn tới các vấn đề tƣ tƣởng của Việt Nam. Các báo cáo ở những mức độ khác nhau, hầu hết chú ý thảo luận về tƣ tƣởng, Thiền học của Tuệ Trung, qua đó khẳng định đặc sắc, vị trí, vai trò của ông trong Thiền học Lý Trần cũng nhƣ lịch sử tƣởng dân tộc. Trên phƣơng diện văn học cũng đã xuất hiện nhiều bài viết trực tiếp hoặc gián tiếp tìm hiểu các vấn đề trong văn chƣơng Tuệ Trung từ các góc độ khác nhau. Bài viết tƣơng đối sớm đặt vấn đề nghiên cứu hành trạng cũng nhƣ sáng tác của ông là bài viết “Tuệ Trung Thượng sĩ – một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền Việt Nam” [8] của Nguyễn Huệ Chi. Trong bài viết, bên cạnh việc trình bày các luận giải về thân thế của ông, tác giả đã bƣớc đầu chú ý đến việc trình bày các kiến giải đối với tác phẩm thơ Thiền của Thƣợng sĩ, đồng thời lần đầu định danh ông là “gƣơng mặt lạ” của làng Thiền. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu của Nguyễn Phạm Hùng, khi nghiên cứu thơ Thiền và văn học thời Lý – Trần trên các vấn đề thể loại, khuynh hƣớng văn học, lịch sử và tƣ tƣởng nghệ thuật, cũng quan tâm nghiên cứu “vần thơ cuồng phóng” của Tuệ Trung [40], [41], [42]. Nhƣng cũng giống nhƣ các tác giả trên, do tính chất của công trình, Nguyễn Phạm Hùng mới chỉ đề cập tới các sáng tác của Trần Tung với tƣ cách là một phƣơng diện vấn đề mà chƣa nghiên cứu một cách toàn diện. 1 Ví dụ nhƣ việc so sánh vai trò và tầm ảnh hƣởng của Tuệ Trung với Duy Ma Cật theo hƣớng khẳng định vai trò của Thƣợng sĩ, theo chúng tôi, là cần phải cân nhắc lại. [17, tr. 142] 9 Từ một phƣơng diện khác, luận án của Lê Thị Thanh Tâm đã đề cập ở trên, trong khi nghiên cứu sự thể hiện “núi non, sông suối và cảm thức nguồn cội” dƣới điểm nhìn bản thể trong thơ Thiền Lý Trần và Thiền Đƣờng Tống đã thực hiện việc so sánh thơ Tuệ Trung với Tô Thức. Mặc dù, việc so sánh chỉ dừng lại ở việc đối chiếu tác phẩm của hai tác gia lớn của hai nền Thiền học dƣới một góc độ cụ thể, nhƣng lại có tính gợi mở đối việc tiếp cận đối tƣợng trên các bình diện thẩm mỹ. Ngoài ra, luận văn cao học của Nguyễn Thị Thanh Chung: Nghiên cứu thơ ca của Tuệ Trung Thượng sĩ – Trần Tung, thực hiện tại ĐHSP HN cũng là một công trình đáng chú ý. Trong luận văn, ngoài việc đƣa tới một diện mạo và tình hình văn bản của Thượng sĩ ngữ lục, tác giả luận văn cũng thực hiện việc nghiên cứu sáng tác của Tuệ Trung trên những tiêu chí của văn học. Điều này, trƣớc đó dƣờng nhƣ chƣa đƣợc nhiều học giả lƣu ý khi nghiên cứu sáng tác của ông. Theo đó, tác giả luận văn tiến hành nghiên cứu thơ Tuệ Trung từ các khuynh hƣớng cảm hứng và những đặc sắc nghệ thuật trong thơ Tuệ Trung. Trong các khuynh hƣớng cảm hứng, luận văn phân tích: Khuynh hƣớng cảm hứng tôn giáo, khuynh hƣớng cảm hứng thiên nhiên, khuynh hƣớng cảm hứng cá nhân. Trong nghệ thuật thơ Tuệ Trung, luận văn chú ý tới ngôn từ, câu thơ và thể loại. Chúng tôi cho rằng hƣớng đi đó về cơ bản là đúng đắn. Tuy nhiên, việc đƣa ra khuynh hƣớng cảm hứng thiên nhiên trong các khuynh hƣớng cảm hứng ở thơ Tuệ Trung là một vấn đề cần phải thảo luận lại. Bởi trong các sáng tác của Thiền gia nói chung, của Tuệ Trung Thƣợng sĩ nói riêng, thiên nhiên chỉ tồn tại với tƣ cách là một loại “công cụ ngoại hóa” cho việc giải thoát, ẩn dụ cho những nội dung giáo lý. Mặc dù thiên nhiên vẫn xuất hiện trong thơ Thiền, nhƣng các Thiền gia, đặc