Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ đổi mới...

Tài liệu Luận văn truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ đổi mới

.PDF
131
128
137

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ HƢƠNG THỦY TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI (QUA SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN, PHAN THỊ VÀNG ANH, LÝ LAN) LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC Mã số: 5 04 33 Người hướng dẫn: TS. Tôn Phƣơng Lan Hà nội - 2004 MỤC LỤC TRANG PHẦN MỞ ĐẦU 3 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Lịch sử vấn đề 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 20 4. Phương pháp nghiên cứu 20 5. Đóng góp của luận văn 21 6. Cấu trúc của luận văn 21 PHẦN NỘI DUNG 22 CHƯƠNG I TRUYỆN NGẮN NHỮNG NĂM SAU CHIẾN TRANH VÀ TRUYỆN NGẮN 22 NỮ THỜI KÌ ĐỔI MỚI 1.1. Truyện ngắn những năm sau chiến tranh 22 1.2. Truyện ngắn nữ trong thời kì đổi mới 28 1.2.1. Truyện ngắn nữ trước thời kì đổi mới 29 1.2.2. Truyện ngắn nữ trong thời kì đổi mới 32 CHƯƠNG II CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN 40 NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN, PHAN THỊ VÀNG ANH, LÝ LAN 2.1. Cảm hứng nghệ thuật 40 2.1.1. Cảm hứng ngợi ca 41 2.1.2. Cảm hứng bi kịch 45 2.1.2.1. Bi kịch do lịch sử 45 2.1.2.2. Bi kịch tình yêu 50 2.1.2.3. Bi kịch hôn nhân và gia đình 54 2.1.3. Cảm hứng chiêm nghiệm, triết lí 61 2.1.3.1. Triết lí về tình yêu 61 2.1.3.2. Triết lí về nhân sinh 63 1 2.1.3.3. Triết lí về giới nữ 66 2.2. Thế giới nhân vật 68 2.2.1. Nhân vật tính cách 69 2.2.2. Nhân vật cô đơn 73 CHƯƠNG III NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN, PHAN 78 THỊ VÀNG ANH, LÝ LAN 3.1. Cốt truyện 78 3.1.1. Cốt truyện truyền thống 79 3.1.2. Cốt truyện tâm lí 82 3.2. Tình huống 87 3.2.1. Tình huống tâm lí 88 3.2.2. Tình huống tự nhận thức 90 3.2.3. Tình huống mang tính kịch 92 3.3. Ngôn từ nghệ thuật 94 3.3.1. Ngôn ngữ hiện thực đời thường 94 3.3.3. Ngôn ngữ mang sắc thái nữ 96 3.4. Giọng điệu trần thuật 100 3.4.1. Giọng giãi bày, tâm sự 100 3.4.2. Giọng khinh bạc, xót xa 102 3.4.3. Giọng hài hước, châm biếm 106 3.4.4. Giọng trữ tình, đằm thắm và quyết liệt 108 PHẦN KẾT LUẬN 111 DANH MỤC TÁC PHẨM TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ, PHAN 114 THỊ VÀNG ANH, Y BAN, LÝ LAN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115 PHỤ LỤC: QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN NỮ VỀ NGHỀ VĂN 124 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Cuộc sống với tư cách là đối tượng thẩm mĩ bản thân nó luôn nằm trong thế vận động, biến đổi không ngừng. Điều đó đòi hỏi văn học phải có hình thức linh hoạt để theo sát bước ngoặt của sự chuyển đổi. Thế kỉ XX, cùng với quá trình hiện đại hóa văn học, truyện ngắn đã có những biến chuyển rõ rệt theo từng thời kì trở thành một bộ phận quan trọng làm nên diện mạo của văn học dân tộc. Sau 1975, đặc biệt là từ thời kì đổi mới, cùng với những cách tân về nội dung và hình thức, sự xuất hiện đông đảo các cây bút nữ đã tạo nên những dấu ấn trong đời sống văn học đương đại. Tìm hiểu truyện ngắn nữ thời kì đổi mới trước hết là tiếp cận với sự vận động của thể loại trong tiến trình vận động của lịch sử, cũng là một cách tiếp cận với đời sống văn học hôm nay. 1.2. Thời kì này có sự hình thành của một đội ngũ viết mới vừa trẻ về tuổi đời lẫn tuổi nghề và đã có được thành tựu. Cùng với các tác giả trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, sự có mặt của những cây bút truyện ngắn này khiến cho văn học có được sắc thái mới khi phản ánh cuộc sống đương đại với những biến chuyển sâu sắc. Từ những năm cuối của thập kỉ 80 và trong suốt cả thập kỉ 90, trên văn đàn đã xuất hiện đông đảo các cây bút nữ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người coi đây là thời kỳ “thăng hoa” của truyện ngắn nữ và đã nhiều lần nhắc đến khái niệm “âm thịnh”. Sự có mặt đông đảo các cây bút nữ trong đời sống văn học có thể coi là một hiện tượng đáng mừng, đáng được khích lệ. 1.3. Trong số những nhà văn nữ chuyên viết truyện ngắn thì Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan theo ý chúng tôi là những cây bút tiêu biểu gây được sự chú ý của người đọc. Độc giả ghi nhận những thành tựu bước đầu của họ. Sự liên tục trong việc cho ra đời các tác phẩm và đoạt giải thưởng cao trong các cuộc thi truyện ngắn đã chứng tỏ khả năng và 3 vị trí của họ. Các tác giả này có nhiều tập truyện ngắn xuất bản, có dấu ấn phong cách riêng. Ngoài các tập truyện ngắn in riêng, tác phẩm của họ đã được đăng tải trên các báo và tạp chí chứng tỏ sự hiện diện thường xuyên và tương đối liên tục trong đời sống văn học trong vòng hơn một thập niên trở lại đây. Sự phác vẽ “bộ tứ” này sẽ là chưa thật đầy đủ để dựng lại diện mạo của truyện ngắn nữ bởi họ chỉ là bốn trong số rất nhiều những cây bút nữ đang được chú ý. Bên cạnh những cây bút “đàn chị” như Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Phạm Sông Hồng, Phạm Thị Minh Thư... là sự xuất hiện ấn tượng của nhiều nữ cây bút truyện ngắn trẻ như Trần Thanh Hà, Nguyễn Thị Châu Giang, Phong Điệp, Dương Nữ Khánh Thương và gần đây nhất là Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy. Tuy nhiên trong phạm vi một luận văn thạc sỹ, chúng tôi lựa chọn bốn cây bút nữ trên đây vì cả bốn cây bút này không có sự chênh lệch quá xa về độ tuổi nên đã bộc lộ những nét tương đồng ở cách tiếp cận những vấn đề của đời sống. Hơn nữa, bốn tác giả vừa có sự gặp gỡ, có những mối quan tâm chung trong cách nhìn nhận hiện thực, lại có những đặc điểm mang tính cá biệt mà đặt trong đời sống văn học, mỗi người đã tự tìm cho mình một lối đi riêng, một cách thể hiện dấu ấn sáng tạo. Qua việc khảo sát truyện ngắn của bốn tác giả trên chúng tôi muốn đi tìm những đặc điểm chung của truyện ngắn nữ, đồng thời có thể khám phá những dấu ấn cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật của họ, từ đó có một cách hình dung về truyện ngắn những năm cuối thế kỷ XX. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRUYỆN NGẮN SAU 1975 Với hướng nghiên cứu là truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì đổi mới, chúng tôi xin bắt đầu bằng việc khảo sát tình hình nghiên cứu truyện ngắn sau 1975, đặc biệt là từ thời kì đổi mới, khi đời sống văn học có những chuyển động sâu sắc. 4 Từ sau bước ngoặt lịch sử 1975, đời sống văn học đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Cùng với các thể loại khác, truyện ngắn đã có sự chuyển động và góp phần làm nên diện mạo mới cho văn xuôi giai đoạn này. Khảo sát truyện ngắn thời kì đổi mới, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận với xu hướng đổi mới cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Nhiều cuộc tranh luận xung quanh các vấn đề của truyện ngắn, các tác phẩm cụ thể đã diễn ra tạo nên một đời sống văn học sôi động. Nhiều công trình nghiên cứu về sự vận động của truyện ngắn sau 1975 đã giúp cho người đọc thấy được những bước đi của thể loại trong tiến trình văn học dân tộc. Ngoài các công trình chuyên biệt về thể loại truyện ngắn như luận án tiến sĩ của Lê Thị Hường với đề tài Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1995 (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 1995); Bình luận truyện ngắn của Bùi Việt Thắng (Nxb Văn học,1999) đã có rất nhiều bài viết đề cập đến nhiều vấn đề của truyện ngắn in trên các báo và tạp chí chuyên ngành. Các bài viết này ở nhiều góc độ khác nhau đã đề cập đến thành tựu của truyện ngắn, những đóng góp và thách thức của thể loại trong đời sống văn học đương đại. Quan tâm tới sự vận động của các thể loại văn xuôi thời kì này, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu sự vận động của truyện ngắn trong dòng chảy của văn học những thập niên cuối thế kỷ XX. Đa phần các bài viết đều có đồng quan điểm trong việc ghi nhận vị trí quan trọng của truyện ngắn đối với quá trình đổi mới văn học đương đại. Lý Hoài Thu trong bài viết Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới đã khẳng định đây là thời kì lên ngôi của truyện ngắn. Cắt nghĩa về điều này, bà cho rằng: “Trong nhịp độ của đời sống công nghiệp hiện đại, dưới sức ép của các phương tiện nghe nhìn, truyện ngắn đã phát huy được ưu thế của mình một cách hiệu quả” [112]. Nhà nghiên cứu Bích Thu khảo sát những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 từ các phương diện cốt truyện, kết cấu, quan niệm nghệ thuật về con người, 5 ngôn ngữ trần thuật đã đưa ra một cái nhìn tương đối toàn diện về thể loại này. ([108] - Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975). Bên cạnh các bài viết, các công trình mang tính tổng quan (chẳng hạn như luận án tiến sỹ của Nguyễn Thị Bình với đề tài Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 [7], luận án tiến sỹ của Lê Thị Hường Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1995 [36]; Mấy nhận xét về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Bùi Việt Thắng [102]) là sự khảo sát quá trình phát triển của thể loại ở từng giai đoạn, từng thời kì và thậm chí là trong từng năm. Nhìn lại văn xuôi 1992, nhà nghiên cứu Mai Hương nhận thấy: “Năm 1992, truyện ngắn vẫn đang là thể loại văn xuôi thu hút được sự quan tâm của cả người viết và công chúng” [35]. Trong khi khảo sát văn xuôi 1998, Bích Thu cho rằng năm 1998 vẫn là “năm được mùa của truyện ngắn” [110]. Theo sát sự vận động của truyện ngắn đương đại, Bùi Việt Thắng đã nhận diện bước đi của thể loại trong thời gian 5 năm (1995 - 1999) qua bài viết Một bước đi của truyện ngắn [103]. Ở bài viết này, ông nhấn mạnh đến sự phong phú về tác phẩm và tác giả trong sự kế tục của các thế hệ cũng như phát hiện những khuynh hướng tìm tòi thể hiện trong sáng tác truyện ngắn. Ông đặc biệt nhấn mạnh đến các khuynh hướng phong cách cổ điển, phong cách trữ tình, phong cách hiện thực, phong cách ảo. Có thể coi “mảnh đất ươm mầm” các tài năng sáng tạo truyện ngắn là các cuộc thi truyện ngắn liên tục được tổ chức trên các báo và tạp chí trong nhiều năm liền. Bên cạnh việc tham dự của các nhà văn là sự quan tâm của các nhà phê bình. Ngay sau khi các tác phẩm được đăng tải, nhiều nhà phê bình đã có ý kiến phản hồi tạo nên những hiệu ứng tích cực cho đời sống văn học. Nhiều bài viết xung quanh vấn đề này đã được đăng tải kịp thời khích lệ tinh thần sáng tạo của các cây bút: Tản mạn bên lề cuộc thi (Phạm Xuân Nguyên. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1993); Những truyện ngắn hay (Lý Hoài Thu. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 12/1993); Một cuộc thi về người lính, vì người lính và vì một nền văn học đổi mới, lành mạnh. Báo cáo tổng kết cuộc 6 thi truyện ngắn 1992 - 1994 (Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1994); Truyện ngắn dự thi 1989 - 1990 - những nhận xét sơ lược đầu tiên (Lê Thành Nghị. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1989)... Có thể nói, sự xuất hiện của các cây bút trẻ trong hơn một thập niên gần đây là một tín hiệu đáng mừng, chứng tỏ sự quan tâm và nhập cuộc vào nhiều vấn đề của đời sống của người viết trẻ - lớp nhà văn trưởng thành sau chiến tranh. Khi tìm hiểu sáng tác của lớp nhà văn trẻ này, các nhà nghiên cứu một mặt khẳng định những đóng góp của họ, mặt khác còn đề cập đến những thách thức trong sáng tạo nghệ thuật ở họ. Nhà văn Bùi Hiển - một nhà văn dày dạn kinh nghiệm sáng tác truyện ngắn đã khẳng định những đóng góp đáng kể của các cây bút trẻ cho sự đổi mới văn xuôi, khẳng định những lợi thế của các nhà văn trẻ bởi những điều kiện thuận lợi của hoàn cảnh xã hội nhưng đồng thời ông cũng chỉ ra những khuynh hướng cách tân chưa thực sự mang lại giá trị nghệ thuật ở các cây bút trẻ này [27]. Tuyết Ngân trong bài viết Thập kỷ 90 và sự bùng nổ của văn học trẻ [74] đã khẳng định và lý giải về sự bùng nổ của những giọng điệu mới mẻ trong dòng văn học trẻ ở thập niên 90. Chị đặc biệt lưu ý đến các cây bút trẻ đang được độc giả chú ý như Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Dương Phương Vinh, Phan Triều Hải, Nguyễn Bình Phương, Trần Thanh Hà; đề cao sự hăm hở và quyết liệt trong việc trong việc mổ xẻ những vấn đề của đời sống nhưng cũng không quên cảnh báo các nhà văn trẻ này về việc khai thác quá liều một số đề tài nhất định hay là sự bắt chước quá lộ liễu tác phẩm nước ngoài trong nội dung, ý tưởng, thậm chí cả câu chữ. Sự có mặt của thể loại truyện cực ngắn (hay còn gọi là truyện ngắn mi ni - một biến thể của thể loại truyện ngắn) cũng không nằm ngoài sự quan tâm, nghiên cứu của giới phê bình văn học. Tìm hiểu về truyện ngắn sau 1975, các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý đến sự hiện diện của thể loại truyện cực ngắn trong đời sống văn học và coi đó như một nhu cầu tất yếu xuất phát từ cả chủ thể sáng tạo lẫn đối tượng tiếp nhận. Trong nhiều bài viết, các tác giả đã dành 7 sự quan tâm đặc biệt cho thể loại này (Truyện cực ngắn. Đặng Anh Đào [11], Truyện rất ngắn - tác phẩm nghệ thuật. Nguyên Ngọc [53]...). Trong hai bài viết về các thể loại văn học đương đại Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại [3], Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kì đổi mới [112], các tác giả Vũ Tuấn Anh và Lý Hoài Thu đều khẳng định sức hấp dẫn của thể loại này bởi sự hàm súc, cô đọng của ý tưởng, tính biểu tượng, sự vận dụng các thủ pháp xung đột. Truyện ngắn sau 1975, không chỉ là thể loại thu hút sức sáng tạo của giới sáng tác mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình chuyên và không chuyên. Còn nhiều vấn đề còn có thể tiếp tục tranh luận, có những ý kiến chưa thống nhất nhưng nhìn chung các tác giả đã có cùng quan điểm trong việc khẳng định những thành tựu của truyện ngắn trong quá trình đổi mới văn học, cùng có một niềm tin vào sự phát triển của thể loại trong thế kỷ mới. Những kết quả nghiên cứu trên đây về thể loại truyện ngắn ở một thời kì văn học còn khá mới mẻ và chưa ổn định là một trong những tiền đề để chúng tôi tiếp cận với đề tài nghiên cứu của mình trên phương diện thể loại. 2.2. TRUYỆN NGẮN NỮ THỜI KÌ ĐỔI MỚI QUA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU 2.2.1 CÁC BÀI VIẾT VỀ ĐỘI NGŨ CÁC CÂY BÚT NỮ Trong tiến trình vận động của truyện ngắn dân tộc thế kỷ XX, cùng với thời gian, các cây bút nữ đã dần chứng tỏ khả năng và vị trí của họ trên văn đàn. Từ sau cách mạng tháng Tám, nhất là từ những năm 60, các thế hệ nhà văn từ Nguyệt Tú, Nguyễn Thị Cẩm Thạnh, Vũ Thị Thường, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Lê Minh Khuê đến Dạ Ngân, Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan... bằng vào các sáng tác của mình đã tạo nên dấu ấn đậm nét trong đời sống văn học. Là một bộ phận cấu thành diện mạo của văn học thời kì đổi mới nói chung và văn 8 xuôi nói riêng, truyện ngắn của các cây bút nữ đã tạo được dư luận trong đời sống văn học. Những thập kỷ gần đây, cùng với sự xuất hiện ngày càng đông đảo của các cây bút nữ, trên lĩnh vực lý luận, yêu cầu nghiên cứu về đặc điểm sáng tác của các nhà văn nữ đã được đặt ra. Trong bài viết Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sỹ [51], Phương Lựu đã chỉ ra những đặc điểm tính nữ trong văn học. Trên cơ sở kế thừa thành tựu nghiên cứu của tâm lí học nữ giới, tâm lí học sáng tạo nghệ thuật, giải phẩu học, ông khẳng định đặc điểm giới tính trong văn học là có thật. Với bài viết mang tính lí luận này, ông đã có những kiến giải sâu sắc về đặc điểm của nữ văn sỹ. Ông cho rằng, bên cạnh những lợi thế trong sáng tạo nghệ thuật như giàu tình cảm, óc tưởng tượng phong phú, óc quan sát tinh tế phụ nữ còn có những hạn chế như diện sống không thật rộng, có lợi thế về tình cảm, song chưa tìm được sự cân đối hài hoà với trí tuệ, thiếu năng lực tư duy tổng thể dẫn đến phạm vi phản ánh trong sáng tác của các nhà văn nữ thường mang tính tự truyện. Tạp chí Văn học số 6/1996 đăng tải tường thuật buổi toạ đàm Phụ nữ và sáng tác văn chương trong đó tập trung ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình lẫn sáng tác như Văn Tâm, Đặng Anh Đào, Lê Minh Khuê, Ngô Thế Oanh, Lại Nguyên Ân, Đặng Minh Châu, Phạm Xuân Nguyên, Vương Trí Nhàn. Trong số những ý kiến được nêu ra, ý kiến của Vương Trí Nhàn đã tìm được sự đồng thuận của nhiều người. Lí giải về sự xuất hiện của đông đảo các cây bút nữ sau 1975, sự gắn bó của họ đối với thể loại văn xuôi của một số cây bút nữ trong đó có Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ ông cho rằng: “phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần gũi với cái lỉnh kỉnh dở dang của đời sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có - tốt, dịu dàng, rộng lượng thì không ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng - từng cây bút nữ đã tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm”. 9 Sự góp mặt của những cây bút văn xuôi nữ những năm gần đây đã tạo nên những âm sắc mới cho đời sống văn học và điều này đã được ghi nhận: “Trong những trang viết của các tác giả nữ đương đại ta luôn tìm thấy những vang hưởng mạnh mẽ hiện thực thời đại chúng ta đang sống... Và cũng trên những trang viết của họ, ta tiếp nhận được một nữ tính phức tạp hơn nhưng đồng thời cũng phong phú hơn những gì ta vẫn quan niệm trong quá khứ” [121, tr8]. Để có cái nhìn toàn diện về sáng tác của các nhà văn nữ, đã có nhiều bài viết đăng tải ý kiến của chính các nhà văn nữ (Lan man với Nguyễn Thị Thu Huệ [80], Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữ [91], Gặp gỡ các nhà văn trẻ [58]...). Ở bài viết Chúng tôi phỏng vấn 4 cây bút nữ [91], các cây bút nữ Võ Thị Hảo, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Hồ Thị Hải Âu đã bộc lộ những suy nghĩ của mình về những khó khăn và thuận lợi đối với người phụ nữ khi họ tham gia sáng tác văn học. Những thông tin từ các bài phỏng vấn đã giúp cho độc giả và người nghiên cứu có sự hình dung đầy đủ hơn về cuộc đời và sáng tác của các nhà văn nữ. Nhà văn Nguyễn Thị Như Trang đã có sự khái quát về Thành tựu và đội ngũ các nhà văn nữ Việt Nam qua bài viết đăng trên báo Văn nghệ số ra ngày 18/8/1990. Bà đặc biệt nhấn mạnh đến đóng góp của các nhà văn nữ trong chiến tranh chống Mỹ đối với nền văn học nước nhà. Công trình Các nhà văn nữ [54] của nhóm tác giả Lê Thị Đức Hạnh, Vân Thanh, Phan Diễm Phương đã khái quát, giới nhiều nhiều gương mặt văn xuôi nữ trong đó tập trung vào lớp nhà văn chống Mỹ như Thanh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Dương Thị Xuân Quý, Bích Thuận, Lê Minh. Các nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu quá trình sáng tác của từng nhà văn để thấy được những đóng góp của họ cho nền văn học nước nhà. Nhà nghiên cứu Bích Thu trong Văn xuôi của phái đẹp [109] đã khẳng định sự tiếp nối về đội ngũ của các nhà văn nữ, cũng như sự vận động đổi mới 10 của các nhà văn từ cách nhìn về hiện thực và con người, những ưu thế riêng của giới tính trong sáng tạo nghệ thuật, trong cách lựa chọn đề tài và xử lí tình huống. Nguyễn Thị Thành Thắng đã có những phác thảo về diện mạo truyện ngắn đương đại với sự góp mặt của các cây bút nữ (Phác thảo vài nét về diện mạo truyện ngắn đương đại và sự góp mặt của một số cây bút nữ [101]). Trong bài viết này, chị tập trung vào vấn đề sự lên ngôi của một số cây bút nữ và hướng tiếp cận đời sống trong truyện ngắn của họ. Hoàng Thị Hồng Hà tìm hiểu xu hướng “tự nghiệm” trong truyện ngắn nữ. Chị chú ý đến mảng hiện thực của những “cái tôi đàn bà” phong phú mà phức tạp và sâu sắc đầy tính nữ, từ đó khám phá các cách biểu hiện của nhân vật xưng tôi trong tác phẩm (Truyện ngắn nữ và xu hướng tự nghiệm [18]). Bùi Việt Thắng là người dõi theo sát sao sự phát triển của thể loại truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn các cây bút nữ trẻ. Trong loạt bài viết tản mạn về truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ (Khi người ta trẻ I, Khi người ta trẻ II), ông đã chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong sáng tác của các nhà văn nữ. Theo ông: “làm nên đặc trưng riêng của những cây bút nữ trẻ là cái nhu cầu đến như là mê say được tham dự, được hòa nhập vào những nỗi niềm đau khổ và hy vọng của con người” [102, tr190]. Từ những quan sát truyện ngắn trên Văn nghệ trẻ trong nhiều năm liền, Bùi Việt Thắngcho rằng: “Đã hình thành một tỷ lệ giữa phái yếu và phái mày râu là 2/3 - một tỷ lệ đáng gờm bởi nhìn vào đó sẽ thấy truyện ngắn trẻ hôm nay (và văn chương nói chung) mang gương mặt nữ” [102, tr206]. Là người quan tâm tới sự đổi mới của văn học, nhìn nhận văn chương của các nhà văn nữ như một hiện tượng xã hội, Huỳnh Như Phương trong bài viết Văn chương nữ giới - một cách thế hiện ở đời khẳng định: “Qua văn chương, người phụ nữ không muốn để cho nam giới độc quyền kết luận về ý 11 nghĩa cuộc đời này, độc quyền đau khổ trước những bi kịch và độc quyền tìm cách ứng phó với những tình huống bi kịch đó” [89, tr136]. Với kinh nghiệm cá nhân của một người viết nữ, khảo sát Tuyển tập 35 truyện ngắn nữ chọn lọc, trên cơ sở phân tích các hình thức biểu hiện của nhân vật nữ trong các sáng tác của Trầm Hương, Ngô Thị Kim Cúc, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Ngọc Liên, Lý Lan nhận định: “Đặc điểm trong những truyện ngắn của các nữ tác giả trẻ là hiện thực xã hội đang thay đổi nhanh chóng quyết liệt và ảnh hưởng đến từng cuộc đời, ít nhiều làm vỡ những giấc mộng lớn, mộng con với thái độ chung là chấp nhận như một chuyển động tất yếu của thời đại” [43, tr103]. Bên cạnh những bài viết trên các báo và tạp chí, truyện ngắn nữ thời kì đổi mới cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều luận văn tốt nghiệp đại học, luận văn thạc sỹ như Nhân vật nữ trong truyện ngắn ba tác giả nữ Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo; Những đóng góp của những cây bút nữ trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới; Hạnh phúc đời tư trong truyện ngắn của một số cây bút trẻ nữ. Nhìn chung các luận văn này đã đánh giá được đóng góp của các cây bút nữ trong thời kì đổi mới. Có thể nhận thấy là qua các bài viết và công trình nghiên cứu, từ những góc độ khác nhau, các tác giả đã có sự nhìn nhận trên nhiều bình diện của truyện ngắn các cây bút nữ, đề cập đến những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của họ. Các bài viết đã khẳng định sự tiếp nối về đội ngũ cũng như những đặc điểm của giới tính bộc lộ qua cách nhìn hiện thực và con người. Tuy nhiên, trong phạm vi một bài viết hoặc công trình đó, các tác giả mới dừng lại ở những nhận định ban đầu, chưa có điều kiện khảo sát một số lượng tác phẩm phong phú hơn hoặc đi chuyên sâu vào các tác giả tiêu biểu để từ đó có những kiến giải cụ thể. Cũng cần phải nói thêm rằng, cũng có ý kiến trái chiều khi bàn về sáng tác văn học của các nhà văn nữ (như ý kiến của Nguyễn Thanh Sơn trong Phê bình văn học của tôi [93]). Nếu như các cây bút nữ thời kì đổi 12 mới vẫn đang trong quá trình vận động thì tác phẩm của họ vẫn còn có những “vùng đất mới” thậm chí ngay ở vùng đất đã được thâm canh vẫn cần được tiếp tục có những kiến giải từ phía người đọc. 2.2.2. CÁC BÀI VIẾT VỀ TÁC GIẢ PHAN THỊ VÀNG ANH, NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN, LÝ LAN Nằm trong diện khảo sát các vấn đề về truyện ngắn sau 1975 và các tác giả nữ, truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, Y Ban - bốn cây bút nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, cũng được các nhà phê bình, nghiên cứu quan tâm. 2.2.2.1. VỀ Y BAN Nhận định về sáng tác của Y Ban, trong bài viết Một giọng nữ trầm trong văn chương Bùi Việt Thắng cho rằng: “Trong nhiều gương mặt nữ viết văn gần đây, người đọc vẫn dành cho Y Ban nhiều cảm tình đặc biệt” [102]. Cũng ở bài viết này, ông đặc biệt nhấn mạnh đến lối viết của chị: “Y Ban có một lối viết của riêng mình, chị chú ý khai thác thể hiện những tâm trạng điển hình của nhân vật trong những trạng huống tiêu biểu”. Trong bài viết gần đây trên báo Văn nghệ số ra ngày 5/7/2003 Y Ban và những thân phận đàn bà, Xuân Cang đã phân tích và lí giải những đặc điểm trong sáng tác của Y Ban trong khi xây dựng nhân vật nữ. Ông xem Y Ban là người phụ nữ viết văn đầy nhạy cảm, chị cảm nhận được những biến thái tinh vi trong tâm hồn con người. Báo cáo kết quả cuộc thi viết tiểu thuyết và truyện ngắn về đề tài Hà Nội, nhà văn Hoàng Ngọc Hà đánh giá cao tác phẩm của chị: “Y Ban (giải B) lại có một lối kể chuyện thật thản nhiên, không bình phẩm mà dẫn người đọc vào những suy tư và tự xem lại cách sống của mình” [19]. 13 Tại cuộc hội thảo Truyện ngắn hay 1998 do Trường Đại học Hồng Đức tổ chức, truyện ngắn Sau chớp là dông bão của Y Ban đã thu hút được nhiều ý kiến đánh giá từ phía người đọc. Từ một truyện ngắn, Vũ Thị Oanh (giảng viên đại học Hồng Đức) đã có cái nhìn rộng hơn về sáng tác của Y Ban: “Theo tôi sáng tác Y Ban không đặt ra những vấn đề to tát, cũng không đại ngôn, mà thường chỉ là những điều mắt nhìn và trái tim suy nghĩ nhưng thường để lại những ám ảnh có lúc xa xót như những nhát cứa, có lúc hồi hộp, dịu ngọt. Đã gặp một lần - những người có trái tim nhạy cảm không dễ mấy ai quên” [67]. Qua các bài viết về Y Ban, có thể nhận thấy, các tác giả mới dừng lại ở việc khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu, ở đặc điểm nhân vật nữ, những đặc trưng của giọng điệu mà chưa khảo sát một cách toàn diện tác phẩm của chị. * Y Ban đến với văn chương không phải là chủ định ngay từ ban đầu bởi trước khi là nhà văn, là phóng viên, chị đã tốt nghiệp Y khoa và đã từng gắn bó với nghề y ở cương vị giảng dạy. Chị bắt đầu viết văn từ năm còn học lớp 8 với những mẩu chuyện nhỏ. Chị trở thành một cây bút được bạn đọc chú ý khi Bức thư gửi mẹ Â u cơ được gửi dự thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ quân đội (1989 - 1990) và đoạt giải thưởng. Ba năm sau, năm 1993, chị lại tiếp tục gặt hái thành công. Tập truyện Người đàn bà có ma lực của chị đã đoạt giải B cuộc thi viết về Hà Nội của Nhà xuất bản Hà Nội. Cho đến nay, chị vẫn là cây bút sung sức ở thể loại truyện ngắn và là một gương mặt tiêu biểu cho truyện ngắn nữ thời kì đổi mới. Chị liên tục cho ra nhiều tập truyện: Người đàn bà có ma lực, Đàn bà sinh ra trong bóng đêm, Cẩm cù, Miếu hoang, Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ và gần đây nhất là tập truyện Cưới chợ và những truyện ngắn mới. 2.2.2.2. VỀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ Nhìn nhận Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ “độc đáo và tài hoa”, Hồ Sỹ Vịnh đã tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên bình diện thi pháp: 14 Truyện ngắn Thu Huệ được viết theo thi pháp mở thể hiện qua việc xây dựng nhân vật, qua cách xây dựng cốt truyện. Thu Huệ độc đáo ở ngôn ngữ miêu tả đời sống, ở việc miêu tả những tình huống trào lộng, ở lối viết cô đặc. Từ những phát hiện đó, ông cho rằng Thu Huệ đang chuẩn bị cho mình một phong cách: “Nếu phong cách nghệ thuật là một đại lượng thẩm mỹ, thể hiện sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, các yếu tố độc đáo lặp đi lặp lại, nói lên cách nhìn, cách cảm trong sáng tạo của một nhà văn, của một tác phẩm cụ thể..., thì ở Thu Huệ, người đọc tìm thấy những dấu hiệu đó” (Thi pháp truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ [126]). Bên cạnh đó, ông còn chỉ ra những mặt chưa được ở cây bút này như một số tác phẩm còn thiếu tính khái quát, còn sa vào lối miêu tả kể lể. Chùm truyện ngắn dự thi Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1994 của Nguyễn Thị Thu Huệ đã được đánh giá cao với những nhận xét: “Truyện nào của chị cũng hấp dẫn. Chị viết về sự kiếm tìm hạnh phúc của con người trong đời sống thực tại, lý giải, cắt nghĩa sự tha hóa của đạo đức. Văn phong của chị tinh tế, gần gũi” (Một cuộc thi về người lính, vì người lính và vì một nền văn học đổi mới, lành mạnh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1994). Bùi Việt Thắng khảo sát 5 truyện ngắn dự thi ở nhiều khía cạnh khác nhau từ bình diện phản ánh, đặc điểm của nhân vật nữ, giọng điệu đến nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Về giọng điệu của cây bút nữ này, ông cho rằng có một cái gì đó không thuần nhất, không đơn giản, thậm chí có khi đối chọi nhau trong văn Thu Huệ. Ông viết: “Truyện ngắn Thu Huệ luôn có hai mặt như thế - vừa “bụi bặm trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm”, “vừa táo tợn, vừa thanh khiết”, “văn Thu Huệ có độ căng của nhịp điệu, câu thường ngắn, ít ẩn dụ điển tích, cấu trúc đơn giản, thông tin cao” (Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút nữ trẻ [102]). Khảo sát 5 truyện ngắn dự thi, Dương Quỳnh Trang lại quan tâm 15 tới việc xây dựng hình mẫu người đàn ông trong sáng tác của Thu Huệ. Chị đã có bài viết Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của một cây bút nữ [116]. Gần đây, ngay sau khi tập truyện Nào ta cùng lãng quên được xuất bản, bài viết Lãng quên và hy vọng - nhân đọc Nào ta cùng lãng quên, tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ đã được đăng tải trên Tạp chí Văn hóa - Văn nghệ công an số 12/ 2003. Phê bình tập truyện này, tác giả bài báo đã viết: “Chất lãng mạn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tương đối đặc biệt, nó toát ra từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ - phụ nữ” [31]. Nhìn chung, có thể nhận thấy, tác giả của các bài viết đều khẳng định khả năng nắm bắt hiện thực tinh tế và thuyết phục của Nguyễn Thị Thu Huệ. Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ có sức hấp dẫn riêng với người đọc nhờ lối viết và giọng điệu độc đáo, ấn tượng. * Nguyễn Thị Thu Huệ là một trong số những tác giả gặt hái được thành công khi tuổi còn rất trẻ. Năm 1993, chị nhận giải thưởng của Báo Tiền phong trong cuộc thi Tác phẩm tuổi xanh khi chị ở tuổi 27. Cùng năm đó, chị giành được giải A trong cuộc thi viết về đề tài Hà Nội của Nxb Hà Nội. Năm 1994 là năm thành công của chị với hai giải thưởng lớn: giải nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ quân đội cho chùm tác phẩm gồm 5 truyện ngắn và tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam cho tập truyện Hậu thiên đường. Đến với văn chương khá sớm và cho đến nay, chị đã ra mắt bạn đọc bốn tập truyện ngắn: Cát đợi, Hậu thiên đường, Phù thủy, Nào ta cùng lãng quên. 2.2.2.3 VỀ LÝ LAN Lý Lan lớn lên ở vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn, dạy học, viết văn và dịch thuật là những công việc chị từng làm. Đã từng có thời gian dài gắn bó với nghề dạy học nhưng công chúng lại biết đến chị nhờ văn chương. Với Lý Lan, “viết văn khiến mình quan tâm đến con người và hoàn cảnh sống của họ” [42]. Ngoài sáng tác truyện ngắn chị còn viết truyện cho thiếu nhi, viết kí và tiểu 16 thuyết. Hiện nay chị đã là tác giả của hàng chục đầu sách. Bên cạnh các tập truyện ngắn in riêng như Quá chén, Đất khách, Phượng, Thả diều, Chút lãng mạn trong mưa; truyện ngắn của chị còn được tuyển chọn vào các tập truyện ngắn khác như Cỏ hát (In chung với Trần Thùy Mai, Nxb Tác phẩm mới, 1984; Những ngày cuối năm. Tập truyện ngắn thành phố. Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1984; Truyện ngắn hay tuyển chọn, Nxb Công an nhân dân 1996; Truyện ngắn hay và đoạt giải (1957 - 1997), Nxb Văn học - Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1997; Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb Văn học 2001; Truyện ngắn nữ thập niên 90, Nxb Phụ nữ 2000,... Trong phần viết tổng luận cho cuốn sách Các nhà văn nữ [54] của nhóm tác giả Lê Thị Đức Hạnh, Vân Thanh, Phan Diễm Phương, Lý Lan được nhắc đến như là một cây bút đang được nhiều người chú ý. Trong cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội 1989 - 1990, truyện ngắn Ngựa ô của Lý Lan đã được nhà văn Xuân Thiều đánh giá cao: “đọc truyện này làm ta liên tưởng tới Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu hoặc Vĩnh biệt Gunxarư của Aimatốp. Chẳng hiểu Lý Lan có cảm hứng qua cái đẹp của các nhà văn vừa nhắc tới không, mà tôi cứ nghĩ rằng “cái tạng” của Lý Lan rất dễ bắt gặp sự rung động của các nghệ sĩ từng để lại cho đời những tác phẩm bất hủ”, “khác với một số nhà văn viết về con người và nông dân Nam bộ, Lý Lan đã đem đến cho người đọc ấn tượng về sự dịu hiền, sự ấm áp và cả sự tinh tế của nông thôn Nam bộ” [106]. Đọc tập truyện ngắn và kí Một góc phố tàu của Lý Lan, Vũ Đức Tân cho rằng: “Chị viết truyện ngắn khá tự nhiên, bao giờ cũng mong mình có nhiều công chúng hơn. Lối viết của Lí Lan khá gần với phong cách hiện đại [97]. Là người tuyển chọn trong số các tác phẩm truyện ngắn và kí của Lý Lan vào tập Một góc phố Tàu, Vương Trí Nhàn đã có sự nghiên cứu khá kĩ lưỡng sáng tác của chị trên nhiều bình diện như sự ảnh hưởng của môi trường sống đến quá trình sáng tác của Lý Lan, những phạm vi hiện thực được phản ánh trong sáng tác của chị cũng như một số phương diện về hình thức thể hiện. 17 Trên cơ sở nhận diện các tác giả văn xuôi Nam bộ như Hồ Biểu Chánh, Lý Văn Sâm, Sơn Nam, Trang Thế Hy, ông cho rằng: “có thể Lý Lan không hoàn toàn cố ý, nhưng văn xuôi của chị chính là nằm trong cái mạch đó của văn xuôi Nam bộ. Cây bút nữ này đã tiếp nhận một cách hồn nhiên kinh nghiệm của người đi trước, trong hoàn cảnh của mình, thêm vào đó những sắc thái mới, làm nên một giọng điệu mới”(Mạch sống tự nhiên - một vài cảm nhận về văn xuôi Lý Lan [85]). Ông đặt niềm tin vào cây bút này: “có thể tin là trước mắt chúng ta, một phong cách đã hình thành, một mạch văn đã khơi nguồn và đang chảy xiết” [85]. Quan tâm tới lối viết của Lý Lan, đặc biệt là cách tạo dựng không khí cho truyện kể, Bùi Việt Thắng nhận định: “Lý Lan viết truyện ngắn rất tự do, dường như không câu nệ khuôn phép nào. Đọc Lý Lan tôi nhớ đến nhận xét của nhà văn Đỗ Chu: mỗi truyện ngắn trở thành một mảnh phân thân. Truyện ngắn Lý Lan vừa như một cái gì liên tục mà đứt đoạn, mơ hồ mà rõ ràng - có thể đó là lối viết dựa vào dòng ý thức” [118, tr9]. Khi tìm hiểu sáng tác của Lý Lan, các tác giả thường quan tâm tới giọng điệu, cách kể chuyện và lối viết. Điều này đã được khẳng định là đặc trưng tạo nên dấu ấn của nhà văn nữ này. 2.2.2.4 VỀ PHAN THỊ VÀNG ANH Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn học, bố là nhà thơ Chế Lan Viện, mẹ là nhà văn Vũ Thị Thường, Vàng Anh đã có những lợi thế để phát huy niềm đam mê và khả năng sáng tạo văn học của mình. Phan Thị Vàng Anh được độc giả đặc biệt chú ý kể từ khi chị tham gia cuộc thi truyện rất ngắn trên tạp chí Thế giới mới. Nhận định về cây bút này, Tuyết Ngân đã viết: “Những năm đầu thập kỉ 90, văn đàn “nổi sóng” vì những truyện ngắn “Kịch câm”, “Đất đỏ” cho đến “Hoa muộn” của nhà văn trẻ Phan Thị Vàng Anh. Khi đó chị mới ngoài 20 tuổi. Những truyện ngắn của chị đã khiến các nhà văn lớp 18 trước và độc giả phải bàng hoàng vì giọng điệu cũng như ý tưởng mới lạ của nó” [74]. Tập truyện ngắn Khi người ta trẻ của Phan Thị Vàng Anh được tặng thưởng của Hội nhà văn và khi viết lời giới thiệu cho tập truyện này, Huỳnh Như Phương đánh giá: “sự xuất hiện của Vàng Anh đã đem đến một không khí mới cho đời sống văn học hồi bấy giờ”. Sức hấp dẫn mà truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh có được là nhờ “Vàng Anh biết cách lạ hóa những điều quen thuộc, biết làm cho da diết những điều tưởng chừng nhạt nhẽo” [90, tr6]. Trong bài viết Phan Thị Vàng Anh và Trần Thanh Hà hai phong cách truyện ngắn trẻ, từ chỗ đi sâu vào phân tích truyện ngắn Hoa muộn - tác phẩm đưa Vàng Anh đến với giải thưởng của tạp chí Thế giới mới, Tuyết Ngân lại một lần nữa khẳng định sự xuất hiện có ý nghĩa của Vàng Anh trong đời sống văn học những năm gần đây: “Người ta hồ hởi đón nhận truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh và tác giả cũng đáp lại sự chờ đợi của mọi người bằng cách liên tục xuất bản những tập truyện ngắn” [73]. Cảm nghiệm về sự mỏng manh của một số mối liên hệ con người trong đời sống hiện đại, về những con người nhỏ bé, lẻ loi trước những tình cảm hời hợt, những đứt gãy của cuộc sống ở một số nhân vật trong sáng tác của Vàng Anh, Nguyễn Chí Hoan trong bài viết Bơ vơ trong cái đời thường - Đọc truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh - Nguyễn Trọng Nghĩa cho rằng: Phan Thị Vàng Anh đã “cố gắng bóc đi những lớp vỏ sự kiện đời sống để trực quan các mối liên hệ - giản đơn và vô hình giữa con người” [32]. Ngay sau khi những tác phẩm đầu tay đến với bạn đọc, Phan Thị Vàng Anh đã gây được sự chú ý của người đọc. Vàng Anh trở thành một trong số những cây bút trẻ mà khi nói đến sự đổi mới văn học, sự vận động của thể loại truyện ngắn, các nhà phê bình, nghiên cứu không quên nhắc đến tác phẩm của chị. Những năm gần đây, chị ít xuất hiện hơn trên văn đàn. Chắc rằng, đây sẽ là quãng lặng để chị lại có thể bước những bước đi vững chắc trong văn 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan