ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
CHOI YOUNG LAN
TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
QUA TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ
Luâ ̣n văn Tha ̣c si ̃ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức
Hà Nội – 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
5
1. Lý do chọn đề tài
5
2. Lịch sử nghiên cƣ́u vấn đề
6
2.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945
6
2.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến năm 1986
8
2.3. Giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay
9
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cƣ́u
11
4. Đóng góp mới của luâ ̣n văn
12
5. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u
12
6. Cấ u trúc của luâ ̣n v ăn
12
Chương 1: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT
14
TRÀO PHÚNG NÓI CHUNG VÀ TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ CỦA
VŨ TRỌNG PHỤNG
1.1. Khái lƣợc về trào phúng
14
1.2. Nghệ thuật trào phúng trong văn học hiện thực phê phán
15
1.3. Tiểu thuyết trào phúng Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
22
Chương 2: NHÂN VẬT TRÀO PHÚ NG TRONG TIỂ U THUYẾT SỐ ĐỎ
28
2.1. Khái niệm nhân vật trào phúng
28
2.2. Nhân vật trào phúng trong tiểu thuyết Số đỏ
29
2.2.1. Nhân vật trung tâm – Xuân Tóc Đỏ
30
2.2.2. Các chân dung nhân vật khác
36
2.2.3. Nhân vật đám đông
46
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRÀO PHÚ NG
50
3.1. Khái niệm tình huống trào phúng
50
3.2. Nghệ thuật xây dựng tình huố ng trào phúng trong
52
tiểu thuyết Số đỏ
3.2.1. Tình huống ngẫu nhiên
52
3.2.2. Tình huống mang tính chất vô nghĩa lý của nhân vật
56
3.2.3. Tình huống hiểu nhầm
61
Chương 4: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRÀO PHÚ NG TRONG
64
TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ
4.1. Ngôn ngữ
65
4.1.1. Từ ngữ quen thuộc của nhân vật
65
4.1.2. Ngôn ngữ mang tính hài hước
68
4.1.3. Ngôn ngữ đối thoại
70
4.1.4. Ngôn ngữ trần thuật
74
4.2. Giọng điệu trần thuật
75
4.2.1. Giọng điệu châm biếm - đả kích
76
4.2.2. Giọng điệu hài hước, hóm hỉnh
78
4.2.3. Giọng điệu giễu nhại
80
KẾT LUẬN
84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
87
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là một trong những nhà văn xuất sắc của thế
kỷ XX, đặc biệt là trong giai đoạn 1930 – 1945. Những tác phẩm của Vũ Trọng
Phụng được sáng tác theo phương pháp hiện thực phê phán đã vẽ nên bức tranh
tương đối toàn diện về hiện thực xã hội Việt Nam thời thực dân nửa phong kiến.
Nhân vật của nhà văn sắc nét và rất đa dạng với đủ các tầng lớp người Việt Nam từ
nông dân, địa chủ, quan lại, công chức đến những kẻ vô giáo dục, lưu manh… Tiểu
thuyết Số đỏ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn và đó cũng là tác
phẩm tiêu biểu nhất cho nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.
Vũ Trọng Phụng không phải là nhà văn đầu tiên sử dụng nghệ thuật trào
phúng trong các sáng tác của mình. Trong lịch sử văn học Việt Nam có rất nhiều
tác phẩm trào phúng hoặc có yếu tố trào phúng như truyện tiếu lâm, truyện Trạng
Quỳnh, truyện Trạng Lợn, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khuyến, thơ Tú
Xương, thơ Tú Mỡ, thơ Đồ Phồn, truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan v.v... Một
trong những nguyên nhân khiến văn học trào phúng rất phát triển ở Việt Nam có
thể là nhân dân Việt Nam hay cười, thích cười, biết cười, và giỏi nghệ thuật gây
cười. Họ là một dân tộc lạc quan, luôn có ý thức sử dụng tiếng cười để tống tiễn
thói hư tật xấu, để vượt qua những nỗi khổ nhục “cười ra nước mắt”. Nhưng đồng
thời tiếng cười cũng mang tính nhân loại nữa. Nước nào cũng có truyện cười,
truyện cười có mặt cả trong văn học bình dân và văn chương bác học. Cả thế giới
không nín được cười khi đọc Đônkihôtê, chàng hiệp sĩ xứ Mantra của Xécvantéc
hay khi xem các vở hài kịch của Sêchxpia, của Môlie… Như vậy, nghệ thuật trào
phúng vốn nảy sinh từ trong dân gian, nó “xưa như trái đất” vậy. Nhưng sắc thái
tiếng cười lại muôn hình muôn vẻ. Vũ Trọng Phụng là một nhà văn tạo được sắc
thái tiếng cười riêng, độc đáo cho mình. Số đỏ của ông là một tiếng cười như thế.
Vũ Trọng Phụng đã sáng tác Số đỏ với một bút pháp trào phúng, mỉa mai, châm
biếm có tần suất dày đặc làm nên sức mạnh của một khối bộc phá tung hê cái xã
hội thực dân nửa phong kiến ô trọc, rởm đời thời bấy giờ.
4
Ở Hàn Quốc cũng có nhiều tiểu thuyết trào phúng như Số đỏ xuất hiện vào
thời kỳ thuộc Nhật. Từ những sự gặp gỡ mang tính thế giới đó, chúng tôi có thể
khẳng định nghệ thuật trào phúng là một yếu tố tất yếu để bộc lộ mâu thuẫn và
nghịch lý trong xã hội.
Trong luận văn này, tuy người viết không so sánh tiểu thuyết Số đỏ và
những tiểu thuyết trào phúng của Hàn Quốc nhưng sẽ tiếp cận vấn đề nghệ thuật
trào phúng bằng góc nhìn của một học viên nước ngoài, làm rõ nét đặc trưng nghệ
thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng, từ đó qua lăng kính tiểu thuyết Số đỏ sẽ soi
chiếu xã hội thực dân nửa phong kiến thời bấy giờ.
Chúng tôi nhận thấy nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng rất độc đáo
và đặc sắc; chính vì muốn nhấn mạnh nghệ thuật trào phúng là một yếu tố đặc biệt
quan trọng làm nên Số đỏ, chúng tôi đã đặt cho luận văn này cái tên: Tìm hiểu
nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua tiểu thuyết Số đỏ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước Cách mạng tháng Tám đến nay, vấn đề Vũ Trọng Phụng là một
trong những vấn đề gây nhiều bàn cãi trong giới nghiên cứu văn học. Đến nay chưa
hẳn đã ngã ngũ vì tác phẩm của nhà văn này quá phức tạp và chứa đầy mâu thuẫn.
Đến nay, việc nghiên cứu vấn đề về tác gia và tác phẩm Vũ Trọng Phụng cũng đạt
được nhiều bước tiến đáng kể nhưng để tránh sự trình bày không cần thiết, chúng
tôi chỉ tập trung vào vấn đề nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng, nhất là
nghệ thuật trào phúng trong tiểu thuyết Số đỏ. Bởi đây là những gợi ý trực tiếp cho
đề tài nghiên cứu của chúng tôi.
Có thể nói các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng có một số phận đặc biệt, phải
chịu bao thăng trầm trong quá trình nghiên cứu; ở vào những giai đoạn có sự biến
đổi xã hội sâu sắc, tác phẩm của ông càng lắm phen trồi sụt.
2.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945
Giai đoạn những năm trước Cách mạng tháng 8, “viết về Vũ Trọng Phụng
chủ yếu là những người bạn văn, đồng nghiệp của ông” [40, 12]. Năm 1936, sau
khi Vũ Trọng Phụng cho đăng tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ trên báo Hà Nội rồi tiểu
5
thuyết Vũ Trọng Phụng làm chấn động dư luận và đã trở thành một cơn “sốc”
trong văn học Việt Nam là vì tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã được thể hiện sự
thật cuộc sống xã hội bấy giờ với cách nhìn mới mẻ. “Cách viết táo bạo của Vũ
Trọng Phụng, đặc biệt là viết về cái dâm ở nhiều nhân vật đã gây nên sự khó chịu
của một số người như Thái Phỉ và Nhất Chi Mai” [2, 16]. Qua bài Văn chương
dâm uế, Thái Phỉ đã nhận xét rằng tác phẩm của Vũ Trọng Phụng không chỉ nói
nhiề u mà còn nói mô ̣t cách thái quá về cái dâm
. Theo ông Thái Phỉ, văn chương
phải có tính nghệ thuật, phải thanh tú, tao nhã. Mặc dù miêu tả về một cái gì xấu xa
bẩn thỉu, nó phải đạt được đến chỗ hoàn toàn của nghệ thuật thì nó mới được gọi là
văn chương. Hơn nữa ông Thái Phỉ chê cả tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng lẫn văn
học Pháp: “Nhưng giá các cụ biết thưởng thức cái văn chương dâm uế ấy ở trong
văn học Pháp thì các cụ sẽ biết rằng ở người ta, tuy dâm uế mà vẫn là văn chương”
[1, 206]. Trong bài Dâm hay không dâm?, Nhất Chi Mai cho rằng Vũ Trọng
Phụng chỉ dùng những chữ bẩn thỉu để thể hiện xã hội u ám mà thôi chứ không
thấy một tia hy vọng nào cả để ra khỏi, khắc phục những hoàn cảnh này: “một nhà
văn nhìn thế gian qua cặp kính đen, có một bộ óc cũng đen và một nguồn văn càng
đen nữa” [40, 139]. Sau khi Vũ Trọng Phụng qua đời tháng 10 năm 1939, tạp chí
Tao Đàn số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng (tháng 12 năm ấy) đăng bài viết phê bình
về nhà văn Vũ Trọng Phụng của những nhà văn tên tuổi: Tam Lang, Nguyễn Tuân,
Thanh Châu, Ngô Tất Tố, Trương Tửu, Lưu Trọng Lư... Ngay từ thời đó, các tác
phẩm của ông đã nhận phải những đánh giá trái chiều. Trong bài Địa vị Vũ Trọng
Phụng trong văn học Việt Nam cận đại (1939), Trương Tửu nhận xét ngòi bút của
Vũ Trọng Phụng rằng: “viết Giông tố, viết Làm đĩ, viết Số đỏ, viết Trúng số độc
đắc, hai cái tiểu thuyết tả chân đến tàn ác, hai cái tiểu thuyết trào phúng đến chua
xót” [27, 69]. Nhưng Vũ Ngọc Phan viết bài Một lối văn riêng, một người bút tả
chân sắc sảo, lỗi lạc (1942) lại phê phán nghệ thuật trào phúng rằng: “Số đỏ của
Vũ Trọng Phụng là một quyển tiểu thuyết hoạt kê, nhưng một lối hoạt kê không lấy
gì làm cao cho lắm” [27, 99], “Cái lối khôi hài của ông trong Số đỏ là một lối khôi
hài nông nổi, tuy nhạo đời, nhưng không căn cứ” [27, 99].
6
2.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến năm 1986
Trong suốt một thời gian dài sau 1945 tác phẩm của Vũ Trọng Phụng bị rơi
vào “nghi án văn học”. Phải chờ tới khi công cuộc đổi mới được tiến hành, vấn đề
Vũ Trọng Phụng mới dần được sáng tỏ. Trong bài Nhớ Vũ Trọng Phụng (1956),
Hoàng Cầm cho rằng, nhờ tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nói chung, tiểu thuyết Số
đỏ nói riêng, chúng ta thêm hiể u bô ̣ mă ̣t đểu cáng của xã hô ̣i dưới chế độ phong
kiến nửa thực dân Pháp. Đồng thời Hoàng Cầm khẳng định và đề cao văn nghiệp
của Vũ Trọng Phụng: “chúng ta càng cần suy nghĩ về những điều Vũ Trọng Phụng
tuy chưa nói ra, nhưng đã ký thác trên giấy, đó là nguyện vọng được sống, được
xây dựng một xã hội tốt đẹp của con người” [27, 123-124]. Qua bài viết Vũ Trọng
Phụng và những tác phẩm của anh (1956), Nguyên Hồng chỉ ra cả những tích
cực và ha ̣n chế trong sáng tác của Vũ Tro ̣ng Phu ̣ng . Ông nhận xét Vũ Trọng Phụng
trong tiểu thuyết Số đỏ nhìn xã hội đương thời với con mắt mỉa mai
, con mắ t ấ y
mô ̣t mă ̣t phát hiê ̣n ra những vấ n đề hế t sức tiêu cực trong xã hô ̣i đương thời nhưng
mă ̣t khác nhañ quan ấ y do chưa đón bắ t đươ ̣c ánh sáng cách
mạng nên mới chỉ có
phá mà chưa có xây : “không nắm được thực tế cách mạng, có sự sống thực tế đấu
tranh cách mạng, hiểu biết và nhìn thấy con đường đi của cách mạng” [27, 129].
Trong bài Vũ Trọng Phụng (1957), Trương Chính đã phân tích những tác phẩm
của Vũ Trọng Phụng như Giông tố, Vỡ đê... trong đó, ông nhâ ̣n xét về Số đỏ như
sau: “Số đỏ là một thiên trào phúng trong đó ông có đưa ra một số hiện tượng quá
quắt về sự Âu hóa trên hình thức để mạt sát, cho nên ta thấy ông có vẻ đúng, nhưng
tư tưởng chủ đạo bao trùm cả tác phẩm thì có phần lệch” [40, 207]. Năm 1957,
Văn Tâm đã xuất bản một quyển sách nhan đề Vũ Trọng Phụng nhà văn hiện
thực. Chương VI của sách này là riêng về đặc trưng nghệ thuật của Vũ Trọng
Phụng. Ông đánh giá về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng là “không phải
chỉ nằm trên mức độ trào lộng thấp kém, pha trò một cách vô tư, phủ nhận những
nhân tố thứ yếu, cục bộ; mà chính đã tiến tới trình độ phúng thích: phá hoại toàn
bộ hệ thống, phủ định những đặc tính cơ bản của đối tượng, gây được sự hờn ghét,
lòng khinh bỉ đến căm thù trong độc giả” [41, 228-229]. Trong bài Vũ Trọng
7
Phụng nhà văn tả chân bất hủ (1960), Nguyễn Duy Diễn nhận xét tiếng cười của
tiểu thuyết Số đỏ là có khi thì mỉa mai, có khi thì chua chát, hóm hỉnh và ngòi bút
trào lộng phóng đại cũng rất thực, không phi thường, vừa ta ̣o nên tiế ng cười , vừa
phục dựng đầy đủ về hiện thực xã hội lúc ấy. Ta gă ̣p những trường hơ ̣p nhà nghiên
cứu không nhấ t quán trong viê ̣c đưa ra những nhâ ̣n đinh
̣ về sáng tác của
Vũ Trọng
Phụng. Vũ Đức Phúc chẳ ng ha ̣n. Trong bài nghiên cứu Nghệ thuật trào phúng của
tác phẩm Số đỏ (1964) đã đánh giá cao Vũ Trọng Phụng: “Với lối văn châm biếm
sắc sảo, tác giả đã cường điệu nhiều hiện tượng của cuộc sống, nhưng nói chung có
phản ánh chân thực và phê phán đích đáng toàn bộ những mặt xấu xa của lối sống
tư sản ở thành thị” [40, 290]. Nhưng đế n bài Vũ Trọng Phụng – nhà văn tự nhiên
chủ nghĩa tiêu biểu (1971) lại phê rấ t nă ̣ng về yế u tố khiêu dâm trong
Số đỏ:
“sáng tác của Vũ Trọng Phụng có một số yếu tố hiện thực rất tốt, nhất là khi Vũ đả
kích xã hội trưởng giả, nhưng những yếu tố ấy lại xen lẫn với nhiều yếu tố độc hại
làm cho khá nhiều sáng tác bị hỏng đi một cách đáng tiếc” [40, 294]. Bài viết Vũ
Trọng Phụng (1965) của Phạm Thế Ngũ khái quát đề tài Số đỏ là câu chuyện của
thằng ma cà bông Xuân Tóc Đỏ và đây là câu chuyện mang tính yếu tố châm biếm
hài hước. Trong Xuân Tóc Đỏ, một tính cách điển hình được hư cấu theo nghệ
thuật phóng đại (1974), Phan Cự Đệ đã phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật
của Số đỏ, đặc biệt là Xuân Tóc Đỏ với nghệ thuật phóng đại. Đế n những năm 80
thì chúng ta mới gặp được những nhận định công bằng đối với
tiểu thuyết Số đỏ .
Nguyễn Hoành Khung trong bài Số đỏ (1984) đã khẳ ng đinh
̣ dứt khoát : “với trình
độ tiểu thuyết già dặn, bút pháp châm biếm đặc biệt sắc sảo, Số đỏ là một trong
những thành tựu nghệ thuật đặc sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại, nhất là trong
thể loại tiểu thuyết trào phúng” [10, 1552].
2.3. Giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay
Giai đoạn này nhiều nhà nghiên cứu đã thẳng thắn ca ngợi bút pháp trào
phúng của Vũ Trọng Phụng trong tiểu thuyết Số đỏ là độc đáo, là trình độ bậc thầy .
Quá trình đổi mới tư duy giúp làm các nhà nghiên cứu mạnh dạn đưa vào sử dụng
những phương pháp luận nghiên cứu mới và vì thế đã lý giải được nhiều hiện
8
tượng văn học quá khứ một cách thuyết phục. Nhiều nhà phê bình đề cập đến một
số vấn đề về nghệ thuật trào phúng trong tiểu thuyết Số đỏ thông qua hình thức
ngôn ngữ, cách thức xây dựng hình tượng nhân vật. Năm 1987, Vũ Ngọc Phan
đánh giá lại tiểu thuyết Số đỏ, khẳ ng đinh
̣ tác giả có tài làm nổi bật lên diê ̣n ma ̣o và
tính cách nhân vật theo phong cách trào lộng dân gian. Theo ông, tác phẩm của Vũ
Trọng Phụng tuy có hạn chế nhưng đã miêu tả hết sức sắc sảo về một xã hội chứa
đầ y mâu thuẫn . Năm 1997, Nguyễn Hoành Khung thêm mô ̣t lầ n nữa bày tỏ sự tâm
đắ c của mình với Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ: Tiếng cười trào phúng của Vũ
Trọng Phụng trong Số đỏ đã “nhắm thẳng vào cái xã hội trưởng giả thành thị học
đòi văn minh rởm khi đó. Ngòi bút trào phúng cay độc của Vũ Trọng Phụng đã
tung hoành thoải mái, đả kích tới tấp vào toàn bộ cái xã hội nhố nhăng thối nát”
[28, 427-428]. Nguyễn Đăng Mạnh có nhiều bài viết về V ũ Trọng Phụng , trong đó
có bài Vũ Trọng Phụng – nhà văn lớn, một hiện tượng văn học phức tạp (1987)
và bài Tiểu thuyết Số đỏ và tài nghệ Vũ Trọng Phụng (1991). Cả hai bài đều chỉ
ra thành công của Vũ Tro ̣ng Phu ̣ng trong viê ̣c ta ̣o đươ ̣c những ch
đô ̣c đáo và đề cao mâu thuẫn trào phúng của tác phẩ m
ân dung hý ho ̣a
: “Đọc Số đỏ, thấy dường
như mỗi chi tiết lại chứa đựng một mâu thuẫn trào phúng nào đó, và đằng sau mỗi
chi tiết ấy, ẩn hiện thấp thoáng một nụ cười vừa thông minh sắc sảo, vừa đầy khinh
bỉ và căm phẫn của nhà văn đối với một tầng lớp xã hội nhố nhăng lố bịch” [27,
447]. Những công trình của các nhà nghiên cứu: Những lớp sóng ngôn từ trong
“Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng (1990) của Đỗ Đức Hiểu, Số đỏ, cuốn “truyện
bợm” kỳ tài (1990) của Hoàng Thiếu Sơn, Nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong Số đỏ
của Vũ Trọng Phụng (1998) của Hà Minh Đức, Chất hài trong câu văn tiểu
thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng (1999) của Nguyễn Thành đều quan tâm nhiều
đến nghệ thuật trào phúng đả kích, châm biếm và còn nhìn nhận tiếng cười ấy như
là thành công của chủ nghĩa hiện thực. Một số nhà nghiên cứu đã so sánh Số đỏ với
những tác phẩm trào phúng khác như truyện Trạng Lợn, Thơ Hồ Xuân Hương,
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan... Trong bài Đôi điều so sánh giữa Số đỏ và
truyện Trạng Lợn (1998), Trần Văn Hiếu đã nêu ra điểm tương đồng và điểm
9
khác biệt giữa hai tác phẩm Số đỏ và truyện Trạng Lợn. Năm 2002, vào nhân dịp
kỷ niệm 90 năm ngày sinh (1912 – 2002) của nhà văn Vũ Trọng Phụng, Viện Văn
học xuất bản một quyển sách nhan đề Bản sắc hiện đại trong các tác phẩm Vũ
Trọng Phụng. Trong đó có bài viết Nhân vật nữ trong sáng tác Vũ Trọng Phụng
của Bích Thu đã bàn về nhân vật trong tiểu thuyết Số đỏ mà đặc biệt chú ý tới nhân
vật phụ nữ: “xây dựng nhân vật bà Phó Đoan, Vũ Trọng Phụng không nhằm mục
đích hướng tới sự yêu ghét mà chỉ nhằm phơi bày “bản chất bất hoàn thiện, khuyết
tổn và suy thoái của con người” là sản phẩm của xã hội vô nghĩa lí đương thời
bằng bút pháp trào phúng tạo hài đặc sắc của ông” [52, 178]. Quyển sách này cũng
đã bao gồm những bài riêng về Số đỏ: Bản chất mỹ học của cái cười trong Số đỏ
của Mai Quốc Liên, Mỹ học nghịch dị trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng của Đào
Tuấn Ảnh. Ngoài ra, Nguyễn Thành Thi, Hoàng Ngọc Hiến, Hoàng Thiếu Sơn
cũng dành nhiều giấy mực để khen về tình chất trào phúng hài hước của Vũ Trọng
Phụng. Hơn nữa, chúng tôi cần chú ý đặc biệt đến tiểu thuyết Số đỏ còn nhận được
sự quan tâm của nhà nghiên cứu nước ngoài và đánh giá cao nghệ thuật trào phúng
với bài Số đỏ của Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa hiện đại Việt Nam của Peter
Zinoman (Hoa Kỳ) và Vũ Trọng Phụng và sự phê phán “Âu hóa” của N.I
Niculin (Nga).
Tóm lại, vấn đề nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng đã được nghiên
cứu từ nhiều góc độ, xem xét trên nhiều bình diện và có những kết luận khác nhau
nhưng hầu hết đã đi tới khẳng định tài năng của ông. Tới nay Vũ Trọng Phụng đã
được nhận vị trí xứng đáng trên văn đàn Việt Nam. Hơn nữa chúng tôi hy vọng là
ông Vũ Trọng Phụng được xem là nhà văn trào phúng lớn và tiểu thuyết Số đỏ
không chỉ là kiệt tác của Việt Nam mà còn góp mặt vào hàng các tác phẩm trào
phúng xuất sắc trên thế giới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Vũ Trọng Phụng sống một cuộc đời ngắn ngủi và chịu nhiều sự nghiệt ngã
của cuộc đời nhưng ông để lại cho chúng ta một số lượng tác phẩm đồ sộ. Ông viết
nhiều thể loại nhưng đặc biệt thành công ở tiểu thuyết và phóng sự. Giông tố
10
(1936), Số đỏ (1936), Trúng số độc đắc (1938) là những tác phẩm đưa Vũ Trọng
Phụng vào hàng những nhà tiểu thuyết lớn. Đồng thời ông cũng là “ông vua phóng
sự của đất Bắc” với những phóng sự như Cạm bẫy người (1933), Cơm thầy cơm cô
(1936). Vũ Trọng Phụng không thành công lắm ở kịch (ông viết không một tiếng
vang (1931)) nhưng khá thành công ở truyện ngắn.
Trong nhiều tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã sử dụng đắc địa nghệ thuật
trào phúng để làm nổi bật vấn đề phản ánh. Nhưng do khuôn khổ của luận văn và
do hạn chế của người viết nên chúng tôi chỉ dừng lại ở tìm hiểu nghệ thuật trào
phúng trong tiểu thuyết Số đỏ.
4. Đóng góp mới của luận văn
Nhiều nhà nghiên cứu văn học đã nghiên cứu những tác phẩm của Vũ Trọng
Phụng và đưa ra ý kiến về vấn đề nghệ thuật trào phúng của Số đỏ. Chính vì vậy đề
tài tìm hiểu về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng không phải đề tài mới
nhưng mục đích của luận văn này là nghiên cứu nghệ thuật trào phúng của Vũ
Trọng Phụng qua tiểu thuyết Số đỏ một cách chi tiết bằng cách nhìn của một học
viên nước ngoài và cố gắng đi đến những nhận định khái quát về thủ pháp nghệ
thuật này. Hy vọng là những kết quả nghiên cứu của luận văn này sẽ góp thêm một
phần nhỏ vào việc nghiên cứu những đặc sắc trong nghệ thuật trào phúng của Vũ
Trọng Phụng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau:
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp hệ thống
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai trong bốn chương.
11
Chương 1: Đặc điểm nghệ thuật của tiểu thuyết trào phúng nói chung và tiểu
thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
Chương 2 : Nhân vật trào phúng trong tiểu thuyết Số đỏ
Chương 3 : Nghệ thuật xây dựng tình huống trào phúng
Chương 4 : Ngôn ngữ và giọng điệu trào phúng trong tiểu thuyết Số đỏ
12
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
Đặc điểm nghệ thuật của tiểu thuyết trào phúng nói chung và tiểu
thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
1.1. Khái lƣợc về trào phúng
Quan niệm về trào phúng có từ lâu nhưng định nghĩa thế nào là trào phúng
lại không đơn giản. Vì trào phúng gắn bó mật thiết với phạm trù cái hài, mà các
cung bậc tiếng cười, hình thức thể hiện và nội dung của cái hài thì rất đa dạng và
phức tạp. Theo định nghĩa trong Từ điển thuật ngữ văn học, trào phúng là “một
loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh
nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa
trương, hài hước... được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng...
những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội” [7, 363]. Trong bài Văn
học trào phúng của Vũ Thanh, trào phúng được chia 3 cấp độ tiếng cười: đó là
tiếng cười hài hước, tiếng cười châm biếm và tiếng cười đả kích. Tiếng cười hài
hước mang tính phê phán ở mức độ nhẹ nhàng, dí dỏm, chủ yếu để gây cười, ở
khía cạnh phát hiện ra sự mất cân đối, hài hòa hoặc mâu thuẫn đáng cười giữa nội
dung và hình thức, mục đích và phương tiện, cái cũ và cái mới... trong cuộc sống.
Tiếng cười hài hước gắn liền với những quan niệm mỹ học và nghệ thuật tiếng
cười thường là để giải trí, cười để thư giãn. Còn tiếng cười châm biếm sử du ̣ng
tiế ng cười là phương tiê ̣n nghê ̣ thuâ ̣t để nhằ m mu ̣c đích phê phán đố i tươ ̣ng : “dùng
lời lẽ sắc sảo, thâm thúy để vạch trần thực chất xấu xa của đối tượng cần phê phán”
[10, 1962] hoặc để có mục đích cải thiện đối tượng trào phúng ấy. “Châm biếm
khác hài hước ở mức độ gay gắt trong phê phán và hình tượng nghệ thuật có ý
nghĩa sâu sắc hơn” [10, 1962-1963]. Nó là một phương tiện phê phán sâu cay và
mạnh mẽ. Tiếng cười đả kích là “tiếng cười phủ định triệt để, quyết liệt, thể hiện
thái độ đối lập của nhà văn, gắn liền với một lý tưởng xã hội tiến bộ, chống lại
những tư tưởng bảo thủ, phản động” [10, 1963]. Mặc dù trào phúng và cái hài có
13
nhiều điểm chung nhưng chúng tôi cho rằng không nên đồng nhất trào phúng với
cái hài. Trào phúng và cái hài đều gây cười, và ngay trong việc nhà văn thể hiện
thái độ trào phúng đối với hiện thực đã chứa đựng yếu tố hài. Nhưng giữa cái hài
và yếu tố hài trong nghệ thuật trào phúng có sự khác nhau về thái độ , sắ c thái và
giọng điệ u phê phán đố i với đố i tươ ̣ng .
Trào phúng xuất phát từ điểm khác giữa lý tưởng về mô ̣t xã hô ̣i tố t đe ̣p với
hiê ̣n thực đáng phê phán đương thời . Đề tài của văn học trào phúng là hiện thực cụ
thể trong đời sống. Chủ đề của văn học trào ph úng là ca ngợi chính nghĩa như cái
hay, cái phải, cái thiện, cái tốt, cái đẹp hoặc phê phán, châm biếm, đả kích những
mâu thuẫn, những nghịch lý và thói vô đạo đức như cái phi nghĩa, cái dở, cái trái,
cái ác, cái xấu chẳng hạn. Đối tượng của nghệ thuật trào phúng có thể là những
người xung quanh, có thể là người nổi tiếng, cũng có thể là một tầng lớp giai cấp,
một tập thể hoặc một dân tộc. Dù với đối tượng nào thì mục đích của nghệ thuật
trào phúng là đề cao cái thiện và thay đổi hiện thực xấu xa, độc ác thông qua
những cung bậc tiếng cười. Văn học trào phúng thường xây dựng hình tượng phủ
định để tạo nên tiếng cười với mục đích châm biếm, mỉa mai và đả kích xã hội
đương thời. Nghệ thuật trào phúng là một phương pháp bộc lộ những sai lầm của
đối tượng và chỉnh sửa nó một cách sinh động, hấp dẫn, cũng có ít nhiều gây được
lòng khinh ghét chứ không phải chỉ gây cười dễ dãi. Hơn nữa nếu nghệ thuật trào
phúng chứa đựng những bài học ý nghĩa triết lý sâu sắc trong tiếng cười thì giá trị
càng lớn hơn.
1.2. Nghệ thuật trào phúng trong văn học hiện thực phê phán
Trên thế giới, văn học theo chủ nghĩa hiện thực phê phán đã được hình thành
vào những năm 30 của thế kỷ XIX nhưng ở Việt Nam thì văn học hiện thực phê
phán xuất hiện muộn, so với những nước khác ở châu Âu khoảng một trăm năm
sau thì mới có. Dòng văn học hiện thực phê phán thuộc phạm trù ý thức hệ tư sản.
“Văn học hiện thực phê phán không chỉ đáp ứng những yêu cầu của cuộc đấu tranh
xã hội trong một thời kỳ lịch sử sôi động mà còn phản ánh quá trình vận động của
các hệ tư tưởng, những sự tác động qua lại của các hình thái ý thức trong kiến trúc
14
thượng tầng” [28, 344]. Luồng tư tưởng dân chủ tư sản của nhà văn Việt Nam đã
được ảnh hưởng và phát triển thông qua những tác phẩm văn học hiện thực phê
phán của Balzac, Xtăngđan, Dickens, L.Tônxtôi, Đôxtôiépxki... Tuy nhiên văn học
Việt Nam trước năm 1930 cũng có tác phẩm mang tính yếu tố của khuynh hướng
hiện thực nhưng không phải là thực tế được phản ánh theo phương pháp của chủ
nghĩa hiện thực , không thể hiện nhu cầu tư tưởng và nghệ thuật theo cách của văn
học hiện thực . Thời kỳ năm 1930 – 1945, do xã hội Việt Nam có những mâu thuẫn
dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, chủ nghĩa hiện thực phê phán được hình thành và
phát triển mạnh mẽ. Thực ra, trong giai đoạn này văn học Việt Nam có nhiều đặc
điểm mới và phức tạp: tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, phong trào Thơ mới, và văn
học hiện thực phê phán. “Nếu như tiểu thuyết lãng mạn của Tự lực văn đoàn xuất
hiện trong cái không khí u ám, buồn thảm của thời kỳ thoái trào cách mạng và
khủng hoảng kinh tế thì tiểu thuyết hiện thực phê phán lại phát triển mạnh mẽ
trong không khí sôi nổi, rầm rộ của thời kỳ Mặt trận Dân chủ” [3 (tập I), 56]. Cách
nhìn xã hội, cách đặt vấn đề, nghệ thuật điển hình hóa trong văn học hiện thực phê
phán khác hẳn thời kỳ trước. Những nhà văn Việt Nam sáng tác tác phẩm theo chủ
nghĩa hiện thực phê phán không phải để nói về mình, cũng không phải để cho mình
thưởng thức mà họ có chú ý đến xã hội đầy mâu thuẫn gay gắt và những vấn đề
bức thiế t đòi hỏi đươ ̣c giải quyết. Nhà văn hiện thực phê phán muốn tìm hiểu hiện
thực một cách chân xác nhấ t nên họ thường đi vào đối tượng phổ biến, rất gần gũi
với đời sống của chúng ta như cuô ̣c số ng của những tầng lớp dân nghèo thành thị
với những phu xe, người đi ở, kép hát, lưu manh, gái điếm, me Tây mạt hạng... còn
“một số truyện phản ánh cuộc sống cơ cực của người nông dân, nạn nhân đau khổ
của bọn hương lý cường hào, bọn quan lại tham nhũng, của chính sách thuế khóa
hà khắc của thực dân” [19, 155].
Tìm hiểu về lịch sử văn học Việt Nam, chúng tôi có thể chia làm 3 thời kỳ
nhỏ (1930 – 1935, 1936 – 1939, 1940 – 1945) theo đặc điểm và sự phát triển của
văn học hiện thực phê phán. Chặng đường 1930 – 1935, văn học lãng mạn với Thơ
mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn chiếm ưu thế hơn cả . Tuy nhiên một số nhà văn
15
hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang và Tú Mỡ dần dần
thu hút được nhiều độc giả với đầy tài năng theo khuynh hướng “tả chân”. Trong
đó, ông Nguyễn Công Hoan đã sáng tác những thể loại mà trong đó được đánh giá
cao là những truyện ngắn trào phúng như Ngựa người người ngựa (1934), Kép Tư
Bền (1935). Tam Lang và Vũ Trọng Phụng là những người mở đầu cho thể loại
phóng sự ở Việt Nam. Tam Lang đã viết tập phóng sự Tôi kéo xe (1932), Vũ Trọng
Phụng cũng viết phóng sự Cạm bẫy người (1933) và Kĩ nghệ lấy Tây (1934) đóng
góp vào văn học hiện thực phê phán. Cây bút đáng chú ý của văn ho ̣c thời kỳ này
còn có Tú Mỡ với thơ trào phúng : “Bằng những vần thơ trào phúng, Tú Mỡ đã phê
phán những cái xấu xa, bỉ ổi, rởm đời cùng với những hủ tục, tập quán lạc hậu
trong xã hội thực dân phong kiến. Tiếng cười trào phúng của ông đậm đà màu sắc
dân tộc, hóm hỉnh, có duyên nhưng đôi khi chưa thật sâu sắc” [38, 202]. Nói chung,
tính chiến đấu của văn học hiện thực phê phán chặng đường này chưa cao, mục
đích phê phán có khi còn chưa chính xác, nền tảng nhân đạo chủ nghĩa chưa vững
vàng nhưng nhà văn hiện thực phê phán đã nỗ lực để phản ánh được tính bất công,
vô nhân đạo của xã hội, đồng thời bộc lộ sự cảm thông, thương xót đối với những
nạn nhân của xã hội đó. Chặng đường 1936 – 1939, thời kỳ Mặt trận Dân chủ, văn
học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ, phong phú trên nhiều thể loại mà trong
đó tiêu biểu nhất là tiểu thuyết và truyện ngắn. Chặng đường này, ngoài Nguyễn
Công Hoan, Ngô Tất Tố, Tú Mỡ, Vũ Trọng Phụng và Tam Lang, xuấ t hiê ̣n nhiề u
nhà văn cách mạng như Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Lạp, Bùi Huy Phồn, Mạnh
Phú Tư... Phạm vi phản ánh, tầm bao quát hiện thực trong văn học hiện thực phê
phán ở giai đoạn này sâu sắc hơn, không chỉ phản ánh những hiện tượng nổi lên
trên bề mặt của xã hội mà còn khám phá được chiều sâu của hiện thực. Nhà văn
hiện thực phê phán đã đặt được những vấn đề lớn có tầm khái quát cao của thời đại
và được thể hiện những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội. “Nhiều cây bút
dường như đã đưa hẳn những sự kiện chính trị, xã hội có tính chất thời sự nóng hổi
vào trong tác phẩm của mình (Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, Tắt
đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Lầm than của Lan
16
Khai, Kim tiền của Vi Huyền Đắc...)” [20, 82]. Chính vì vậy, có thể nhâ ̣n thấ y tình
hình chính trị, xã hội chính là một trong những nhân tố thúc đẩy văn học hiện thực
phê phán phát triển. Chặng đường 1940 – 1945, trong văn học hiện thực phê phán
ít đề cập đến những vấn đề xã hội rộng lớn và cũng ít trực tiếp thể hiện phê phán
những mâu thuẫn xã hội một cách mãnh liệt như ở chặng đường trước. Bởi chế độ
kiểm duyệt khắt khe và sự khủng bố của chính quyền thực dân không cho phép các
nhà văn hiện thực viết về những vấn đề ấy. “Dưới gọng kìm kiểm duyệt của bọn
phát xít, những tác phẩm của Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài... tuy không trực
tiếp bóc trần những mâu thuẫn giai cấp đối kháng trong xã hội và ca ngợi tinh thần
đấu tranh của quần chúng nhưng cũng duy trì được một thái độ dám nhìn thẳng vào
sự thật, thấy được cái không khí oi bức, dông bão của một xã hội đang ngột thở,
đang quằn quại lột xác để chuyển mình, để đổi thay” [28, 351]. Trong trào lưu văn
học hiện thực phê phán ở chặng đường cuối cùng này, Nam Cao được đánh giá cao
với những truyện ngắn Chí Phèo (1941), Lão Hạc (1943), Đời thừa, Một đám cưới
(1944), và tiểu thuyết Sống mòn (1944). Qua hai đề tài người nông dân và người trí
thức tiể u tư sản , Nam Cao đã dựng đươ ̣c bức tranh chân thực về nông thôn Việt
Nam đương thời trên con đường bần cùng hóa, phá sản, không lối thoát, hết sức
đau lòng và khắ c ho ̣a sâu sắ c những tấn bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư
sản nghèo đầy khát vọng, giàu tài năng mà phải số ng mòn.
Như đã nói , trong giai đoạn 1930 – 1945, chúng tôi thấy các nhà văn hiện
thực phê phán đã có ý thức gắn liền cảm hứng sáng tác với hiện thực xã hội và do
đó các tác phẩm của họ được mang tính thời sự. Nhiều tác phẩm đã hòa nhập được
với bầu không khí, những sự kiện văn hóa, chính trị xã hội đương thời. Nhà văn
miêu tả cuộc sống một cách chân thật và miêu tả về con người rất cụ thể, chính xác
nhằm đáp ứng một phần những yêu cầu cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc. “Các nhà văn hiện thực phê phán đều tập trung hướng ngòi bút của
mình vào việc phê phán, tố cáo mãnh liệt những thủ đoạn áp bức bóc lột, những
chính sách mị dân bịp bợm, giả dối của giai cấp thống trị, đồng thời phơi bày nỗi
thống khổ của nhân dân với một thái độ cảm thông sâu sắc” [38, 204]. Trong trào
17
lưu văn học hiện thực phê phán, đã hình thành một dòng chảy của văn học trào
phúng với hàng loạt sáng tác dưới ngòi bút châm biếm sắc sảo của Ngô Tất Tố, với
một bút pháp riêng đầy tính sáng tạo của Nam Cao, truyện ngắn trào phúng của
Nguyễn Công Hoan, dưới ngòi bút đả kích trực diện vào bọn đề quốc Nhật – Pháp
của Nguyên Hồng... và đặc biệt là nhà văn Vũ Trọng Phụng với những tác phẩm
tiểu thuyết như Số đỏ, Giông tố, Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô...
Văn học hiện thực phê phán Việt Nam không phải là không có mạch nguồn
từ trong quá khứ. Ở Việt Nam, truyện tiếu lâm, văn học trào phúng đặc biệt phong
phú, có truyền thống và đã có một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi dân tộc Việt Nam
là một dân tộc yêu chuộng tiếng cười, rất lạc quan, và rất giỏi về nghệ thuật tạo
tiếng cười. “Văn học cười và trào phúng của Việt Nam được sáng tác ra trong
những điều kiện lịch sử nhất định để phục vụ cho giáo dục và đấu tranh giai cấp”
[42, 170] và “đến ngày nay vẫn có tác dụng bồi dưỡng đạo đức, tư tưởng con
người, và rèn giũa ý chí đấu tranh của con người” [42, 171]. Tiểu thuyết hiện thực
phê phán cũng tiếp thu truyền thống hài hước, châm biếm của văn học dân tộc với
nghệ thuật trào phúng dồi dào. Nhưng đối với mục đích của nghệ thuật trào phúng
thì văn chương truyền thống và văn học hiện thực phê phán khác nhau. Tiếng cười
trong văn học truyền thống thì phần lớn là tiếng cười hài hước, cười hả hê vui tươi
và cũng có ít nhiều khi có tiếng cười chế giễu, trào lộng nhưng cũng làm người đọc
thoải mái, thư giãn mà thôi. Nhưng các nhà văn hiện thực phê phán đã sử dụng
tiếng cười trong văn học như những mũi tên nhằm vào một loại đối tượng nào đó
của xã hội. U.Gurannich (Liên Xô) cho rằng tác giả chú ý phân tích những mâu
thuẫn, tính chất xấu xa sai trái trong hoàn cảnh bằng phương tiện của văn châm
biếm vì “văn châm biếm và khôi hài là vũ khí sắc bén và có hiệu lực để đấu tranh
nhằm khẳng định đạo đức cộng sản chủ nghĩa” [6, 45]. Vì tiếng cười mang trong
mình sức mạnh cách mạng, góp phần vào việc lật đổ các thế lực phản động trong
xã hội giai cấp. “Thơ trào phúng của Tú Mỡ thường xuyên châm biếm, đả kích
những người và việc diễn ra hàng ngày. Nhiều phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng
Phụng đã phản ánh và tố cáo nhanh nhạy, kịp thời những tệ nạn xã hội bị dư luận
18
lên án” [38, 213-214]. Chính vì vậy, những nhà văn hiện thực phê phán đã có ý
thức sử dụng đến tiếng cười phê phán trào phúng để lên án tố cáo những mặt xấu
xa thối nát, rởm đời của xã hội thực dân phong kiến đương thời, và nói lên nỗi
thống khổ của các tầng lớp nhân dân lao động. Còn văn học hiện thực phê phán
của Việt Nam là vừa kế thừa truyền thống thích cười vừa khắc phục những nhược
điểm còn tồn tại trong thế giới quan để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ mới mẻ của thời
kỳ hiện đại.
Đầu năm thế kỷ XX, ở Hàn Quốc bắt đầu hình thành văn học hiện đại với
phong trào Shinmunhak (văn học mới), nhà văn tiêu biểu là Yi Kwang Su, Kim
Tong In, Kim Yoo Jeong... Trong bài Văn Xuôi Triều Tiên trên đường hiện thực
chủ nghĩa, giáo sư Yu Chong Ho cho rằng văn xuôi Triều Tiên thời kỳ đầu có quan
điểm coi văn học như là một công cụ để xây dựng hoặc khai sáng xã hội cho nên
những tác phẩm không tránh khỏi mang tính chất giáo huấn khô cứng. Nhưng nhận
thức về vai trò khai sáng và giải phóng của văn học lại ngày càng phù hợp với
quan niê ̣m sáng tác của các nhà văn đi theo xu hướng chủ nghĩa hiện thực. Nói về
thời kỳ này chúng tôi không thể không nhắc tên của ông Yom Sang Sop và Chae
Man Shik vì hai ông này đều là nhà văn hiện thực phê phán tiêu biểu nhất trong
giai đoạn này và đã phản ánh đươ ̣c nhiề u phương diện thực tế Hàn Quốc thời thuộc
địa thông qua nghệ thuật trào phúng. Ông Yom Sang Sop đã viết tiểu thuyết
Mansejeon (Trước hoan hô) và Sam đae (Ba thế hệ), trong đó ông đã nêu bâ ̣t l ên
những đă ̣c trưng hiện thực chủ nghĩa một cách sắc sảo. Sam đae là “một tác phẩm
hiếm hoi kết hợp được cả tiểu thuyết xã hội và tiểu thuyết phong tục. Nhờ bức
tranh xã hội rộng lớn và những bức chân dung tính cách sinh động thể hiện trong
đó, cuốn tiểu thuyết này đã được xem như một trong những thành tựu nổi bật của
văn học Triều Tiên đương đại” [11, 17]. Đối với ông Chae Man Shik, tuy tác phẩm
của ông không nhiều nhưng các tác phẩm đều mang đậm cảm hứng phê phán.
Trong tiểu thuyết Thakryu (Dòng chảy tăm tối) đã nêu lên những mâu thuẫn xã hội
đầy bất công và dối trá và tố cáo sự bóc lột kinh tế của Nhật Bản một cách mạnh
mẽ. Ngày ấy, người dân Hàn Quốc sống khổ dưới ách đô hộ Nhật Bản cũng như
19
Việt Nam dưới chế độ nửa phong kiến thực dân Pháp. Chính quyền đô hộ hiểu rõ
văn học chính là một thứ vũ khí sắc bén và lợi hại có thể làm lung lay địa vị thống
trị của chúng. Vì các nhà văn thực sự có năng lực, có tinh thần dân tộc, có thể sử
dụng ngòi bút của mình để tuyên truyền, quảng bá được cho đại chúng tinh thần
yêu nước và đấu tranh giải phóng trong thời gian ngắn. Cho nên chính quyền đô hộ
Nhật Bản đã kiểm soát khắt khe văn học Hàn Quốc “buộc các nhà văn phải quay
sang viết các tiểu thuyết về các sự kiện quá khứ để giúp họ tạm thời lảng tránh
những vấn đề hiện tại” [11, 17]. Sự kiểm duyệt này giúp Nhật tránh được những
hoạt động cách mạng và kêu gọi độc lập đất nước Hàn Quốc thông qua những tác
phẩm văn học tiến bộ và mang tinh thần dân tộc. Chính trong thời kỳ khó khăn này
của văn học, mảng văn học hiện thực phê phán là một sức mạnh hết sức cần thiết
và đã được phát triển mạnh mẽ. Bởi thông qua nghệ thuật trào phúng, nhà văn có
thể phê phán và công kích chế độ phát – xít Nhật một cách gián tiếp đồng thời độc
giả hoàn toàn có thể hiểu được dụng ý của nhà văn. Vì vậy rất nhiều nhà văn Hàn
Quốc quan tâm và chú trọng đến văn học trào phúng. Cũng như ở Hàn Quốc, ở
Việt Nam trong một xã hội thực dân Pháp nửa phong kiến, tác phẩm văn học chịu
sự kiểm duyệt khắc nghiệt của chính quyền thực dân. Nên tác phẩm không thể phê
phán đả kích mạnh mẽ trực diện bọn thực dân và không thể đề cập tới mâu thuẫn
cơ bản của dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp một cách trực tiếp, do đó nghệ
thuật trào phúng đã trở thành một công cụ hữu ích có sức công phá mạnh mẽ vào
chế độ thực dân Pháp, phát xít Nhật và về sau là chế độ Mỹ - ngụy.
Như đã nói ở trên, văn học hiện thực phê phán mang tính lịch sử và không
phải là hiện tượng cá biệt. Do ảnh hưởng của chế độ thực dân, văn học hiện thực
phê phán và nhất là văn học trào phúng xuất hiện và rất phát triển ở Hàn Quốc và
Việt Nam. Điểm chung của các tác phẩm hiện thực phê phán là bộc lộ, phê phán,
đả kích, phủ định trật tự xã hội đương thời. Các nhà văn hiện thực phê phán luôn
có ý thức sử dụng một cách đắc địa và hiệu quả nghệ thuật trào phúng để phát huy
cao nhất sức mạnh của ngòi bút. Nghệ thuật trào phúng làm cho những hiện tượng
giả dối, nhố nhăng, vô đạo lý … trở nên lố bịch và nực cười nhưng đằng sau tiếng
20
- Xem thêm -