biệt là Tuệ Trung rất ít khi miêu tả trực tiếp thiên nhiên1. Vì vậy, rất khó để khẳng định có một khuynh hƣớng cảm hứng thiên nhiên trong thơ ông. Cho tới nay, những công trình nghiên cứu tƣ tƣởng và trƣớc tác của Tuệ Trung một cách toàn diện nhất có thể kể tới Tuệ Trung: Nhân sĩ – Thượng sĩ – Thi sĩ [34] của 1 Ở đây, chúng tôi cho rằng, ngay cả trong thơ Thiền cảnh, việc thể hiện cảnh sắc thiên nhiên cũng nhằm hƣớng đến thể hiện cảnh giới tâm linh, trạng thái tinh thần của chủ thể. Thiên nhiên đƣợc mô tả ở đó không giống với cảm hứng về thiên nhiên nhƣ trong thơ Nho gia hay Đạo gia. Sự hiện hữu của nó trong sáng tác Thiền không phải một sự hiện hữu tự thân. 10 Nguyễn Duy Hinh. Trong công trình này, tác giả tiếp cận đối tƣợng trên cả ba phƣơng diện: tiểu sử, hành trạng; tƣ tƣởng Thiền học và sáng tác văn học. Về thân thế, tác giả dựa trên sử liệu của Đại Việt sử ký toàn thư, Thượng sĩ hành trạng và Ngọc phả tại đền Trần xác định “Tuệ Trung là một nhân sĩ thời Trần Thánh Tông – Trần Nhân Tông, mất năm 1291, thọ 62 tuổi” [34, tr.49]. Về tƣ tƣởng, Nguyễn Duy Hinh nghiên cứu các vấn đề: bản thể, Phật pháp và Tâm, trong đó nhấn mạnh: “bản thể luận của Tuệ Trung là Tâm của Thiền tông cùng với thành tố trung đạo của Trung Quan phái và vô vi của Lão Trang” [34, tr.103]. Về sáng tác văn học của Tuệ Trung, Nguyễn Duy Hinh tập trung phân loại các tác phẩm thơ thành thơ Thiền lý, Thiền thú và Thiền cảnh, đồng thời luận giải nội dung các bài thơ để đi tới kết luận: “Tuệ Trung cũng thừa hƣởng thơ Đƣờng Tống nhƣ các nhà thơ Việt Nam và Trung Quốc khác, cũng tinh thông Thiền tông và cả Nho, Đạo giáo nhƣ họ, nhƣng tự Tuệ Trung có một tâm hồn riêng, phong cách riêng” [34, tr.254]. Đó là một công trình có những phân tích sắc sảo và toàn diện về tƣ tƣởng của Tuệ Trung Thƣợng sĩ. Điều đáng tiếc là, trên phƣơng diện văn học, công trình mới chỉ dừng lại ở việc phân loại và luận giải tác phẩm mà chƣa có những đánh giá sâu hơn. 3. Định hƣớng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu Luận văn sẽ xuất phát từ việc giới thuyết các khái niệm nền tảng, trong đó chú ý đến các khái niệm thế giới quan, khách thể và cùng với đó là khái niệm chủ thể. Đồng thời, luận văn cũng chú ý đến việc trình bày một số phƣơng diện chính yếu trong thế giới quan Phật giáo, thế giới quan Thiền học đƣợc trình bày trong hệ thống giáo lý và các kinh văn cũng nhƣ nghiên cứu các vấn đề về thế giới quan của Tuệ Trung Thƣợng sĩ, coi đó là cơ sở cho các quan sát tiếp theo. Đối với việc nghiên cứu sự triển hiện khách thể thẩm mỹ trong văn chƣơng Tuệ Trung, chúng tôi nhận thấy bản thân khái niệm khách thể đƣợc tiếp cận từ rất nhiều phƣơng diện. Tuy nhiên, trong khung khổ và điều kiện của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi sẽ chỉ quan sát sự triển hiện nó trên một số phƣơng diện mà theo chúng tôi là có thể bao quát đƣợc các vấn đề khác: các vấn đề thuộc về hệ thống hình tƣợng, sự thể hiện khách thể thông qua sự thể hiện không gian và thời gian, sự nhất thể giữa chủ thể và 11 khách thể để qua đó thấy đƣợc đặc điểm, cơ chế cũng nhƣ nét đặc sắc của văn chƣơng Tuệ Trung. Về phạm vi tƣ liệu: Chúng tôi chủ yếu tập trung khảo sát các tác phẩm thơ tụng của ông đƣợc tập hợp trong Thượng sĩ ngữ lục. Trong đó, hai tác phẩm “Đề dã thự” và “Tứ sơn khả hại” đã đƣợc xác định lần lƣợt là của Trần Quang Khải và Trần Thái Tông nên bị loại ra khỏi phạm vi nghiên cứu. Ngoài ra, đối với trƣờng hợp hai bài kệ đƣợc các tác giả Thơ văn Lý Trần thêm vào thay cho hai bài thơ nêu trên, chúng tôi cho rằng nên đƣa trở lại Thượng sĩ hành trạng bởi chúng cần phải đƣợc đặt trong cuộc đối thoại mang tính chất thoại đầu giữa Tuệ Trung và Trần Nhân Tông mới có thể hiểu đƣợc hết ý nghĩa. Do vậy, về phạm vi tƣ liệu, chúng tôi sẽ khảo sát trên 47 đơn vị tác phẩm thuộc phần thơ Tụng và nhiều trƣờng hợp sẽ xem xét cả phần đối cơ và tụng cổ để làm rõ các luận điểm. Về văn bản: Hiện nay Thượng sĩ ngữ lục có bốn bản dịch và chú giải khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi sử dụng bản dịch của các tác giả Thơ văn Lý – Trần [69] làm bản chính, có đối chiếu với văn bản Hán văn ký hiệu A. 1932 (VHc. 02584) lƣu tại viện Hán Nôm [148]. Ngoài ra, trong khi khảo sát chúng tôi cũng tham khảo các bản dịch Ngữ lục [124] của Trúc Thiên, bản chú giải Thượng sĩ ngữ lục giảng giải [125] của Thích Thanh Từ và Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục dịch giải [14] của Lý Việt Dũng. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Đối với đối tƣợng nghiên cứu tƣơng đối đặc biệt nhƣ văn học Thiền nói chung, thơ Thiền Tuệ Trung nói riêng chúng tôi lựa chọn hƣớng tiếp cận từ các bình diện thẩm mỹ, thông qua việc đọc sâu văn bản, luận giải các “mã thẩm mỹ” để chỉ ra những nét đặc trƣng, đặc sắc cũng nhƣ cơ chế của văn chƣơng Tuệ Trung trong việc triển hiện khách thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng phổ biến các thao tác nghiên cứu: thống kê, mô tả nhằm đƣa ra cách hình dung chung về đối tƣợng trƣớc khi đi vào xem xét các vấn đề cụ thể. Phân tích, tổng hợp để luận giải các trƣờng hợp trong khi nghiên cứu. Và cuối cùng, thao tác so sánh, đối chiếu nhằm đặt đối tƣợng trong bối cảnh thơ ca Phật giáo 12 thời Lý – Trần, với các sáng tác thơ Thiền trƣớc và sau ông để làm rõ các đặc điểm. Việc so sánh, đối chiếu cũng cần thiết khi cần đối chiếu những đặc trƣng thẩm mỹ của thơ Tuệ Trung – với tƣ cách là sáng tác thuộc bộ phận văn học Thiền so với các bộ phận văn chƣơng khác. 5. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm 99 trang chính văn, gồm có ba phần: Phần Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Phần nội dung của luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1: Thế giới quan và thế giới quan Phật giáo Chƣơng 2: Một số phƣơng diện của khách thể đƣợc thể hiện trong văn chƣơng Tuệ Trung Thƣợng sĩ Chƣơng 3: Sự nhất thể chủ – khách thể và cơ chế thẩm mỹ của văn chƣơng Tuệ Trung. 13 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO 1.1. Thế giới quan và một số khái niệm có liên quan Thế giới quan (worldview hay world outlook) mới chỉ nổi lên nhƣ một khái niệm quan trọng trong triết học, triết học về khoa học, nhân loại học, lịch sử và tôn giáo... trong một vài thập niên gần đây, cho dù những nỗ lực truy nguyên cho thấy nó có vài nguồn gốc về mặt thuật ngữ xuất hiện khá sớm, liên quan đến truyền thống văn hóa và tƣ tƣởng phƣơng Tây. Một trong số đó xuất phát từ triết học Đức: Weltanschauung vốn là từ ghép của Welt (thế giới) và Anschauung (quan điểm, điểm nhìn) trong tiếng Đức, đƣợc Immanuael Kant sử dụng lần đầu trong tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán (The Critiqua of Judgment) xuất bản năm 1790 để chỉ “trực giác của chúng ta về thế giới” (our intuition of the world)1. Thuật ngữ này sau đó đƣợc nhiều nhà triết học khác sử dụng nhƣ Keirkergaard, Hegel hay Dilthey. Tuy nhiên, nó lại dƣờng nhƣ “bị sao lãng cho tới đầu và giữa thế kỷ XX” [144, pg.16]; và do vậy, “lịch sử của thuật ngữ vẫn đang đƣợc viết”2. Trên thực tế, nhiều từ điển triết học ở phƣơng Tây chƣa có mục từ riêng cho khái niệm này, mà thƣờng trình bày nó trong mục từ về Wilhelm Dilthey với những thảo luận tƣơng đối ngắn gọn và sơ sài3. Trong các từ điển Anh ngữ, cho đến những thập niên cuối của thế kỷ XX, Oxford English Dictionary mới có mục riêng cho từ vay mƣợn Weltanschauung với ý nghĩa “một triết lý hoặc quan điểm riêng về cuộc sống; một ý niệm về thế giới của một cá nhân hay một cộng đồng” 4, kèm theo ghi chú từ vựng tƣơng đƣơng trong tiếng Anh: worldview. Vì vậy, việc xác định nội hàm của khái niệm mới chỉ đƣợc thực hiện một cách rải rác và chƣa thực sự nhất quán. Hunter Mead trong Types and Problems of Philosophy (Các dạng thức và vấn đề của triết học) 1 Immanuael Kant (1987), The Critiqua of Judgment: Including the First Introduction, trans and intro. Werner S. Pluhar. Dẫn theo David K. Naugle, [144, pg.23] 2 James Orr (1887), The Christian View of God and the World. Dẫn theo David K. Naugle, [144, pg.16] 3 Xem Dagobert D. Runes (Editor), Dictionary of Philosophy [145]; Rober Audi (general editor), The Cambridge Dictionary of Philosophy [138] 4 Từ điển Oxford English Dictionary. Dẫn theo David K. Naugle, [144, pg.30]. Hoặc xem thêm: http://www.oed.com/view/Entry/227763#eid14616140 14 định nghĩa Weltanschauung là “một thuật ngữ có phần thi vị để chỉ hệ thống bản lề của triết học hay một quan điểm hầu nhƣ vô thức đối với cuộc sống và thế giới” 1. Hay từ điển The Cambridge Dictionary of Philosophy cho rằng “một thế giới quan tạo thành một cái nhìn toàn diện về cuộc sống mà vốn tổng kết những gì chúng ta biết về thế giới, chúng ta đánh giá nó cảm tính nhƣ thế nào, chúng ta đối đãi với nó một cách lý trí ra sao” [138, pg.236]. H. P. Rickman trong mục từ Wilhelm Dilthey của The Encyclepedia of Philosophy cũng ghi nhận: “Có một xu hƣớng bền bỉ ở loài ngƣời nhằm đạt đƣợc một sự giải thích toàn diện, một thế giới quan (Weltanschauung), hoặc triết học mà ở đó bức tranh về thực tại đƣợc kết hợp với một ý thức về ý nghĩa và giá trị của nó cùng với các nguyên tắc hành động”2. Hoặc Từ điển Triết học do nhóm học giả Liên Xô biên soạn: “hệ thống quan điểm, khái niệm và quan niệm về toàn bộ thế giới chung quanh mình. Theo nghĩa tổng quát, đó là toàn bộ những quan điểm về hiện tƣợng trong tự nhiên và trong xã hội: các quan điểm triết học, xã hội và chính trị, luân lý, mỹ học, khoa học...” [80, tr.789 – 790]. Nhƣ vậy, có thể thấy, trong các định nghĩa nêu trên, khái niệm thế giới quan có nội hàm tƣơng đối rộng bao gồm trong đó không chỉ những quan điểm, cách nhìn về thế giới hiện tƣợng (với tƣ cách là những tồn tại khách quan bên ngoài) mà chứa đựng trong đó cả các vấn đề của con ngƣời, của nhân sinh quan. Nó đặt ra và trả lời cho một loạt những câu hỏi: Bản chất tối hậu của thực tại là gì? Chân lý là gì? Cái gì là nguồn gốc của vũ trụ, nguồn gốc của cuộc sống, của con ngƣời? Tri thức là gì? Điều gì là nền tảng cho tri thức? Con ngƣời là gì? Vị trí của con ngƣời trong vũ trụ?… Nói cách khác, sự triển khai của nó có liên quan tới rất nhiều lĩnh vực: Siêu hình học (metaphysics), nhận thức luận (epistemology), vũ trụ luận (cosmology), thần học (theology), nhân chủng học (anthropological) và thuyết giá trị (axiology) 3. Tuy nhiên, ở đây, khi đề cập tới khái niệm với tƣ cách là nền tảng cho những quan sát sâu hơn đối với các vấn đề của triết học Phật giáo nói chung và Tuệ Trung Thƣợng sĩ nói riêng, luận văn chú trọng hơn tới các phƣơng diện siêu hình học, vũ trụ luận và nhận thức luận trong nội hàm của khái niệm. Theo đó, chúng tôi tạm thời đƣa ra một nhận thức chung 1 Hunter Mead, Types and Problems of Philosophy. Dẫn theo Henneth H. Frunk [140] H. P. Rickman, The Encyclepedia of Philosophy. Dẫn theo Henneth H. Frunk [140] 3 Xem thêm: Kenneth H. Funk, Sđd [140] 2 15 về nội hàm của thuật ngữ với ý nghĩa trên phƣơng diện tổng thể là hệ thống những quan niệm về thế giới, về xã hội cùng các vấn đề của con ngƣời, vốn là kết quả của quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của một cá nhân hay một cộng đồng, đƣợc giới hạn bởi các điều kiện lịch sử, tri thức, tình cảm, niềm tin và kinh nghiệm của cá nhân hay cộng đồng đó. Thế giới quan trong ý nghĩa nhƣ vậy sẽ không chỉ trả lời những câu hỏi có tính siêu hình về nguồn gốc, bản chất của thực tại, luật tắc cũng nhƣ sự vận hành của thế giới mà cũng giải đáp những câu hỏi về cuộc sống nhân sinh, về chính sự tồn tại và vai trò của con ngƣời trong thế giới. Trong thực tiễn, thế giới quan là phạm trù mang tính lịch sử và là kết quả của quá trình nhận thức cũng nhƣ hoạt động thực tiễn của một cá nhân, một cộng đồng hay thậm chí của một thời đại đối với các hiện tƣợng bên ngoài cá nhân, cộng đồng và thời đại đó. Nghĩa là nó gắn liền với các hoạt động tri nhận từ tầng cảm giác đến tầng tri giác của chủ thể đối với các hiện tƣợng, mà thế giới đƣợc triển hiện ở đó đƣợc xác định trên ba phƣơng diện chính yếu: các tồn tại khách quan bên ngoài chủ thể, bản thân chủ thể và mối quan hệ giữa chúng. Ở đây, việc nghiên cứu các vấn đề của thế giới quan thực chất có liên quan tới hai khái niệm quan trọng thuộc nhận thức luận: khách thể và chủ thể, trong đó khách thể có thể coi là một bức tranh về thế giới đƣợc xác lập trong sự tƣơng tác với các hoạt động thực tiễn của chủ thể. Trong khi chủ thể luôn đƣợc hiểu tƣơng đối xác định và thống nhất là “con ngƣời có ý thức và ý chí” [80, tr.192] thì cách hiểu đối với khách thể phức tạp hơn, phụ thuộc vào việc nó đƣợc xem xét dƣới nhãn quan duy tâm hay duy vật. Quan điểm duy vật khi định nghĩa khái niệm khách thể thƣờng xác định trên hai cấp độ: theo nghĩa rộng, khách thể đƣợc hiểu là toàn bộ thế giới khách quan, tồn tại độc lập với ý thức của con ngƣời; hoặc theo nghĩa hẹp, nó không bao gồm toàn bộ thực tại, mà chỉ thuần túy là đối tƣợng nhận thức của chủ thể. Trong khi đó các nhà duy tâm coi khách thể bắt nguồn từ hoạt động tinh thần của chủ thể. Ở đó quá trình triển hiện khách thể là quá trình đi từ trong ra ngoài, từ sự quán chiếu nội tại trong tinh thần chủ thể đến sự kiến tạo các tồn tại ngoại giới. Tuy nhiên, điều cần lƣu ý là dù giải thích trên lập trƣờng duy tâm hay duy vật thì hai khái niệm nêu trên cũng không thể xem xét một cách biệt lập. Việc nhiều từ điển triết học thƣờng thảo 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan